“Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là một bài ca đạo đức, một bản trường ca ca ngợi
chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người chính nghĩa”(Phạm Văn Đồng).
Đoạn trích Lẽ ghét thương chinh phục người đọc bởi tính nhân đạo, bởi tình cảm yêu ghét phân minh và
tấm lòng nhiệt thành với chính nghĩa, là nét đặc trưng tính cách của con người Nam Bộ…
Là một nhà thơ mù nhưng Nguyễn Đình Chiểu luôn chủ trương sáng tác văn học để chở đạo, đâm gian.
Tác phẩm của ông vì thế luôn chứa đựng tinh thần nhân văn sâu sắc. Ở đó bao giờ bạn đọc cũng bắt gặp
những tình cảm rõ ràng cụ thể: yêu – ghét, cảm thông, căm giận… Những tình cảm ấy có thể được tác giả
bộc lộ một cách trực tiếp trong các tác phẩm: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục
tỉnh…, cũng có thể gián tiếp gửi gắm qua phát ngôn của nhân vật. Và thái độ, tình cảm của ông Quán
trong Lẽ ghét thương (Trích Lục Vân Tiên) là một ví dụ tiêu biểu.
Lẽ ghét thương là những lời thơ tâm huyết về nỗi ghét tình thương nhân bản của Nguyễn Đình Chiểu. Và
trong tình huống này, nhân vật ông Quán trở thành cái loa phát ngôn cho chính tác giả. Những tình cảm
yêu, ghét rạch ròi của ông Quán nói ra ngay sau khi
chúng biến cảnh Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi
Kiệm và Trịnh Hâm cùng thi tài xướng hoạ tại quán ăn
của mình.
Đoạn trích có 26 câu thơ thì có tới 16 câu thơ nói về
tình thương. Như vậy số câu thơ về tình thương yêu
con người đã quá nửa. Bản thân Nguyễn Đình Chiểu
cũng đã từng nóiBởi chưng hay ghét cũng là hay
thương. Quả thực khi suy ngẫm kĩ những câu thơ này,
ta sẽ thấy gốc rễ, nguyên nhân sâu xa của nỗi
ghét chính là tình thương dân sâu sắc.
Tình thương chính là điểm tựa, là động lực tinh thần để
nhà thơ lên tiếng phê phán những bọn xấu xa, những kẻ
độc ác. Sở dĩ ông Quán ghét cay ghét đắng những
chuyện tầm phào, những cái đa đoan, những cái dối
trá, những trò mê dâm là vì chúng làm rối dân, làm
dân luống chịu lầm than muôn phần. Mỗi lần nhắc đến
một đối tượng đáng ghét, đáng lên án ấy sẽ là một lần
tác giả thêm một câu bình luận về tội ác của chúng gây
cho dân lành:
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần…
Và trong 10 câu thơ nói về lẽ ghét thì có tới bốn câu thơ nói về cung bậc, mức độ khác nhau trong nỗi khổ
mà dân lành phải gánh chịu:
- Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang.
- Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
- Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
- Sớm đầu tối đánh lằng nhằng dối dân.
Nếu như những câu thơ nói về lẽ ghét thương thể hiện nỗi kinh bỉ, tức giận thì đến những câu thơ này
giọng thơ đột ngột chậm thể hiện sự thông cảm, chia sẻ của nhà thơ đối với nhân dân.
Để giãi bày những lời tâm huyết về nỗi ghét này được sâu đậm, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nghệ
thuật điệp từ. Chỉ có 10 câu thơ đầu tác giả đã sử dụng tới 8 từ ghét. Riêng câu thơthứ hai đã có tới 3 từ:
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Cay , đắng là những từ dùng để chỉ mùi vị, ở đây cay, đắng không phải dùng như một sự lạ hoá ngôn từ,
mà nó dùng để diễn tả độ sâu tăng dần của cái ghét. Sự kết hợp của các điệp từ ghét với sự tăng cấp về
mức độ, nhà thơ đã hé mở cho độc giả biết cái ghét, đối tượng bị ông Quán ghét không chỉ thuộc phạm vi
một thời đại nào mà nó có trong mọi thời đại.
Vì thế nỗi ghét ở đây là đổi gam, đổi chất, không chỉ dừng ở thái độ bên ngoài, mà nó đã ăn sâu vào máu,
vào huyết quản, ghét vào tận tâm của ông. Cái gọi là ghé của ông Quán thực chất là lòng chăm thù. Ông
căm thù tất cả những bọn làm ảnh hưởng, làm tổn hại đến cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Điều này
thể hiện tính nhân dân sâu sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Đối lập với nỗi ghét, lòng căm thù là tình thương. Ông Quán đã tự bạch về tình thương của mình trong
mười sáu câu thơ. Chỉ mười sáu câu thơ nhưng nó làm hiển hiện cả cõi lòng của một con người, thể hiện
một cách sâu sắc sự cảm thông, xót xa của ông Quán đối với những bậc hiền nhân quân tử, kiểu mẫu của
đạo Nho, muốn hành đạo giúp vua, cứu dân nhưng không thành.
Người được nhắc đến đầu tiên trong đoạn thơ nói về tình thương là Khổng Tử – người đã gặp rất nhiều
gian lao vất vả khi truyền đạo:
Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông.
Ông thương đến cả người chết yểu mà công danh chưa đạt:
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh
Ông lại thương cả những người không gặp vận may, những ông quan thanh liêm không gặp thời…
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha…
…Thương thầy Liêm, Lạc đã xa
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Nếu như ở mười câu đầu Nguyễn Đình Chiểu để cho nhân vật nói lên lòng căm thù bọn người hại dân để
nói lên lòng thương dân, thì ở đoạn sau tác giả lại cho nhân vật bộc lộ trực tiếp lòng thương đối với những
người có tài cao chí lớn, muốn phò vua giúp đời mà gặp phải bất hạnh nên nguyện vọng cứu dân không
thực hiện được. Và để thể hiện tình cảm thương yêu đầy tình nhân bản đó, nhà thơ đã điệp đi điệp lại
từ thương tới chín lần. Nó không chỉ thể hiện được tình thương yêu tha thiết ông dành cho từng đối tượng
cụ thể mà còn bộc lộ một tình cảm, tình thương bao la rộng lớn dành cho số phận cay đắng của con người
trước những quy luật khắc nghiệp của tạo hoá và xã hội.
Trích đoạn Lẽ ghét thương tuy không dài nhưng được tác giả tổ chức sắp xếp khá chặt chẽ, mạch lạc. Sự
kết hợp giữa việc sử dụng điệp từ ghét, thương với nghệ thuật bố cục chặt chẽ không chỉ tạo được sự rõ
ràng trong ý thơ mà còn tạo cho đoạn thơ có giọng điệu vừa trang nghiêm vừa thống thiết – một nét đặc
trưng của điệu thơ trữ tình Nguyễn Đình Chiểu.
Như vậy thông qua nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm những lời tâm huyết về nỗi ghét
thương. Nó không chỉ thể hiện một tâm hồn giàu tình yêu thương mà còn thể hiện một tinh thần nhân bản
sâu sắc.
Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:
• Văn mẫu việt nam,