Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

quan điểm của đảng cộng sản việt nam về phát triển kinh tế tư nhân và ý nghĩa của quan điểm đó đối với sự phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.85 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU TRANG

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ Ý
NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM ĐÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội - 2011


Mục lục
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................4
2. Tình hình nghiên cứu............................................................................5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................6
4. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu.........................................................7
5. Cơ sở nghiên cứu và ph-ơng pháp nghiên cứu...................................7
6. ý nghĩa của luận văn.............................................................................7
7. Kết cấu của luận văn.............................................................................8
Nội dung
Ch-ơng 1: Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tnhân và thực trạng phát triển kinh tế t- nhân ở n-ớc ta hiện nay
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng cộng sản Việt Nam đề ra quan
điểm về phát triển kinh tế t- nhân.....................................................................9
1.2. Sự tiến triển trong quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về


phát triển kinh tế t- nhân .................................................................................23
1.3.Thực trạng phát triển kinh tế t- nhân ở n-ớc ta những năm đổi
mới.......................................................................................................................48
Ch-ơng 2: ý nghĩa quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế t- nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở n-ớc ta hiện nay
2.1. Quan điểm phát triển kinh tế t- nhân của Đảng cộng sản Việt
Nam làm thay đổi t- duy lý luận trên các lĩnh vực.........................................58
2.2. Quan điểm phát triển kinh tế t- nhân của Đảng cộng sản Việt
Nam góp phần giải phóng lực l-ợng sản xuất, làm tăng thu nhập của xã
hội........................................................................................................................71
2.3. Quan điểm phát triển kinh tế t- nhân của Đảng cộng sản Việt
Nam góp phần giải quyết lao động việc làm và các vấn đề xã hội của đất
n-ớc ....................................................................................................................79

1


2.4. Quan điểm phát triển kinh tế t- nhân của Đảng cộng sản Việt
Nam đòi hỏi đổi mi hệ thống pháp luật và các tổ chức chính trị - xã
hội........................................................................................................................87
2.5. Quan điểm phát triển kinh tế t- nhân của Đảng cộng sản Việt
Nam mở rộng quan hệ đối ngoại của đất n-ớc................................................94
Kết luận........................................................................................................101
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................104

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH: Chủ nghĩa xã hội

CNTB: Chủ nghĩa tƣ bản
DNTN: Doanh nghiệp tƣ nhân
QHSX: Quan hệ sản xuất
KTTT: Kinh tế thị trƣờng
LLSX: Lực lƣợng sản xuất
TBCN: Tƣ bản chủ nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

3


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Kinh tế t- nhân là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. Kinh tế t- nhân đ-ợc hiểu là loại hình tổ
chức kinh tế dựa trên sở hữu t- nhân về t- liệu sản xuất. Thành phần của kinh tế
t- nhân gồm: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế t- bản t- nhân. Kinh tế cá
thể là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên
cơ sở sở hữu t- nhân về t- liệu sản xuất và lao động của chính hộ cá nhân gia
đình đó, không thuê m-ớn lao động làm thuê. Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh
tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu t- nhân
về t- liệu sản xuất và có sử dụng lao động thuê m-ớn ngoài lao động của chủ;
quy mô vốn đầu t- và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp t- nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Kinh tế t- bản t- nhân bao
gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn (do một số t- nhân làm chủ), doanh nghiệp
t- nhân (là do một t- nhân làm chủ) và công ty cổ phần đ-ợc thành lập theo Luật
Doanh nghiệp t- nhân, Luật Công ty.
ở các n-ớc theo kinh tế thị tr-ờng, sở hữu t- nhân đ-ợc coi là một trong
những động lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế t- nhân có nhiều
tác dụng: tạo ra động lực cho sản xuất kinh doanh, duy trì cạnh tranh giúp nền

kinh tế trở nên năng động hơn; đa dạng hoá các chủ thể tham gia thị tr-ờng, góp
phần khai thác và sử dụng một cách hiệu quả nguồn lao động xã hội... Kinh tế tnhân gắn liền với sở hữu t- nhân nên có thể truyền lại cho thế hệ sau tài sản, kiến
thức, kinh nghiệm, từ đó tạo ra động lực phát triển kinh tế không ngừng.
Đối với n-ớc ta, phát triển kinh tế t- nhân lại càng có vai trò quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n-ớc. Kinh tế t- nhân đã góp
phần to lớn trong việc huy động các nguồn vốn trong xã hội cho đầu t-, phát
triển nguồn nhân lực, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hiện đại hoá sản xuất,
từ đó góp phần vào sự thành công của công cuộc xây dựng XHCN ở n-ớc ta.
Kinh tế t- nhân có vị trí và tác dụng nh- vậy nh-ng ở n-ớc ta, trong một
thời gian dài đã từng tồn tại phổ biến quan điểm đối lập kinh tế t- nhân với các
thành phần kinh tế XHCN, với chủ tr-ơng cải tạo kinh tế XHCN, đẩy mạnh kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Nh-ng trải qua thực tiễn đổi mới và quản lý
4


kinh tế thời gian qua , với sự đóng góp và phát triển của kinh tế t- nhân đối vi
sự phát triển kinh tế xã hội của đất n-ớc đã cho thấy những hạn chế của doanh
nghiệp nhà n-ớc và tập thể ở n-ớc ta. Từ khi có nhận thức mới của Đảng ta về
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ thì kinh tế t- nhân đã
đ-ợc thừa nhận, và trên thực tế, thành phần kinh tế này đã có những đóng góp to
lớn cho sự tăng tr-ởng của nền kinh tế quốc dân, nhất là trong những năm gần
đây.
Tuy nhiên, để kinh tế t- nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ d-ới sự lãnh
đạo của Đảng, có nhiều vấn đề cần đ-ợc tiếp tục bổ sung, đổi mới. Nghiên cứu
quan điểm của Đảng đối với thành phần kinh tế này để thấy đ-ợc sự tồn tại tất
yếu của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở n-ớc ta hiện nay, nhằm
đánh giá đúng vị trí, ý nghĩa, vai trò của kinh tế t- nhân trong nền kinh tế thị
tr-ờng định h-ớng XHCN ở Việt Nam đang là yêu cầu cần thiết cả về mặt lý luận
và thực tiễn.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài Quan điểm của Đảng cộng sản

Việt nam về phát triển kinh tế t- nhân và ý nghĩa của quan điểm đó đối với sự
phát triển kinh tế- xã hội ở n-ớc ta hiện nay làm đề tài luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu:
Từ khi Đảng ta chủ tr-ơng chuyển sang nền kinh tế thị tr-ờng có sự điều
tiết của nhà n-ớc theo định h-ớng XHCN, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã rất
chú ý đến sự phục hồi và phát triển của kinh tế t- nhân
Có thể kể đến những công trình nh- sau:
* Nhóm thứ nhất là những công trình nghiên cứu mang tính lý luận, quản
lý hành chính nhà n-ớc về sở hữu t- nhân và kinh tế t- nhân ở Việt Nam, tiêu
biểu nh-:
- PGS.TS. Trịnh Thị Hoa Mai: Kinh tế t- nhân Việt Nam trong tiến trình
hội nhập. NXB Thế Giới, Hà Nội, 2005.
- Định Thị Thơm: Kinh tế t- nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới, thực
trạng và những vấn đề. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005.
- GS. TS. Hồ Văn Vĩnh: Kinh tế t- nhân và quản lý nhà n-ớc đối với kinh
tế t- nhân ở n-ớc ta hiện nay. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
5


- Lê Khắc Triết: Đổi mới và phát triển kinh tế t- nhân Việt Nam, thực
trạng và giải pháp. NXB Lao động, 2005...
Các công trình này đã đi vào phân tích quan điểm của các nhà kinh điển về
sở hữu, sở hữu t- nhân, về kinh tế t- nhân, phân tích các chính sách của Nhà
n-ớc ta về thực thể kinh tế này, đồng thời chỉ ra các giải pháp giúp cho kinh tế tnhân Việt Nam có những b-ớc phát triển mới...
Ngoài ra, trên các tạp chí nh-: Tạp chí triết học, tạp chí Cộng sản, lý luận
chính trị cũng có khá nhiều bài viết liên quan đến vấn đề phát triển kinh tế tnhân ở n-ớc ta hiên nay.
* Nhóm thứ hai là những công trình mang tính thực tiễn nh-: "Phát triển
và quản lý kinh tế ngoài quốc doanh" do PGS.TS Hoàng Kim Giao làm chủ
nhiệm; "Về việc phát triển kinh tế t- nhân trong giai đoạn hiện nay của Trần Thị

Hạnh, luận án tiến sỹ kinh tế, năm 1994; "Kinh tế t- nhân ở Việt Nam từ 1986 1995" của Hồ Sỹ Lộc, Luận án Phó Tiến sỹ khoa học Lịch sử, năm 1996... Về cơ
bản, các công trình trên ít nhiều đã tiến hành điều tra doanh nghiệp t- nhân tại
một số tỉnh, thành trên khắp cả n-ớc, đã nêu ra đ-ợc khái niệm về hoạt động kinh
doanh t- nhân, các hình thức tổ chức hoạt động kinh doanh t- nhân....
Qua những công trình nghiên cứu trên đây đã cho thấy hiện trạng sôi động
của kinh tế t- nhân ở n-ớc ta hiện nay. ở từng góc độ, các công trình nghiên cứu
ấy đã cung cấp những thông tin, số liệu đáng quan tâm cho các nhà nghiên cứu,
có giá trị đối với việc thực hiện luận văn này. Tuy nhiên vẫn ch-a có công trình
nào khảo sát một cách có hệ thống các chủ tr-ơng, chính sách về kinh tế t- nhân
của Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là thời điểm những năm gần đây.
Chọn và nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hi vọng qua luận văn của mình
sẽ phần nào làm rõ thêm quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế t- nhân từ
sau Đại hội VI đến nay để từ đó thấy đ-ợc ý nghĩa của quan điểm đó đối với sự
phát triển kinh tế xã hội ở n-ớc ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế t- nhân, thực trạng phát triển kinh tế t- nhân ở Việt Nam những năm đổi

6


mới vừa qua, luận văn rút ra ý nghĩa quan điểm đó đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở n-ớc ta hiện nay.
* Để đạt đ-ợc mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
cơ bản sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn hình thành và những nội dung quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế t- nhân.
- Trình bày thực trạng phát triển kinh tế t- nhân ở n-ớc ta trong những năm
đổi mới vừa qua.
- Rút ra những ý nghĩa trong quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tnhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở n-ớc ta hiện nay.

4. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối t-ợng nghiên cứu:
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế t- nhân; ý
nghĩa quan điểm đó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở n-ớc ta hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế t- nhân từ
sau Đại hội VI đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phạm vi nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Đề tài đ-ợc thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và
t- t-ởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế t- nhân nói
riêng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Ph-ơng pháp nghiên cứu:
Đề tài dựa trên cơ sở ph-ơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời vận dụng tổng hợp các ph-ơng pháp:
phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, lôgíc và lịch sử, khái quát hoá và
trừu t-ợng hoá...
6. ý nghĩa của luận văn
Đề tài đã hệ thống hoá cơ sở hình thành cũng nh- nội dung quan điểm của
Đảng về phát triển kinh tế t- nhân trong nền kinh tế thị tr-ờng định h-ớng xã
hội chủ nghĩa. Từ đó luận văn đã phân tích làm rõ ý nghĩa quan điểm đó của
Đảng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở n-ớc ta trong giai đoạn hiện nay .
7


Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến
vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 2
ch-ơng và 8 tiết.


8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
1.1.CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ RA QUAN ĐIỂM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN
1.1.1.Cơ sở lý luận.
Kinh tế thị trƣờng (giai đoạn cao của kinh tế hàng hoá) là nền kinh tế dựa
vào thị trƣờng để vận động và phát triển, là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh
trình độ phát triển nhất định của sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế thị trƣờng ngƣời
ta thƣờng nghĩ ngay tới CNTB. Kinh tế thị trƣờng tồn tại và phát triển chủ yếu
dƣới CNTB, là một nhân tố quan trọng bậc nhất, quyết định sự tồn tại và phát
triển của CNTB. Kinh tế thị trƣờng TBCN thực ra có lịch sử từ nền kinh tế hàng
hoá giản đơn trƣớc đó, nhƣng có một sự khác biệt rất lớn: Kinh tế hàng hoá giản
đơn vận động theo công thức H – T – H (bán hàng lấy tiền để mua hàng), còn
nền kinh tế thị trƣờng TBCN vận động theo công thức T - H – T (lấy tiền mua
hàng, bán hàng lấy đƣợc tiền nhiều hơn số tiền đã mua). Công thức này phản ánh
bản chất của nền kinh tế thị trƣờng TBCN là bóc lột giá trị thặng dƣ của lao động
làm thuê mà biểu hiện của nó dƣới hình thức lợi nhuận. Kinh tế hàng hoá giản
đơn dƣới sự tác động của quy luật giá trị dẫn đến phân hoá những ngƣời sản xuất
nhỏ, hình thành mầm mống của quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa. Kinh tế thị
trƣờng TBCN không chỉ chịu sự tác động của quy luật giá trị mà còn chịu sự tác
động của quy luật giá trị thặng dƣ, là quy luật kinh tế cơ bản, hay tuyệt đối (theo
Mác) và tồn tại trong hệ thống các quy luật kinh tế khác của CNTB. CNTB nhờ
biết tận dụng tối đa ƣu thế của kinh tế thị trƣờng nên đã thúc đẩy đƣợc các mục
tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, từ đó thúc đẩy LLSX

của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trƣờng đã phát triển tới giai
đoạn khá cao và phồn thịnh ở các nƣớc TBCN.
Mặc dù kinh tế thị trƣờng tồn tại và phát triển chủ yếu dƣới CNTB, tuy
nhiên, thực tiễn ở các nƣớc XHCN đã cho thấy, kinh tế thị trƣờng vẫn có thể tồn
tại và phát triển. Kinh tế thị trƣờng XHCN tuy vẫn chịu tác động của quy luật giá
9


trị (quy luật chung của kinh tế thị trƣờng), nhƣng đồng thời cũng chịu tác động
của quy luật kinh tế cơ bản (quy luật quy định mục đích khách quan của nền sản
xuất XHCN là không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của mọi
thành viên trong xã hội) và các quy luật kinh tế khác của xã hội XHCN. Ở đây,
Nhà nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản có vai trò rất quan trọng. Nhà
nƣớc định hƣớng nền kinh tế thị trƣờng bằng những chính sách kinh tế vĩ mô và
luật pháp, thực hiện các chƣơng trình phát triển kinh tế xã hội trên cơ sở vận
dụng các quy luật giá trị và quy luật phát triển có kế hoạch, cân đối toàn bộ nền
kinh tế quốc dân; đƣa những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất,
không ngừng nâng cao năng suất lao động, làm ra nhiều sản phẩm chất lƣợng
cao, giá rẻ, có sức cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế. Trên cơ sở đó, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho mỗi thành viên và mỗi cộng
đồng, củng cố và phát triển vững chắc chế độ XHCN.

. Đảng ta coi đó là
mô hình tổng quát trong thờì kỳ quá độ ở nƣớc ta. Đó là một chủ trƣơng hoàn
toàn đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế
Kinh tế tƣ nhân gắn chặt với sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng
hoá, đồng thời, sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá lệ thụôc vào sự
phát triển của kinh tế tƣ nhân. Đây là mối quan hệ song hành, gắn bó chặt chẽ
với nhau, chế định lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Trong nền kinh tế hàng
hoá, kinh tế tƣ nhân là loại hình kinh tế tồn tại và phát triển dựa trên quan hệ sở

hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất, vốn và kết quả sản xuất kinh doanh.
Ở nƣớc ta cho đến trƣớc Đại hội X của Đảng vẫn có nhiều quan niệm khác
nhau về nội hàm khái niệm kinh tế tƣ nhân. Và khái niệm kinh tế tƣ nhân không
đồng nhất với khái niệm thành phần kinh tế tƣ nhân. Kinh tế tư nhân được hiểu
là một phạm trù dùng để chỉ một nhóm các thành phần kinh tế dựa trên cơ sở chế
10


độ sở hữu tư nhân về TLSX, tồn tại dưới các hình thức tổ chức kinh doanh như
doanh nghiệp, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp doanh,
các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ và các bộ phận doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài
Tuy nhiên, theo tinh thần của Đại hội X, kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta bao
gồm các thành phần: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tƣ bản tƣ nhân. Kinh tế tƣ
nhân ở nƣớc ta có đặc điểm là phát triển dƣới sự lãnh đạo của Đảng và theo sự
quản lý của Nhà nƣớc. Song phải thấy rằng, tính chất và trình độ của kinh tế cá
thể, tiểu chủ và kinh tế tƣ bản tƣ nhân ở nƣớc ta là khác nhau, nhƣng chúng có
mối liên hệ với nhau:
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ (của nông dân, thợ thủ công, ngƣời làm thƣơng
nghiệp và dịch vụ cá thể) bao gồm những đơn vị kinh tế dựa trên chế độ sở hữu
tƣ nhân nhỏ về tƣ liệu sản xuất và hoạt động dựa chủ yếu vào sức lao động của
chính họ.
Ở thành thị và nông thôn, kinh tế cá thể, tiểu chủ có thể tồn tại độc lập
dƣới hình thức: xƣởng thợ gia đình, công ty tƣ nhân nhỏ, hộ kinh doanh thƣơng
mại - dịch vụ, hộ làm kinh tế trang trại; hoặc có thể tham gia liên kết, liên doanh
với cả các tổ hợp kinh tế khác dƣới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần...
- Kinh tế tƣ bản tƣ nhân là những đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một
số nhà tƣ bản góp lại để sản xuất – kinh doanh và có thuê mƣớn nhân công. Kinh
tế tƣ bản tƣ nhân dựa trên sở hữu tƣ nhân tƣ bản chủ nghĩa về tƣ liệu sản xuất và

do thuê mƣớn công nhân nên có sự bóc lột những ngƣời lao động làm thuê. Tƣ
bản tƣ nhân là ngƣời sản xuất kinh doanh theo lối tƣ bản chủ nghĩa để thu lợi
nhuận, hình thức biểu hiện của giá trị thặng dƣ, do những ngƣời lao động tạo ra.
Phát triển KTTN trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng XHCN là một xu thế tất yếu, khách quan, phù hợp với quy
luật phát triển của nền sản xuất xã hội. Đảng ta xác định đây là một chủ trƣơng
nhất quán, lâu dài ở nƣớc ta hiện nay. Điều đó xuất phát từ những cơ sở lý luận,
nền tảng sau đây.

11


*.Quan điểm của C.Mác và Ph.Ănghen về vấn đề xoá bỏ chế độ sở hũu tư
nhân trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa cộng sản.
Qua quá trình nghiên cứu thực tiễn nền sản xuất TBCN, một mặt, Mác và
Ănghen thừa nhận vai trò quan trọng của CNTB trong việc thúc đẩy sự phát triển
của LLSX, tạo điều kiện nâng cao khả năng sáng tạo phong phú của con ngƣời;
nhƣng mặt khác, hai ông cũng chỉ ra bản chất của nền sản xuất TBCN là bóc lột
giá trị thặng dƣ, gắn liền với tình trạng tha hoá của lao động. Vì vậy, để xoá bỏ
tình trạng áp bức, bóc lột, bất công đó thì hai ông đã chỉ ra biện pháp là phải xoá
bỏ chế độ chiếm hữu tƣ nhân TBCN về tƣ liệu sản xuất và xây dựng chủ nghĩa
cộng sản.
Tuy nhiên các ông cũng chỉ rõ việc xoá bỏ chế độ tƣ hữu không phải là
một hành động tức thời mà phải là một quá trình lâu dài. Do đó, chỉ có thể cải
tạo xã hội một cách dần dần và "chỉ khi nào đã tạo nên đƣợc một khối lƣợng
TLSX cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu đƣợc chế độ tƣ hữu"
[23, tr.469]. Sự xoá bỏ chế độ tƣ hữu trong CNXH không phải là xoá bỏ bằng
mọi cách, mà đó là "sự xoá bỏ một cách tích cực chế độ tƣ hữu" [27,tr.167].
Trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", hai ông cũng đã khẳng định điều này:
"Chủ nghĩa cộng sản không tƣớc bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản

phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tƣớc bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để
nô dịch lao động của ngƣời khác", và "đặc trƣng của chủ nghĩa cộng sản không
phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xoá bỏ chế độ sở hữu tƣ sản"
[23,tr.615]. Tức là ở đây, Mác muốn nói đến bản chất của chủ trƣơng xoá bỏ chế
độ tƣ hữu là xoá bỏ một chế độ kinh tế mà trong đó, một thiểu số ngƣời nắm
TLSX dùng nó để bóc lột , nô dịch đa số những ngƣời lao động làm thuê. Sự xoá
bỏ đó diễn ra một cách có ý thức, luôn giữ lại tất cả những gì là hợp lý, tiến bộ
của sự phát triển trƣớc đó; không phải là xoá bỏ mọi hình thức kinh doanh có
trong chế độ tƣ hữu về TLSX.
Từ quan điểm trên của Mác và Ănghen, tác giả Nguyễn Tấn Hùng trong
một bài trao đổi thảo luận trên tạp chí Lý luận chính trị (số 11 - 2002) đã rút ra
kết luận: "Mục đích của xoá bỏ chế độ tƣ hữu và thiết lập công hữu là thiết lập
quyền làm chủ của nhân dân lao động đối với những TLSX chủ yếu của xã hội,
12


đa dạng hoá các hình thức sở hữu, không để TLSX tập trung trong tay một thiểu
số, làm cho TLSX gắn bó hơn với những ngƣời lao động, từ đó, làm động lực
cho ngƣời lao động quan tâm hơn đến TLSX và hoạt động sản xuất kinh doanh"
[15, tr.81].
Nhƣ chúng ta đã biết, mỗi phƣơng thức sản xuất bao gồm trong nó LLSX
và một quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX ấy. Trong
đó LLSX là cái quyết định đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, là cái mà
qua đó chúng ta có thể nhận biết đƣợc trình độ phát triển của xã hội, là biểu hiện
mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên trong quá trình sản xuất và trình độ
chinh phục tự nhiên của con ngƣời. Còn QHSX là quan hệ cơ bản giữa ngƣời với
ngƣời trong sản xuất vật chất. QHSX bao gồm quan hệ sở hữu về TLSX, quan hệ
tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động cho nhau, quan hệ phân phối sản phẩm. Đó
là 3 mặt không thể tách rời của QHSX mà trong đó, quan hệ sở hữu về TLSX là
cơ sở, có ý nghĩa quyết định bản chất của quan hệ sản xuất, mục đích của sự phát

triển kinh tế - xã hội, do đó, nó quyết định xu hƣớng của nền kinh tế. Quan hệ sở
hữu là kết quả, đồng thời là điều kiện cho LLSX phát triển. Mỗi hình thức sở
hữu chƣa thể mất đi khi chúng còn phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX.
Về vấn đề này, Mác đã chỉ ra rằng: "Không có một hình thức xã hội nào diệt
vong trƣớc khi tất cả những LLSX mà hình thức xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ
cho phát triển, vẫn chƣa phát triển, và những QHSX mới, cao hơn cũng không
bao giờ xuất hiện trƣớc khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ
đó chƣa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Cho nên nhân loại bao giờ
cũng đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết đƣợc, vì khi xét
kỹ hơn, bao giờ ngƣời ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh khi
những điều kiện vật chất để giải quyết những nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra
cũng đang ở trong quá trình hình thành" [24, tr.16].
Quan điểm trên đây của Mác có ý nghĩa to lớn đối với những nƣớc đang
trong thời kỳ quá độ lên CNXH nhƣ ở nƣớc ta. Một nƣớc có nền kinh tế mà trình
độ của LLSX không đồng đều thì việc thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở
hữu là khách quan và cần thiết, phù hợp với quy luật QHSX phù hợp với tính
chất và trình độ của LLSX. Điều này cũng giúp ta hiểu hơn câu nói của Mác khi
13


ông trình bày về giai đoạn thấp của Chủ nghĩa cộng sản (tức CNXH): đó là một
xã hội "vừa thoát thai từ xã hội TBCN, do đó, là một xã hội về mọi phƣơng diện
- kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng
ra... Giữa xã hội TBCN và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ
quá độ chính trị ,và nhà nƣớc của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền
chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản" [25, tr.33]. Nhƣ vậy thời kỳ quá độ
là thời kỳ sinh nở mang trong mình "những cơn đau đẻ kéo dài". Xã hội mới đã
ra đời nhƣng vẫn còn mang "những dấu vết của xã hội mà nó đã lọt lòng ra". Xã
hội mới - XHCN không thể nào ngay một lúc có thể xoá đi cái "dấu vết đặc

trƣng" của CNTB là kinh tế thị trƣờng.
*Quan điểm của Lênin về sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên CNXH.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mƣời Nga, chính quyền Xô viết non
trẻ đã lâm vào cuộc nội chiến khốc liệt, do các giai cấp thống trị vừa bị lật đổ
gây ra. Chúng dựa vào sự ủng hộ của bọn đế quốc bên ngoài hòng khôi phục lại
"thiên đƣờng" đã mất của chúng. Đứng trƣớc tình hình đó, Lênin và Đảng
Bônsêvích đã chủ trƣơng thi hành "chính sách cộng sản thời chiến". Nội dung cơ
bản của chính sách này là dùng những biện pháp mệnh lệnh, hành chính để tƣớc
đoạt giai cấp tƣ sản, xoá bỏ buôn bán, thực hiện sản xuất và phân phối sản phẩm
theo kế hoạch trên quy mô cả nƣớc, trƣng thu lƣơng thực thừa của nông dân. Với
chính sách này, tuy một mặt có tác dụng giúp cho chính quyền Xôviết có đƣợc
các nguồn lực vật chất cần thiết để đánh tan thù trong, giặc ngoài, nhƣng mặt
khác, nó cũng đã đẩy nƣớc Nga lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
hết sức trầm trọng sau chiến tranh. Ở nƣớc Nga lúc đó, cả sản xuất nông nghiệp
và công nghiệp đều suy sụp, đời sống của các tầng lớp nhân dân ngày càng khó
khăn, sa sút.
Nhận thấy không thể tiếp tục thực hiện chính sách cộng sản thời chiến vì
những hạn chế và sự kìm hãm của nó đối với nền kinh tế đất nƣớc, Lênin và
những ngƣời lãnh đạo chính quyền Xô viết nhanh chóng bắt tay vào thực hiện
"chính sách kinh tế mới" (NEP). Bƣớc ngoặt mang tính sáng tạo đầu tiên trong
14


"chính sách kinh tế mới” của Lênin chính là thực hiện thu thuế lƣơng thực thay
cho chế độ trƣng thu lƣơng thực thừa. Chính sách này đã cho phép ngƣời nông
dân đƣợc tự do trao đổi trên thị trƣờng số lƣơng thực thừa sau khi đã nộp thuế.
Cũng trong chính sách này, Lênin còn chủ trƣơng xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần ở nƣớc Nga. Theo Ngƣời, ở nƣớc Nga lúc bấy giờ tồn tại 5 thành
phần kinh tế cơ bản: 1.Kinh tế nông dân kiểu gia trƣởng (nghĩa là một phần lớn

mang tính chất tự nhiên); 2.Sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số
những ngƣời nông dân bán lúa mì); 3.Chủ nghĩa tƣ bản tƣ nhân; 4.Chủ nghĩa tƣ
bản nhà nƣớc; 5.Chủ nghĩa xã hội. Trong 5 thành phần kinh tế trên, Lênin đặc
biệt chú trọng đến CNTB nhà nƣớc. Chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc trong điều kiện
nƣớc Nga lúc đó sẽ là "sự liên hiệp nền sản xuất nhỏ lại", sẽ là biện pháp thích
hợp để hƣớng các thành phần kinh tế của nƣớc Nga đi theo quỹ đạo kinh tế của
CNXH, vì nó là thành phần dễ dàng cho việc kiểm kê và kiểm soát chung, do đó,
dễ dàng cho việc tiếp tục xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Lênin khẳng định: sử
dụng CNTB nhà nƣớc là điều kiện thiết yếu, là "phòng chờ" để có thể đi lên
CNXH. Ngƣời viết: "Đứng trên ý nghĩa vật chất, kinh tế, sản xuất mà xét thì
chúng ta còn chƣa tiến đến "phòng chờ" của CNXH, và nếu không đi qua "phòng
chờ" mà chúng ta chƣa đạt tới ấy thì chúng ta không vào cửa CNXH đƣợc" [17,
tr. 256 -257].
Tƣ tƣởng của Lênin về việc sử dụng chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc để quá độ
lên CNXH chính là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác về xã
hội trong điều kiện đặc thù ở một nƣớc tiểu nông.
Lênin không chỉ đặt lên vị trí hàng đầu việc trao đổi hàng hoá, mà còn
khuyến khích các nhà tƣ bản nƣớc ngoài thực hiện những hợp đồng tô nhƣợng
nhằm tổ chức nền sản xuất lớn XHCN. Và với chính sách này, nền kinh tế Liên
Xô lúc đó đã có những tiến triển nhất định. Rất tiếc là sau khi Lênin mất, do
nhiều nguyên nhân, chính sách kinh tế mới đã không đƣợc tiếp tục thực hiện mà
quay trở lại với mô hình kinh tế tập trung, kế hoạch hoá cao độ nhƣ trƣớc kia.
Tiếp thu quan điểm của Mác về thời kỳ quá độ, Lênin cho rằng: "Danh từ
quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế có phải nó có nghĩa là trong chế độ
hiện nay có những thành phần, những chế độ, những mảng của CNTB và CNXH
15


không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có" [18, tr.362] và "về lý luận không thể
nghi ngờ gì đƣợc rằng giữa CNTB và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ

nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trƣng
của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội đó" [18, tr.309 ]
Nhƣ vậy, theo Lênin, thời kỳ quá độ là thời kỳ mà ở đó còn tồn tại đan
xen giữa những yếu tố cũ và mới, là thời kỳ đấu tranh "ai thắng ai" giữa CNXH
và CNTB trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận từ kinh tế đến chính trị, văn hoá, tƣ
tƣởng... Đó là một quá trình lâu dài và phức tạp mà ở đó, phƣơng thức sản xuất
cũ chƣa mất đi và phƣơng thức sản xuất mới vừa ra đời, còn non yếu. Theo
Lênin, con đƣờng cách thức đi lên CNXH đối với mỗi dân tộc là không giống
nhau. Những nƣớc chƣa qua chế độ TBCN lên CNXH thì thời kỳ quá độ lên
CNXH là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp và thời kỳ quá độ lên CNXH kéo
dài hơn nhiều so với những nƣớc đã qua chế độ TBCN. Ở các nƣớc này, muốn
thực hiện cách mạng XHCN, thì phải trải qua một loạt biện pháp quá độ đặc biệt.
Nhất là, đối với những nƣớc có nền kinh tế lạc hậu đi lên CNXH (nhƣ ở nƣớc
Nga) thì tất yếu phải phát triển kinh tế hàng hoá, cần tồn tại và đan xen nhiều
loại hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế... trong đó có thành phần kinh tế tƣ
bản tƣ nhân. Nếu cứ đi tìm cách ngăn cấm kinh tế TBCN thì chính sách ấy, theo
Lênin: "là một sự dại dột và tự sát đối với Đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột vì
về phƣơng diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện đƣợc; tự sát
bởi vì những Đảng nào định thi hành chính sách nhƣ thế, nhất định sẽ bị phá
sản" [19;tr.267]. Vì vậy mà chính sách có thể thực hiện đƣợc là: phải tìm cách
hƣớng sự phát triển của CNTB vào con đƣờng CNTB nhà nƣớc.
Nhƣ vậy, quá độ đi lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN không có nghĩa là bỏ
qua tất cả những gì đã có trong CNTB mà phải sử dụng CNTB để xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, là hƣớng kinh tế tiểu tƣ sản và kinh tế TBCN
vào con đƣờng XHCN. Về bản chất của chế độ xã hội thì xã hội TBCN dù là xấu
so với xã hội XHCN, nhƣng nó đã tạo ra đƣợc một lƣợng của cải khổng lồ , thì
không thể không tận dụng tất cả những thành tựu vĩ đại ấy của CNTB. Một nƣớc
muốn xây dựng thành công CNXH thì phải nhận thức đúng chân lý ấy.

16



Những quan điểm trên của Lênin mặc dù tại thời điểm đó chỉ mang tính
chất dân tộc, đƣợc thực hiện trong phạm vi của nƣớc Nga Xôviết, tuy nhiên, nó
lại mang ý nghĩa quốc tế to lớn. Bởi vì quan điểm về sự tồn tại của kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần trong CNXH của Lênin có thể thực hiện đƣợc ở những
nƣớc có điều kiện kinh tế lạc hậu, kém phát triển (nhƣ ở Việt Nam). Nói một
cách khác, những quan điểm kinh tế đó của Lênin không chỉ là những giải pháp
cụ thể cho một tình hình cụ thể, mà còn chứa đựng những chân lý, những nguyên
lý, nguyên tắc của quản lý kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH nói riêng và
của việc quản lý nền kinh tế xã hội nói chung. Vì vậy những quan điểm kinh tế
đó của Lênin đã trở thành cơ sở lý luận cho quan điểm của Đảng về chủ trƣơng
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay.
*.Tư tưởng Hồ chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ lên CNXH.
Sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta phải đối phó với rất nhiều kẻ thù,
nhƣng Hồ Chí Minh vẫn rất coi trọng sản xuất. Ngƣời kêu gọi: "Tăng gia sản
xuất, tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!" [29, tr.115]. Đó là một
khẩu hiệu của chúng ta ngày nay, đó là một cách thiết thực để chúng ta giữ vững
quyền tự do, độc lập. Theo Ngƣời, trong điều kiện nƣớc ta - sản xuất nhỏ, lạc
hậu, có chiến tranh - nên phải phát triển nhiều thành phần kinh tế. Tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế phát triển ở nƣớc ta lúc này trƣớc hết là để tạo ra
nhiều của cải vật chất cho xã hội. Nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, năng suất lao động
kém, sản phẩm làm ra không đủ đáp ứng yêu cầu của xã hội. Trong khi đó, kẻ
thù lại đánh phá ác liệt, bao vây, cô lập cách mạng Việt Nam. Để đảm bảo cho
cuộc sống của nhân dân, để cung cấp kịp thời cho cuộc kháng chiến ngày càng
phát triển và mở rộng, tất yếu chúng ta phải phát triển nhiều thành phần kinh tế.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần cũng có nghĩa là quan tâm đến lợi ích của các
giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Từ đó mới có thể huy động đƣợc mọi lực lƣợng
trong dân tộc, cô lập mọi kẻ thù, tăng cƣờng sức mạnh cho cuộc kháng chiến.

Trong tác phẩm "Thƣờng thức chính trị", viết vào năm 1953, Hồ Chí
Minh cho rằng: Nƣớc ta (vùng tự do) nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần:
Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô; kinh tế quốc doanh có tính chất
17


XHCN; kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, các hội đổi công nông
thôn, có tính chất nửa XHCN, kinh tế cá thể của nông dân và thủ công mỹ nghệ;
kinh tế tƣ bản của tƣ nhân; kinh tế tƣ bản Quốc gia. Nhƣ vậy ngay trong điều
kiện kháng chiến, Hồ Chí Minh đã thấy đƣợc tính tất yếu của nền kinh tế nhiêù
thành phần ở nƣớc ta. Nó vừa đáp ứng đƣợc yêu cầu trƣớc mắt là huy động tất cả
các lực lƣợng có thể huy động đƣợc trong dân tộc, đƣa cuộc kháng chiến đến
thắng lợi, vừa đáp ứng đƣợc yêu cầu lâu dài của cách mạng Việt Nam là xây
dựng chế độ dân chủ mới, tạo tiền đề từng bƣớc tiến lên theo định hƣớng XHCN
[30,tr. 222).
Cũng theo quan điểm của Hồ Chí Minh, để đi lên CNXH, nƣớc ta cần
phải trải qua giai đoạn dân chủ mới. Bởi vì: " Đặc điểm lớn nhất của nƣớc ta
trong thời kỳ quá độ là từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu tiến lên CNXH không
phải qua giai đoạn phát triển TBCN" [31, tr.13]. Với điểm xuất phát thấp này đã
quy định tính chất phức tạp của kết cấu kinh tế - xã hội và sự tồn tại đồng thời
các thành phần kinh tế khác nhau. Vì vậy, theo Ngƣời, "trong chế độ dân chủ
mới sẽ 5 thành phần kinh tế chính trị sẽ đƣợc xếp theo thứ tự ƣu tiên nhƣ sau:
A. Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân)
B. Các hợp tác xã (nó là nửa XHCN, và sẽ tiến lên CNXH)
C. Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào
hợp tác xã, tức là nửa XHCN)
D. Tƣ bản của tƣ nhân
E. Tƣ bản của nhà nƣớc (nhƣ nhà nƣớc hùn vốn với tƣ bản tƣ nhân để
kinh doanh).
Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho

nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hƣớng của CNXH chứ không theo hƣớng
CNTB" [30, tr.247 - 248].
Nhƣ vậy, trong nền kinh tế dân chủ nhân dân nƣớc ta lúc đó vẫn tồn tại 5
thành phần kinh tế phát triển đồng thời luôn đấu tranh với nhau, tác động thúc
đẩy lẫn nhau, tồn tại một cách khách quan suốt thời kỳ quá độ. Nhiệm vụ của
chúng ta là phải sử dụng chúng một cách triệt để nhằm phát triển nền sản xuất
của xã hội, đồng thời phải có những ƣu tiên đúng mức với thành phần kinh tế
18


quốc doanh để nó phát triển và trở thành thành phần kinh tế chủ đạo, đủ sức
hƣớng dẫn các thành phần kinh tế khác vận động và phát triển theo con đƣờng
XHCN. Ngƣời cũng nhấn mạnh rằng: Tất cả đƣờng lối, phƣơng châm, chính
sách của Đảng đều nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, của nông
dân nói riêng; bất cứ một hình thức tổ chức sản xuất nào cũng phải hƣớng đến
mục tiêu cao nhất là phát triển sản xuất, góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, bảo đảm lợi ích của các thành phần kinh tế cũng nhƣ của
ngƣời lao động. Sự chỉ đạo có tính nguyên tắc đó đã thể hiện tƣ duy kinh tế sắc
bén của Ngƣời.
Tóm lại, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên CNXH chính là những cơ sở lý luận quan trọng cho sự hình thành quan điểm
của Đảng ta về phát triển kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng
XHCN. Quan điểm đó là kết quả của một quá trình tìm tòi, nghiên cứu, phát
triển sáng tạo lý luận của các nhà kinh điển Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam.
Đồng thời đƣờng lối mang tính cách mạng và khoa học này còn đƣợc dựa trên cơ
sở thực tiễn xây dựng CNXH Ở nƣớc ta.
1.1.2.Cơ sở thực tiễn
Có thể nói, hầu hết các sách giáo khoa kinh tế chính trị ở các nƣớc XHCN
trƣớc đây đều có ý kiến đem đối lập CNXH với kinh tế hàng hoá mà trình độ cao

là kinh tế thị trƣờng. Tại sao lại có tình trạng nhƣ vậy? Nhƣ chúng ta đã biết,
kinh tế thị trƣờng là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất
định của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trƣờng tồn tại và phát triển rực rỡ dƣới
CNTB, quyết định sự tồn tại và phát triển của CNTB. Chính tốc độ phát triển
vƣợt bậc của nền kinh tế thị trƣờng dƣới CNTB đã làm cho nhiều ngƣời ngộ
nhận rằng nền kinh tế thị trƣờng là của CNTB, đồng nhất kinh tế thị trƣờng với
CNTB. Vì vậy mà trong một thời gian dài ở các nƣớc XHCN (trong đó có Việt
Nam), ngƣời ta không quan tâm đến kinh tế thị trƣờng, cho rằng phát triển kinh
tế thị trƣờng là đi theo con đƣờng TBCN, là bóc lột sức lao động của công nhân
và của ngƣời lao động nói chung.

19


Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, báo hiệu một cuộc khủng hoảng
kinh tế khắp toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia trên toàn thế giới phải đổi mới, thích
nghi về kinh tế - chính trị - xã hội... trong điều kiện quan hệ quốc tế phát triển
theo xu hƣớng quốc tế hoá ngày càng cao. Đến cuối những năm 70, đầu những
năm 80 của thế kỷ XX, trong khi các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây ra sức tận dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản
xuất, nâng cao đáng kể năng suất lao động với mức tăng trƣởng kinh tế, đồng
thời áp dụng những công nghệ hiện đại vào quản lý, nhạy bén và năng động
trƣớc những yêu cầu của cải cách kinh tế - xã hội thì các nƣớc XHCN lại rơi vào
tình trạng trì trệ, xuất hiện những dấu hiệu của cuộc khủng hoảng
Với “chính sách Cộng sản thời chiến” (1918 – 1920) nhƣ một giải pháp
tình thế mà nhờ đó, nƣớc Nga đã đứng vững trƣớc muôn ngàn thử thách. Song
việc áp dụng quá lâu chính sách này cũng chứa đựng những sai lầm mà sau này
chính Lênin đã dũng cảm tự phê phán và quyết tâm từ bỏ để chuyển sang “chính
sách kinh tế mới” với nội dung cốt lõi của nó là thừa nhận sự tồn tại của nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong CNXH. Chính sách kinh tế mới đã phát

huy tác dụng một cách nhanh chóng, chỉ sau một năm, sản lƣợng nông nghiệp
khôi phục bằng trƣớc chiến tranh. Tuy nhiên chƣa tồn tại đƣợc bao lâu, ngay sau
khi Lênin mất, vào những năm cuối của thập kỷ 20 thế kỷ XX, những dấu hiệu
của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã xuất hiện, vì vậy, chính sách kinh tế
mới lại bị từ bỏ để quay lại với mô hình kinh tế tập trung quan liêu, kế hoạch hoá
cao độ dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Công bằng mà nói, mô hình kinh tế
này cũng có những tác dụng quan trọng trong việc tập trung các nguồn lực cho
các mục tiêu trọng điểm nhƣ các công trình Quốc gia, huy động cho chiến tranh.
Tuy nhiên với một nền kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trƣờng nên ngày càng
trở nên nặng nề, kém linh hoạt, không có tính cạnh tranh. Đời sống kinh tế còn
nhiều khó khăn đã gây nên nhiều bất ổn trong xã hội và mâu thuẫn sắc tộc ngày
càng nghiêm trọng hơn. Liên Xô cũng đã tiến hành cải tổ nhƣng đã quá muộn,
càng cải tổ lại càng lún sâu vào khủng hoảng trầm trọng, xa rời những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận sạch trơn mọi thành tựu đã đạt đƣợc trong

20


quá trình xây dựng CNXH. Một kết cục tất yếu đã đến, đó là sự sụp đổ của hệ
thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
Thực tiễn nền kinh tế nước ta trước đổi mới cũng chính là một cơ sở quan
trọng cho sự đổi mới quan niệm của Đảng ta về các mô hình kinh tế và quản lý
kinh tế. Nƣớc ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN trong hoàn cảnh một
nƣớc nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ phát triển xã hội thấp, lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề. Trong suốt một thời gian dài, Việt Nam đã áp dụng mô
hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, mà thực chất là mô hình
kinh tế cứng nhắc, phi thị trƣờng, quá đề cao vai trò của một thành phần kinh tế
XHCN dƣới 2 hình thức: Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Để nhanh chóng
đạt đƣợc mục tiêu của CNXH, Đảng ta đã đƣa ra những chính sách, biện pháp
nóng vội nhằm hạn chế, thu hẹp, thậm chí là xoá bỏ các thành phần kinh tế đƣợc

gọi là “phi XHCN”. Kết quả của chính sách đó là: thành phần kinh tế XHCN
(quốc doanh và tập thể) phát triển nhanh về số lƣợng, mở rộng quy mô và phạm
vi hoạt động nhƣng hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và ngày càng có xu hƣớng
giảm sút.
Cũng nhƣ ở Liên Xô, trong một thời gian dài, mô hình kinh tế này đã từng
phát huy tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá theo
kiểu cổ điển, tập trung đƣợc các nguồn lực, sức ngƣời, sức của đáp ứng yêu cầu
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nƣớc. Nhƣng càng về sau, nó càng bộc lộ những khiếm khuyết, không đáp ứng
đƣợc nhu cầu càng cao của xã hội, thiếu năng động, kìm hãm và làm thui chột
động lực và tính cạnh tranh giữa các lực lƣợng kinh tế, không phát huy và sử
dụng đƣợc các nguồn lực của đất nƣớc để tạo đà cho sự phát triển. Điều này đã
khiến cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất phát triển chậm,
kém hiệu quả và bấp bênh, không ổn định, tình trạng thiếu hụt, khan hiếm hàng
hoá, lạm phát phi mã (năm 1987: 774,7%), đời sống nhân dân vô cùng khó khăn.
Trƣớc tình hình đó, trong sản xuất của quần chúng nhân dân đã xuất hiện
một số hiện tƣợng “phá rào”. Trong nông nghiệp, hiện tƣợng khoán “chui” xuất
hiện ở một số địa phƣơng. Trong thƣơng nghiệp, ở một số nhà máy, xí nghiệp do
không thể đồng tình với cơ chế “cấp phát” – “giao nộp” đã tự động “xé rào” do
21


thiếu vật tƣ nguyên liệu, tiền vốn, do sự bất lực với công cụ kế hoạch hoá kiểu
cũ. Thị trƣờng tự do phát triển chen lấn thị trƣờng có tổ chức… Những tìm tòi,
thử nghiệm trong cuộc sống của đông đảo quần chúng đã phản ánh sự bất cập và
bất lực của một cơ chế quản lý cứng nhắc, đòi hỏi cần thiết phải có sự thay đổi.
Từ thực tế của nền sản xuất và phong trào quần chúng đã cho thấy, công
tác chỉ đạo, lãnh đạo quản lý của Đảng trên lĩnh vực kinh tế đã phạm phải một số
sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của nó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí,
không tôn trọng quy luật kinh tế khách quan (quy luật quan hệ sản xuất phải phù

hợp với tính chất và trình độ của lực lƣợng sản xuất), nhận thức về XHCN không
đúng với thực tế Việt Nam. Do đó, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho Đảng ta là phải
có những thay đổi căn bản cả về tƣ duy lý luận và hoạt động chỉ đạo thực tiễn để
đƣa đất nƣớc thoát ra khỏi khủng hoảng, dần dần đi vào thế ổn định và phát
triển.
Trong khí đó, trên thực tế, không thể phủ nhận vai trò của các thành phần
kinh tế khác nhau đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung, trong
đó có khu vực kinh tế tư nhân. Ở nƣớc ta, nhất là từ sau Đại hội VI, với tinh thần
đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nƣớc, kinh tế tƣ nhân ngày càng tăng nhanh
về số lƣợng và chất lƣợng, đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển kinh tế đất
nƣớc. Những đóng góp đó có thể thấy rõ trên những mặt sau:
- Huy động ngày càng nhiều nguồn vốn trong xã hội cho đầu tƣ vào sản
xuất. - Tạo ra nhiều việc làm cho ngƣời lao động.
- Đóng góp ngày càng lớn trong GDP và tạo nguồn bổ sung cho ngân
sách. Ngoài những đóng góp trên, khu vực kinh tế tƣ nhân còn góp phần thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp
và dịch vụ; tăng kim ngạch xuất khẩu, nhất là trong các mặt hàng thuỷ hải sản,
thủ công mỹ nghệ, may mặc, đồ da…; tạo ra một môi trƣờng cạnh tranh lành
mạnh giữa tất cả các thành phần kinh tế, góp phần khai thác tiềm năng của đất
nƣớc, đồng thời mở rộng cạnh tranh thƣơng mại đối với các nƣớc trong khu vực
và trên thế giới. Đó là sự chuẩn bị tốt cho Việt nam bƣớc vào hội nhập quốc tế
một cách tự tin và bền vững.

22


Tuy nhiên, kinh tê tƣ nhân Việt Nam vẫn còn gặp phải những rào cản kìm
hãm sự phát triển của khu vực kinh tế này. Quan điểm của Đảng trên một số vấn
đề cụ thể về phát triển kinh tế tƣ nhân còn chƣa đƣợc làm rõ, vẫn dừng lại ở
những quan điểm lớn, mang tính chất chung chung, chƣa đƣợc cụ thể hoá để tạo

ra sự thống nhất cao trong chỉ đạo thực hiện. Khu vực kinh tế tƣ nhân còn gặp
nhiều khó khăn trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực nhƣ đất đai,
nguồn nhân lực, nguồn vốn…hay là thiếu sự hỗ trợ từ phía Nhà nƣớc nhƣ thiếu
cơ chế cung cấp hỗ trợ kinh doanh (thông tin, thị trƣờng…), thiếu cơ chế tạo sự
ủng hộ của xã hội đối với kinh tế tƣ nhân (e ngại với sự phát triển của kinh tế tƣ
nhân, cho rằng làm kinh tế tƣ nhân là bóc lột, cơ chế chính sách phát triển kinh
tế tƣ nhân còn thiếu đồng bộ, chƣa nhất quán)…gây khó khăn cho các doanh
nghiệp.
Với những đóng góp và những khó khăn nhƣ đã trình bày ở trên của khu
vực kinh tế tƣ nhân, việc Đảng ta tiếp tục đổi mới, bổ sung, hoàn thiện cơ chế
đƣờng lối, chính sách đối với khu vực kinh tế tƣ nhân ngày càng trở nên quan
trọng và cần thiết. Điều đó sẽ tạo thêm động lực để kinh tế tƣ nhân xoá bỏ những
rào cản, tiếp tục phát huy vai trò của mình đối với sự phát triển kinh tế đất nƣớc.
Tóm lại, với những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, có thể khẳng định, việc
phát triển kinh tế thị trƣờng với nhiều thành phần kinh tế ở nƣớc ta hiện nay là
một xu thế tất yếu khách quan. Nếu chúng ta không tôn trọng quy luật khách
quan đó của lịch sử, chúng ta sẽ không bắt kịp với sự tiến bộ vƣợt bậc của nền
văn minh thế giới. Việc hoạch định chính sách, xây dựng chủ trƣơng đƣờng lối
để tạo điều kiện cho kinh tế tƣ nhân phát triển (theo hƣớng CNXH) là một nhiệm
vụ quan trọng của Đảng ta. Chỉ khi làm đƣợc điều đó mới chứng tỏ tính sáng tạo,
nhạy bén trong tƣ duy lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc ta - để xứng đáng với danh
hiệu là ngƣời soi đƣờng, dẫn lối cho công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam đi đến
thắng lợi cuối cùng.
1.2. SỰ TIẾN TRIỂN TRONG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƢ NHÂN
1.2.1. Sự thừa nhận kinh tế tƣ nhân của Đảng cộng sản Việt Nam.

23



Về mặt pháp lý, cho đến Đại hội VI, Đảng ta mới chính thức thừa nhận sự
tồn tại của kinh tế tƣ nhân, tuy nhiên, thực ra từ trƣớc đổi mới, bƣớc đầu Đảng ta
đã thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tƣ nhân với những tên gọi khác nhau. Chẳng
hạn nhƣ khái niệm “tƣ sản dân tộc” – theo cách gọi của Chủ tich Hồ Chí Minh.
Tháng 2 năm 1951, Đảng Lao động Việt Nam ra Tuyên ngôn đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho các tầng lớp nhân dân: “Tiểu thƣơng, tiểu chủ cần đƣợc giúp đỡ
để phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp”, “Những nhà tƣ sản dân tộc cần
đƣợc khuyến khích, giúp đỡ hƣớng dẫn kinh doanh, để góp sức vào việc phát
triển kinh tế quốc dân”.
Trên thực tế, ngay giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra gay
go và quyết liệt, chúng ta vẫn tạo dựng thành phần kinh tế quốc doanh và vẫn
luôn quan tâm tới vai trò, lợi ích và mối quan hệ giữa kinh tế quốc doanh và kinh
tế tƣ nhân. Về vấn đề này, đã đƣợc Hồ Chí Minh giải thích trong tác phẩm
“Thƣởng thức chính trị” và một số văn kiện khác nhƣ:
(1).Công tư đều lợi: “Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức
lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và
nhân dân ta phải ủng hộ nó... Tƣ là những nhà tƣ bản và kinh tế cá nhân của
nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lƣợng cần thiết cho cuộc xây dựng
kinh tế nƣớc nhà. Cho nên chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhƣng phải phục
tùng kinh tế quốc gia, phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
(2). Chủ thợ đều có lợi: “Nhà tƣ bản thì không khỏi bóc lột. Nhƣng chính
phủ ngăn cấm họ bóc lột quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công
nhân. Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ đƣợc số lợi
hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác, tự động, tăng gia sản
xuất lợi cả đôi bên”. [30, tr.221 – 222]
(3). Mọi chính sách của Đảng, nhà nước đều có tác động tốt cho các
doanh nghiệp. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ sắp
kết thúc, Đảng phóng tay phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm
tức. Chính sách đó không chỉ có lợi cho nông dân mà còn “có lợi cho những nhà
công nghiệp và thƣơng nghiệp, vì nông dân sinh hoạt khá thì sẽ mua nhiều hàng,

công nghệ và thƣơng nghiệp sẽ phát triển” [30, tr.44].
24


×