Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Một số giải pháp nhằm tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.48 KB, 91 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
WCED Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
ILO Tổ chức Lao động Quốc tế
SXKD Sản xuất kinh doanh
WDV Cơ quan phát triển lao động
ATVSLĐ An toàn vệ sinh lao động
ATLĐ An toàn lao động
PES Chính sách dịch vụ việc làm công
IES Dịch vụ việc làm tương hỗ
EPM Chương trình việc làm cho trung niên
WTS Chương trình thử việc
NGOs Các tổ chức phi chính phủ
THCN Trung học chuyên nghiệp
BHXH Bảo hiểm xã hội
MOLISA Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội
TEHCĐB Trẻ em hoàn cảnh đặc biệt
TEKT Trẻ em khuyết tật
BTXH Bảo trợ xã hội
BHYT Bảo hiểm y tế
HĐLĐ Hợp đồng lao động
TƯLĐTT Thoả ước lao động tập thể
CSR Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu 1.1: Xu hướng thay đổi dân số trong độ tuổi lao động và số người có
việc làm
Biểu 1.2: Tỷ lệ lao động thất nghiệp thành thị (%)
Biểu 1.3: Cơ cấu việc làm (%)
Biểu 1.4: Số lao động được giải quyết việc làm trong năm (1000 người)
Biểu 2.1: Những hình thức bảo trợ xã hội


Biểu 2.2: Trình độ học vấn người lao động theo các cấp học (%)
Biểu 2.3: Quy mô tuyển mới ở tất cả các cấp giai đoạn 2001-2007 (nghìn
người)
Biểu đồ 3.1: Tình hình thiệt hại do bão lụt hạn hán từ 2000-2007
Biểu đồ 3.2: Nguồn lực trợ giúp nạn nhân của thiên tai 2001-2007
Biểu đồ 3.3: số người cao tuổi và tỷ lệ sinh người cao tuổi
Biểu đồ 3.4: Cơ cấu độ tuổi của ngưòi tàn tật
Biểu đồ 3.5: Các dạng tàn tật của người tàn tật (đơn vị: %)
Biểu đồ 3.6: Nguyên nhân dẫn đến tàn tật (đơn vị:%)
Biểu đồ 3.7: Số lượng đối tượng được trợ cấp xã hội 2001-2007 (đơn vị:
người)
Biểu đồ 3.8: Tỷ lệ đối tượng TCXH so đối tưọng thuộc diện trợ cấp (đơn vị:
%)
Biểu đồ 3.9: Kinh phí thực hiện trợ cấp xã hội cộng đồng

(tỷ đồng)
Biểu đồ 3.10: Tốc độ tăng đối tượng và kinh phí hàng năm (đơn vị: %)
LỜI MỞ ĐẦU
Lao động - việc làm là một trong những lĩnh vực quan trọng đối với
mỗi quốc gia bởi con người vừa là nguồn lực vừa là mục tiêu của phát triển
kinh tế - xã hội. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao
động lớn như Việt Nam, giải quyết việc làm cho người lao động và phát triển
thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao
động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng
thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới.
Mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng lĩnh vực lao động - việc làm
ở Việt Nam hiện nay vẫn còn rất nhiều bất cập, đó chính là chất lượng lao
động thấp, cơ cấu đào tạo nghề bất hợp lý, việc làm ổn định và thu nhập cao
còn ít…Bên cạnh đó vấn đề đảm bảo quyền lợi người lao động, việc thực hiện
các chế độ bảo trợ xã hội còn nhiều hạn chế như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

thất nghiệp, các chương trình hỗ trợ những nhóm người yếu thế, trẻ em…,
quan hệ lao động trong các doanh nghiệp ngày càng trở nên căng thẳng, cơ
chế đối thoại xã hội với sự tham gia của doanh nghiệp, người sử dụng lao
động và người lao động chưa được quan tâm đúng mức, gây ảnh hưởng tới
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước thực trạng đó và những yêu cầu ngày càng trở nên cấp thiết của hội
nhập kinh tế thế giới khi mà Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), việc nâng cao chất lượng lao động, tăng
cường tạo việc làm bền vững đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu không
chỉ của Nhà nước, các doanh nghiệp mà chủ yếu là người lao động, những người
đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Xuất phát từ những đòi hỏi thực tế, qua thời gian thực tập ở Vụ Lao
động-Văn hoá-Xã hội, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, tôi đã hoàn thành chuyên đề
với đề tài “Một số giải pháp nhằm tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt
Nam”.
Kết cấu đề tài gồm 3 phần chính sau:
- Chương I: Sự cần thiết tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam.
- Chương II: Đánh giá tình hình tạo việc làm bền vững ở Việt Nam.
- Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường tạo việc làm bền vững
ở Việt Nam.
Do thời gian hạn có hạn và trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên bài
viết này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi mong rằng sẽ nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn.
Tôi xin chân thành cám ơn Thạc sỹ Nguyễn Thị Hoa đã trực tiếp hướng
dẫn, Chị Nguyễn Thị Hồng Lê, chuyên viên Vụ Lao động – Văn hoá – Xã
hội, Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này.
Sinh viên thực hiện
Phạm Anh sơn
CHƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG TẠO VIỆC LÀM BỀN VỮNG

Ở VIỆT NAM
I/ Cơ sở lý luận của việc làm bền vững
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Việc làm.
- Theo quan điểm kinh tế học lao động:
Việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm
biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người.
- Theo Bộ luật Lao động:
Việc làm được xác định là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”
Từ quan niệm trên cho thấy, khái niệm việc làm bao gồm các nội dung sau:
- Là hoạt động lao động của con người
- Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận
- Hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm
1.2. Bền vững.
Quan niệm về cụm từ “bền vững” ở đây được gắn với cụm từ “phát triển bền
vững” bởi sự bền vững luôn luôn được gắn với sự phát triển, thiếu một trong
hai yếu tố đó thì không thể thực hiện được các mục tiêu của mỗi quốc gia.
Xuất phát từ góc độ bảo vệ môi trường, cũng là bảo vệ sự sống, vấn đề phát
triển bền vững được đề cập lần đầu tiên vào năm 1987 trong báo cáo của Uỷ
ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED). Theo Uỷ ban này, phát triển
bền vững là sự phát triển để đáp ứng những nhu cầu của ngày hôm nay mà
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.
Như vậy, trong quá trình phát triển phải luôn luôn đặt ra các câu hỏi
như: Quy mô và tốc độ khai thác các tài nguyên như hiện nay có đảm bảo cho
các tài nguyên này có khả năng tái tạo đủ cung cấp cho các thế hệ tương lai
hay không? Các tài nguyên thay thế có tương xứng với các tài nguyên bị cạn
kiệt và không có khả năng tái tạo hay không?
Ở Việt Nam, phát triển bền vững được hiểu một cách toàn diện: “Phát
triển bền vững bao trùm cac mặt của đời sống xã hội, nghĩa là phải gắn kết sự

phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, gìn giữ và cải
thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh”.
Như vậy, phát triển bền vững là sự phát triển trong mối liên hệ gắn kết
chặt chẽ thực hiện bốn nhóm mục tiêu lớn: mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội,
mục tiêu môi trường và an ninh quốc phòng.
Bền vững về kinh tế đòi hỏi nền kinh tế phải tăng trưởng GDP và GDP bình
quân đầu người cao; cơ cấu kinh tế phải hợp lý, đảm bảo cho tăng trưởng
GDP ổn định; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chí phấn đấu cho tăng
trưởng.
Bền vững về xã hội lý giải một điều rằng, liệu một xã hội có thể được coi là
phát triển bình thường, nếu dân số giảm sút? Quá trình đó bao gồm: mở rộng
các cơ hội lựa chọn cho mọi người; mọi người cùng tham gia vào quá trình
phát triển và mọi người cùng được hưởng từ quá trình phát triển bền vững
này.
Bền vững về môi trường, đối với từng cá nhân cũng như cả loài người, môi
trường có 3 chức năng: là không gian sinh tồn của con người; là nơi cung cấp
tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người; là
nơi chứa đựng, xử lý, tái chế các phế thải của con người. Vì thế, môi trường
bền vững là môi trường luôn luôn thay đổi nhưng đảm bảo thực hiện cả ba
chức năng nói trên. Xã hội phát triển bền vững là xã hội mà con người có
cuộc sống chất lượng cao trên nền tảng sinh thái bền vững.
Như vậy khái niệm “bền vững” được đề cập đến trong nội dung nghiên
cứu của đề tài chính là đảm bảo đầy đủ lợi ích kinh tế - xã hội của người lao
động đó là có thu nhập ổn định, đảm bảo các nhu cầu của cuộc sống, xoá bỏ
khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp…ngoài ra, “bền vững về môi
trường cũng là một nội dung quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài
của một quốc gia.
1.3. Việc làm bền vững.
Theo Tổng giám đốc ILO, Juan somavia thì mục tiêu chính của ILO

ngày nay là tạo cơ hội cho nam và nữ có được việc làm bền vững và năng suất
trong điều kiện tự do, công bằng, an toàn và tôn trọng giá trị nhân phẩm.
Việc làm bền vững tóm tắt những khát vọng của con người trong cuộc
sống lao động của họ về cơ hội và thu nhập, quyền lợi, tiếng nói và sự thừa
nhận; sự ổn định gia đình và phát triển cá nhân; sự công bằng và bình đẳng
như nhau. Việc làm bền vững phản ánh mối quan tâm của Chính phủ, người
lao động và người sử dụng lao động, những người sẽ cùng nhau tạo ra một sự
hợp nhất về đối thoại ba bên.
Việc làm bền vững được đúc kết trong bốn chiến lược mục tiêu: Những
nguyên tắc và quyền cơ bản ở nơi làm việc và tiêu chuẩn lao động quốc tế;
công việc và cơ hội thu nhập; bảo trợ xã hội; cơ chế tham vấn ba bên và đối
thoại xã hội. Những mục tiêu này được đưa ra cho tất cả người lao động, nam
và nữ trong cả nền kinh tế chính thức và phi chính thức; trong tiền lương lao
động hoặc làm việc dựa trên tài khoản của họ; trong địa phương, xí nghiệp và
văn phòng; trong gia đình và trong cộng đồng.
Việc làm bền vững chính là kết quả của sự nỗ lực để giảm tình trạng
nghèo nàn, và nó có ý nghĩa quan trọng để đạt được sự công bằng, giới hạn
của sự phát triển. ILO làm việc để phát triển việc làm bền vững – phương
pháp định hướng cho các chính sách kinh tế - xã hội trong sự cộng tác với các
cơ quan quan trọng và sự tham gia của nhiều phía và nền kinh tế toàn cầu.
Sự phát triển đòi hỏi hành động ở cấp độ toàn cầu. ILO đang phát triển
các chương trình nghị sự cho cộng đồng nơi làm việc được miêu tả là đối
thoại ba bên để huy động nguồn lực đáng kể của họ để tạo ra cơ hội và giúp
làm giảm và trừ bỏ sự nghèo nàn. Chương trình nghị sự việc làm bền vững
đưa ra một nền tảng cho khung làm việc vững chắc và đúng đắn hơn cho sụ
phát triển toàn cầu.
ILO cung cấp sự hỗ trợ thông qua việc tham gia vào chương trình quốc
gia về việc làm bền vững qua sự phối hợp với các cơ quan của ILO. Họ xác
định những thuận lợi và mục tiêu trong khuôn khổ phát triển của quốc gia
mục đích để giải quyết những vấn đề tài chính thiếu hụt chủ yếu trong việc

làm bền vững thông qua những chương trình hiệu quả để đi theo những mục
tiêu trên.
2. Các yếu tố cấu thành việc làm bền vững.
2.1. Các quyền tại nơi làm việc.
Những nguyên tắc của nền kinh tế toàn cầu nên trở thành những mục
tiêu về nâng cao các quyền, nghề nghiệp, an toàn và cơ hội cho con người, gia
đình và các cộng đồng trên toàn thế giới. (World commission on the Social
Dimension of Globalization, 2004).
Việc đưa ra về các quyền tại nơi làm việc chính là một sự đảm bảo về
quyền lợi của người lao động và việc không sủ dụng lao động trẻ em, xoá bỏ
sự phân biệt đối xử về nghề nghiệp và bóc lột sức lao động. Các quyền tại nơi
làm việc được thể hiện trên bốn khía cạnh sau đây:
- Tự Do hiệp hội
Quyền của người lao động và người sử dụng lao động được hình thành và
tham gia vào các hiệp hội là một phần không thể thiếu của sự tự do và xã hội
mở. Đó là nền tảng cho quyền của công dân một nước phục vụ cho việc xây
dựng khuôn mẫu cho phát triển kinh tế và xã hội. Đó chính là sự thừa nhận
đúng đắn về quyền thương lượng của tập thể. Tiếng nói và sự đại diện là
những thành phần quan trọng của việc làm bền vững.
- Xoá bỏ Lao động cưỡng bức.
ILO cũng nhấn mạnh về hiệu quả luật pháp quốc gia và sự vững chắc của cơ
chế ép buộc như một sự thừa nhận của luật pháp và người lao động chống lại
một cách mạnh mẽ những người bóc lột sức lao động. Bằng sự nâng lên của
nhận thức cộng đồng, ILO tìm ra những điểm nổi bất về sự vi phạm về quyền
lao động và quyền con người.
- Xoá bỏ sự phân biệt đối xử.
Hàng trăm triệu người phải chịu đựng sự phân biệt đối xử về việc làm trên thế
giới. Nó không những vi phạm những quyền con người cơ bản nhất mà còn
gây ra hậu quả về kinh tế và xã hội. Sự phân biệt đối xử hạn chế các cơ hội,
lãng phí trí tuệ con người cần cho sự phát triển kinh tế và nhấn mạnh áp lực

xã hội và sự không bình đẳng. Cuộc chiến chống lại sự phân biệt đối xử là
phần chủ yếu của tạo việc làm bền vững và thành công này sẽ vượt ra ngoài
phạm vi nơi làm việc.
- Xoá bỏ lao động trẻ em
Có hơn 200 triệu trẻ em đang làm việc trên toàn thế giới, trong đó rất nhiều là
làm cả ngày. Chúng bị thiếu một sự giáo dục đầy đủ, sức khỏe và tự do cơ
bản. Trong đó, 126 triệu - hoặc cứ 12 trẻ em thì có 1 trẻ em trên thế giới bị
vứt bỏ tới những nơi lao động trẻ em nguy hiểm gây tổn hại tới sức khoẻ, tinh
thần và sự phát triển trí tuệ.
Như các yếu tố khác của việc làm bền vững thì xoá bỏ lao động trẻ em
chính là sự phát triển cho thấy quyền con người. Các chương trình và chính
sách của ILO đều nhằm mục đích đảm bảo trẻ em nhận được sự giáo dục và
đào tạo mà chúng cần để chúng trở thành người có ích trong việc làm bền
vững.
2.2. Tạo việc làm.
Đây là một nội dung quan trọng trong việc làm bền vững, mục đích
chính của tạo việc làm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế như: giải quyết
việc làm, nâng cao năng suất, tạo ra thu nhập cao, ổn định cho người lao động
góp phần quan trọng vào sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng mà còn
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia nói, ngoài ra còn mang
nhiều ý nghĩa về mặt xã hội, đó chính là: giải quyết tình trạng thất nghiệp, hạn
chế các hiện tượng xã hội nổi cộm, đẩy mạnh sự phát triển của từng vùng, dần
hướng tới sự bình đẳng trong thu nhập cũng như khoảng cách giàu nghèo có
thể được thu hẹp lại.
2.3. Bảo trợ xã hội.
Mục đích để thúc đẩy chăm sóc con người và sự ủng hộ của xã hội trên
quy mô rộng lớn và trở nên có ích và không thể thiếu được cho hoà bình xã
hội, nâng cao tăng trưởng kinh tế.
2.3.1. Định nghĩa.
“Bảo trợ xã hội được hiểu một cách rộng rãi như là một loạt các chính

sách, chương trình công và tư được xã hội thực thi để đáp lại nhu cầu nảy sinh
trong những tình huống khác nhau để cân bằng sự thiếu hụt hoặc suy giảm đáng
kể của thu nhập từ công việc; để trợ giúp cho các gia đình có trẻ em cũng như
cung cấp cho mọi người với những sự chăm sóc về sức khoẻ và nhà ở”.
Mục đích của việc xây dựng hệ thống bảo trợ xã hội được thể hiện ở
các khía cạnh sau đây:
- Bảo trợ xã hội bao gồm những sự phản hồi, đáp ứng từ xã hội đối với các
mức độ về rủi ro hoặc bị mất đi/giảm đi để đáp ứng được những nhu cầu tối
thiểu được đạt được những quyền cơ bản. Những điều này bao gồm việc tiếp
cận với thu nhập, phương kế sinh nhai, việc làm, các dịch vụ giáo dục và ytế,
dinh dưỡng và nhà ở.
- Bảo trợ xã hội nhằm giải quyết các vấn đề liên quan tới việc bị mất đi hoàn
toàn và yếu thế của những người dân nghèo nhất, cũng như nhu cầu của
những người hiện không phải là người nghèo nhằm bảo trợ cho họ có thể ứng
phó với những cú sốc và những thay đổi trong cuộc đời họ (cụ thể là khi họ về
già).
- Đặc điểm của sự đáp ứng về mặt chính sách này có thể liên quan đến rất
nhiều cơ quan khác nhau như: Chính quyền Trung ương hoặc địa phương, xã
hội, dân sự (các hội thành viên hay tự nguyện, công đoàn, các tổ chức phi
chính phủ), khu vực tư nhân.
- Có hai phạm trù nổi bật về bảo trợ xã hội. Trợ giúp xã hội bao gồm những
hoạt động công được thiết kế để chuyển tải những nguồn lực tới các nhóm có
đủ điều kiện nhận sự trợ giúp do lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Bảo hiểm xã
hội là một sự trợ giúp về mặt an toàn xã hội, có nguồn tài chính xuất phát từ
những sự đóng góp và được dựa trên nguyên tắc bảo hiểm, đó là những cá
nhân hoặc hộ gia đình có nhu cầu bảo vệ bản thân họ trong việc ứng phó với
các rủi ro bằng cách kết hợp các nguồn lực của họ với những người cùng
trong hoàn cảnh như mình.
2.3.2. Các thành phần của bảo trợ xã hội.
Bảo trợ xã hội có 5 thành phần chủ chốt được đề cập trong biểu sau đây:

Biểu 2.1: Những hình thức bảo trợ xã hội.
Hình thức bảo trợ xã hội Người hưởng Lợi dự kiến
Các chương trình thị trường lao động. Lực lượng lao động tích cực bao gồm những
người mới tham gia lực lượng lao động,
những người lao động bị nghỉ việc từ những
doanh nghiệp nhà nước.
Bảo hiểm xã hội. Người lao động và những thành viên gia đình
sống phụ thuộc vào họ mà đối mặt với việc
mất nguồn thu nhập.
Những chương trình trợ giúp theo khu vực,
mang tính trợ giúp vi mô.
Người lao động trong khu vực chính thức,
nông thôn và thành thị.
Chương trình bảo vệ trẻ em. Những người sẽ tham gia vào thị trường lao
động trong thời gian sắp tới.
Trợ giúp xã hội. Hầu hết những nhóm người yếu thế (người
cao tuổi bị tàn tật), người nghèo nhất, những
người không thể tham gia thị trường lao
động, những người chịu nhiều hoàn cảnh khó
khăn, ảnh hưởng bởi các khủng hoảng,
những người bị xã hội ruồng bỏ.
2.4. Đối thoại xã hội.
ILO chỉ rõ đối thoại xã hội bao gồm sự đàm phán, tư vấn, trao đổi
thông tin giữa đại diện của chính phủ, người sử dụng lao động và nguươì lao
động về việc đưa ra quyền lợi chung. Đối thoại xã hội hiệu quả phụ thuộc
vào:
- Sự tôn trọng quyền cơ bản của tự do hiệp hội và thương lượng tập thể.
- Vững chắc, sự độc lập về tổ chức của người lao động và người sử dụng lao
động với năng lực kỹ thuật và kiến thức được yêu cầu tham gia vào đối thoại
xã hội.

- Về chính trị sẽ đưa ra các cam kết về bảo trợ xã hội trở thành phần của các
cuộc đối thoại.
- Hỗ trợ cơ quan thích hợp.
Mục tiêu chính của đối thoại xã hội là việc thúc đẩy xây dựng sự nhất
trí và sự dân chủ. Thể chế đối thoại xã hội thành công. Quá trình đó có khả
năng giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội quan trọng, khuyến khích sự
quản trị tốt, tiến bộ xã hội và hoà bình công nghiệp, ổn định và thúc đẩy phát
triển kinh tế.
II/ Sự cần thiết phải tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam.
1. Những đòi hỏi nội tại nền kinh tế và yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới.
Việt Nam đang dần thoát khỏi tình trạng lạc hậu, phát triển và đang hội
nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế quốc tế, trong bối cảnh đó thì yêu cầu về
tạo việc làm bền vững ngày một quan trọng, tuy nhiên sẽ có những thách thức
không nhỏ cả về nội tại nền kinh tế cũng như yêu cầu của hội nhập kinh tế thế
giới.
1.1 Những đòi hỏi nội tại nền kinh tế.
- Số lượng lao động và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, đặc biệt ở khu vực nông
thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, các vùng chậm phát triển còn rất thấp và
chậm được cải thiện. Lao động đã qua đào tạo vẫn còn nhiều bất cập so với
nhu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là lao động lành nghề, lao động trình
độ cao phục vụ nhu cầu phát triển các ngành, các lĩnh vực sản xuất mới, các
khu công nghiệp và cho xuất khẩu lao động. Ngoài ra, ý thức tổ chức kỹ
thuật, kỷ luật lao động và kỷ luật công nghệ cũng rất cần được đưa vào
chương trình giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực.
- Chính sách lao động việc làm chủ yếu hướng vào giải quyết vấn đề tăng số
lượng việc làm, nên sự tác động đối với sự thay đổi tiến bộ về chất lượng việc
làm còn hạn chế. Mặc dù số lượng việc làm mới được tạo ra lớn và tăng liên
tục qua các năm, song phần lớn là việc làm thủ công, việc làm không cần
trình độ chuyên môn kỹ thuật. Rõ ràng là vấn đề chất lượng việc làm còn
nhiều hạn chế cần phải được nâng lên.

- Một số chính sách vĩ mô nhằm ưu tiên tạo việc làm chưa rõ ràng chính sách
đầu tư chưa thể hiện rõ vào việc ưu tiên, khuyến khích phát triển các ngành,
sản phẩm có dung lượng lao động lớn. Nhiều nguồn vốn lớn của Nhà nước
được tập trung cho các ngành, sản phẩm dung lượng vốn lớn mà tạo được ít
việc làm (xi măng, hoá chất, luyện cán thép…).
- Một số giải pháp hỗ trợ tạo việc làm, giải quyết việc làm còn chưa mạnh. Ví
dụ quy định về khoản giá trị tín dụng cho các hộ gia đình còn nhỏ (Mặc dù đã
nâng lên 20 triệu đồng/hộ nông dân), việc tổ chức dạy nghề còn chưa thực sự
gắn với nhu cầu thực tế…Chưa có những giải pháp chính sách cụ thể đối với
nhóm lao động thanh niên mới ra nhập thị trường lao động.
- Thị trường lao động kém phát triển, sức cạnh tranh yếu và có nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa so với các loại thị trường khác trong nước cũng như so với
thị trường lao động các nước trong khu vực thể hiện ở tỷ lệ lao động làm công
ăn lương thấp, hệ thống giao dịch kém phát triển, chi phí giao dịch cao, thông
tin Thị trường lao động thiếu cập nhật và khó tiếp cận đối với đại đa số người
lao động.
- Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong nhóm tuổi từ 15-24 ở khu
vực thành thị còn rất cao ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, cũng
như xu hướng tăng tỷ lệ thất nghiệp ở lao động đã qua đào tạo.
- Chưa có giải pháp tổng thể và hữu hiệu nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho
lao động ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, ở các vùng đô thị hoá;
chưa có giải pháp giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh tại các khu công
nghiệp tập trung và các vùng đô thị hoá.
- Hiểu biết về luật lao động, về quyền và nghĩa vụ của cả người lao động và
chủ sử dụng lao động còn hạn chế, dẫn đến những tranh chấp lao động, kể cả
đình công xảy ra ở nhiều nơi.
- Hệ thống đảm bảo xã hội chưa hoàn thiện, chưa đảm bảo là lưới an toàn cho
các nhóm yếu thế trong thị trường lao động.
1.2. Thách thức hội nhập kinh tế thế giới.
Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam khi tham gia vào thị trường quốc

tế nói chung và thị trường lao động nói riêng đó chính là sự hoàn thiện của hệ
thống văn bản chính sách pháp luật theo các thông lệ quốc tế và sự yếu kém
về tăng trưởng kinh tế, tình trạng nhập siêu, hạ tầng kinh tế…ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng tạo việc làm bền vững ở Việt Nam.
- Mặc dù tốc độ xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan có
thẩm quyền được duy trì ở mức độ cao, thậm chí còn được đẩy nhanh hơn với
thời kỳ Việt Nam đàm phán gia nhập WTO. Chất lượng văn bản đảm bảo tuân
thủ nội dung của cam kết quốc tế, góp phần làm cho hệ thống văn bản pháp
luật thương mại, kinh tế của Việt Nam hội nhập nhanh hơn với các thông lệ
quốc tế, tuy nhiên vẫn còn có một số văn bản không theo kịp lộ trình cam kết,
chẳng hạn việc xây dựng thông tư liên tịch về việc xử lý hình sự các vi phạm
pháp luật sở hữu trí tuệ, đành rằng việc ban hành chậm đó có nhiều lý do
chính đáng, trong đó đặc biệt là các lý do khách quan, do hạn chế về kiến thức
pháp luật…Đồng thời, vấn đề quan ngại lớn nhất là pháp luật Việt Nam chậm
đi vào cuộc sống, cơ chế thực thi pháp luật còn lỏng lẻo, chưa nghiêm.
- Hệ thống toà án và thực thi luật pháp còn nhiều hạn chế do các thủ tục còn
rườm rà và chi phí cao, thiếu tính minh bạch. Hiệu quả của dịch vụ hành
chính vẫn còn yếu kém chưa được tinh giản, tốc độ cải cách hành chính vẫn
chậm, nạn quan liêu, tham nhũng vẫn còn nhiều và ngày càng tinh vi, rất khó
phát hiện.
- Sở hữu trí tuệ vẫn là vấn đề nóng hiện nay và là một trở ngại gây thiệt hại
không chỉ doanh nghiệp nước ngoài mà cả doanh nghiệp trong nước. Tình
trạng chiếm dụng thương hiệu, làm nhái sản phẩm của những thương hiệu nổi
tiếng, hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, tranh chấp bản quyền...
Theo nhận định của Cục Sở hữu trí tuệ, trong suốt một năm qua, kể từ thời
điểm kết thúc đàm phán, Việt Nam không ngừng nỗ lực để đưa hệ thống sở
hữu trí tuệ của Việt Nam đến chỗ hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực quốc tế,
cụ thể ở các hoạt động hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực thi pháp
luật. Đến nay, hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã hầu như
đạt được chuẩn mực quốc tế, thậm chí còn được các chuyên gia Tổ chức Sở

hữu trí tuệ thế giới đánh giá là một hệ thống bảo hộ tiên tiến, nhưng vẫn còn
một số điểm cần được bổ khuyết.
- Tình trạng nhập siêu ở mức hai con số; Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống
đường giao thông , cảng, điện… trở nên quá tải; Thiếu lao động trình độ cao
trong hầu hết các ngành đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao, dịch vụ…
đang kìm hãm quá trình chuyển dịch cơ cấu.
2. Vai trò của việc làm bền vững đối với phát triển kinh tế xã hội.
Với những nội dung đã trình bày ở phần đầu, việc làm bền vững đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh
tế xã hội:
- Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nâng
cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính bền vững của nền kinh tế.
- Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
đầu tư cho phát triển.
- Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, phát huy hiệu lực của bộ máy nhà nước đáp
ứng yêu cầu phát triển
III/ Kinh nghiệm của một số nước trong tạo việc làm bền vững.
1. Kinh nghiệm của SINGAPORE.
1.1. Thúc đẩy tính linh hoạt của thị trường lao động.
- Thay đổi Luật lao động cho phù hợp. Pháp luật lao động cần được rà soát
thường xuyên để đảm bảo rằng các điều luật đáp ứng được nhu cầu của chủ
sử dụng lao động và người lao động và nhu cầu của nền kinh tế trong môi
trường kinh doanh thay đổi nhanh chóng.
Điều luật được sửa đổi quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ sử dụng
lao động và người lao động trong công ty tiến hành tái cấu trúc và đưa ra cơ
chế để giải quyết tranh chấp.
Một trong những nguyên tắc quan trọng của luật sửa đổi là đảm bảo

tính liên tục của việc làm cho những người lao động bị thuyên chuyển.
- Thực hiện hệ thống trả lương linh hoạt và dựa vào hiệu quả SXKD.
1.2. Tăng cường khả năng có việc làm thông qua nâng cao tay nghề và
phát triển lực lượng lao động.
- Tổ chức các hoạt động ở cấp quốc gia về phát triển kỹ năng tay nghề cho lực
lượng lao động nhằm giúp cho các doanh nghiệp và các ngành công nghiệp
duy trì được khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế mới. Lao động có tay nghề
có thể tìm được việc dễ dàng hơn, và nhờ đó họ có chất lượng cuộc sống tốt
hơn.
- Nhằm hỗ trợ người lao động nâng cao tay nghề, WDV đã ban hành khung
tiêu chuẩn quốc gia về trình độ và kỹ năng vào tháng 11/2005, gọi tắt là hệ
thống trình độ tay nghề quốc gia Singapore. Hệ thống này đặt ra một lộ trình
rõ ràng về đào tạo và cấp chứng chỉ cho người lao động nhằm nâng cao năng
lực và tay nghề cho họ, và đưa ra những hướng dẫn các doanh nghiệp, các
ngành công nghiệp làm thế nào để nâng cao trình độ tay nghề cho người lao
động. Với cách tiếp cận theo ngành, người lao động có thể có được những kỹ
năng công nghiệp và kỹ năng tay nghề đáp ứng yêu cầu công việc.
- Nhằm xây dựng năng lực cho lực luợng lao động, cơ quan WDV cũng đã
đưa ra những sáng kiến cụ thể cho từng ngành ví dụ như chương trình ” vị trí
và đào tạo” nhằm lấp các chỗ trống về tay nghề. Chương trình này được thực
hiện ở các ngành công nghiệp có quy mô lớn như thực phẩm và đồ uống,
hàng không vũ trụ, dệt và chế biến hoá chất. Những chương trình này giúp
đào tạo và tạo ra lực lượng lao động địa phương có năng lực sẵn sàng cho
người sủ dụng lao động khi cần thiết.
- Ngoài việc giúp đỡ người lao động có việc làm, tổ chức phát triển tay nghề
đào tạo còn tạo điều kiện tiếp cận cơ hội việc làm cho những người tìm việc
qua mạng lưới Liên kết nghề nghiệp ( Distributed careerLink Network). Mạng
lưới này được thành lập với sự tham gia của 13 thành viên của Singapore.
1.3. Quan hệ công nghiệp hài hoà và quan hệ đối tác ba bên.
Môi trường quan hệ Lao động hài hoà là một cơ sở then chốt để có

được môi trường đầu tư thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế, và nó sẽ tác động
trở lại tạo ra nhiều việc làm được trả công tốt hơn cho người lao động.
- Chủ sủ dụng lao động, công đoàn và người lao động được khuyến khích để
làm việc như một tập thể chung nhằm phòng ngừa không để các mối bất hoà
leo thang thành sự đối đầu căng thẳng và gây ảnh hưởng đến tính cạnh tranh
của doanh nghiệp và lợi ích lâu dài của người lao động.
- Ở cấp quốc gia, sự hợp tác 3 bên đã được xây dựng từ lâu và đây cũng là
một lợi thế cạnh tranh trong việc đảm bảo sự hài hoà trong các mối quan hệ
công nghiệp cả trong những thời điểm thuận lợi cũng như khi xảy ra khủng
hoảng.
- Ban hành Luật về Quan hệ công nghiệp và đã đi vào thực hiện. Mục tiêu
chính của Luật này là: (1) Phát triển lực lượng lao động có khả năng làm việc
hiệu quả và tận tuỵ vì sự thành công trong kinh doanh; (2) phát huy đầy đủ
tiềm năng của người lao động, tạo điều kiện để họ có thể có thu nhập cao hơn
và có cuộc sống tốt hơn; (3) đóng góp vì một môi trường làm việc hài hoà,
tăng cưòng sự hợp tác ba bên và nâng cao tính cạnh tranh tổng thể của cả nền
kinh tế Singapore phục vụ tăng trưởng cao.
1.4. An toàn và vệ sinh lao động tại nơi làm việc
- Uỷ ban tư vấn về Vệ sinh an toàn tại nơi làm việc đã được thành lập với đại
diện của các ngành công nghiệp nhằm thúc đẩy tính tự tuân thủ và quán triệt
tính tự chủ và tự giác về an toàn vệ sinh lao động của các ngành công nghiệp.
Xây dựng các tiêu chuẩn và quy phạm về an toàn vệ sinh lao động, nâng cao
nhận thức về ATVSLĐ và khuyến khích các ngành công nghiệp nâng cao tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn của ngành mình, đào tạo cho các bên liên quan chính
nhằm nâng cao năng lực và khả năng về ATVSLĐ.
Những nguyên tắc chính của chương trình ATVSLĐ là: (1) giảm thiểu
rủi ro tại nguồn bằng cách yêu cầu các bên liên quan giảm thiểu tối đa hoặc
loại trừ nguy cơ rủi ro mà họ gây ra; (2) yêu cầu các ngành công nghiệp phải
chịu trách nhiệm cao hơn về các kết quả ATVSLĐ; (3) phòng ngừa tai nạn lao
động thông qua việc áp dụng hình phạt nặng hơn đối với những trường hợp

quản lý kém về ATLĐ.
1.5. Tăng cường An ninh thu nhập và khả năng có việc làm suốt đời cho
người lao động Singapore.
- Chế độ hưu trí phù hợp. Để đảm bảo cho mọi người dân Singapore có đủ
tiền tiết kiệm cho các nhu cầu về hưu trí, nhà ở và chăm sóc sức khoẻ, Chính
phủ Singapore đã thành lập Quỹ tiết kiệm trung ương (Central provident
Fund). Hệ thống này đảm bảo rằng mỗi người lao động phải tích luỹ thu nhập
hàng tháng trong thời gian đi làm và những tiết kiệm này có thể sử dụng để
mua nhà, chăm sóc y tế và những nhu cầu tuổi già, đặc biệt là hưu trí.
- Hỗ trợ người lao động thu nhập thấp thông qua “ bồi dưỡng việc làm”.
Khoản hỗ trợ được thực hiện trong 6 lĩnh vực chính: (1) hỗ trợ công việc
thông qua ưu đãi về tiền cho những người lao động và hỗ trợ mua nhà một lần
cho người mua lần đầu tiên; (2) hỗ trợ xã hội để người lao động có thể đi làm
việc; (3) nâng cao tay nghề để đi tìm việc làm tốt hơn thông qua các chương
trình đào tạo nghề phù hợp và dễ tiếp cận;(4) Mở rộng cơ hội việc làm và sắp
xếp lại các việc làm hiện có thông qua tự động hoá, đẩy mạnh hình ảnh công
việc, xác định lại quy mô trách nhiệm công việc và tiêu chuẩn nghề;(5) Xây
dựng niềm tin và hy vọng vào tương lai thông qua các chương trình giáo dục
chi phí thấp, hỗ trợ thanh niên không đi học để họ có được năng lực và khả
năng có việc làm;(6) Chia sẻ với Uỷ ban quốc gia thông qua việc chia sẻ ngân
sách còn dư của chính phủ và mọi người dân Singapore nhằm đem lại phúc
lợi tốt hơn cho gia đình có thu nhập thấp.
2. Kinh nghiệm của Hồng Công.
- Hồng Công áp dụng Công ước quốc tế số 2 về Thất nghiệp, Công ước số
122 về Chính sách việc làm và Công ước số 142 về Phát triển nguồn nhân lực
mà không có bất kỳ một điều chỉnh nào.
- Chính sách cốt lõi của chính quyền Hồng Công trong một thời gian dài là
thúc đẩy việc làm đầy đủ, năng suất và người lao động có thể tự do lựa chọn
việc làm.
- Chính sách việc làm là phát triển lực lượng lao dộng được đào tạo chuyên

môn, có động lực rõ rệt và có khả năng thích nghi cao. Việc đầu tư vào nguồn
nhân lực, tài sản giá trị nhất của Hồng Công là một trong những ưu tiên hàng
đầu của Chính phủ. Thông qua việc làm giàu kiến thức và nâng cao kỹ năng
của lực lượng lao động, người dân có thể có được việc làm bền vững và năng
suất.
- Dịch vụ việc làm: Trong ấn phẩm của ILO “Dịch vụ việc làm công trong
một thị trường lao động đang chuyển đổi”, các chức năng chính của dịch vụ
việc làm này là:
+ Môi giới việc làm (quá trình sắp xếp để người tìm việc có được việc làm và
người sử dụng lao động lấp được việc làm trống).
+ Cung cấp thông tin thị trường lao động.
+ Quản lý các chương trình điều tiết thị trường lao động.
+ Quản lý vấn đề bảo hiểm thất nghiệp.
Dịch vụ việc làm công được coi là một lối vào quan trọng để giúp
người thất nghiệp đi theo đúng hướng thị trường lao động và các chương trình
hỗ trợ khác.
Trong Bộ Lao động, PES được cung cấp thông qua 5 bộ phận sau:
+ Ban dịch vụ việc làm.
+ Ban thông tin và xúc tiến việc làm.
+ Ban việc làm thanh niên.
+ Ban bố trí việc làm đặc biệt: hỗ trợ bố trí công việc cho người tàn tật.
Nhằm đối phó với những thách thức về thất nghiệp. Họ đã đưa ra hàng
loạt các chưong trình giúp người yếu thế để họ tham gia vào thị trưòng lao
động. Các biện pháp đó là:
+ Bắt đầu tiến hành tin học hoá tất cả các Trung tâm việc làm, bao gồm việc
thiết lập một hệ thống máy tính.
+ Đưa ra chương trình xúc tiến thông tin việc làm để tăng cường quan hệ với
người sủ dụng lao động và tiếp cận các việc làm đang trống.
+ Thiết lập trung tâm dịch vụ việc làm qua điện thoại.
+ Tái tăng cường và lồng ghép trung tâm việc làm vào các hoạt động của các

ban Quan hệ lao động để cung cấp dịch vụ một cửa cho người tìm việc.
+ Xúc tiến trang web dịch vụ việc làm tương hỗ (IES).
+Phát động chương trình bồi dưỡng kiến thức trước khi vào nghề cho thanh
niên.
+ Thiết lập siêu liên kết giữa IES với các trang web việc làm khác và để các
cơ sở việc làm tư nhân đăng tin tuyển dụng lên IES.
+ Lập kế hoạch Đào tạo và Kinh nghiệm làm việc cho thanh niên.
+ Phát động chương trình việc làm cho người trung niên
+ Cơ chế phối hợp xét xử về việc làm.
- Chương trình việc làm dành cho một số nhóm đối tượng khác.
+ Chương trình đào tạo kiến thức trước khi làm việc cho thanh niên. Khoá
đào tạo được chia làm 4 phần riêng biệt:
+ Khoá 1: Đào tạo khả năng lãnh đạo, tính kỷ luật và kỹ năng làm việc
theo nhóm.
+ Khoá 2: Tìm hiểu về công việc và kỹ năng làm việc với nhiều người.
+ Khoá 3: Sử dụng vi tính ở mức độ sơ/trung cấp.
+ Khoá 4: Các kỹ năng của một công việc cụ thể.
+ Việc làm cho thanh niên và kế hoạch đào tạo: cải thiện khả năng làm việc
cho thanh niên trong độ tuổi 15-24 sau khi đã kết thúc việc học tập ở mức độ
thấp thông qua cung cấp cho họ những kinh nghiệm làm việc thực tiễn trong
thời gian đào tạo trực tiếp qua công việc từ 6-12 tháng.
Qua chương trình này, học viên thực tập được đào tạo về nghề nghiệp
và được cung cấp các kỹ năng thông qua làm việc trực tiếp dưới sự hướng dẫn
của những người có kinh nghiệm do người chủ sử dụng lao động chỉ định.
+ Chương trình việc làm cho trung niên: Bộ Lao động dã áp dụng hàng loạt
các biện pháp tiên phong nhằm hỗ trợ người có tuổi tìm việc làm. Các biện
pháp này bao gồm việc cung cấp dịch vụ ưu tiên cho những người tìm việc từ
50 tuổi trở lên hoặc các dịch vụ cá nhân, ngoài ra Bộ Lao động cũng trtiển
khai Chương trình thí điểm sử dụng lại lao động là đối tượng trung niên.
Chương trình EPM có mục tiêu ỗ trợ các đối tượng thất nghiệp trên

dưới 40 tuổi và đảm bảo việc làm thông qua việc cấp kinh phí trợ cấp đào tạo
nhằm khuyến khích người sử dụng lao động tuyển những lao động trên toàn
thời gian và đào tạo họ trên cơ sở vừa học vừa làm.
+ Chưong trình thử việc (WTS): nhằm tăng cường khả năng có việc làm cho
người tìm việc có khó khăn đặc biệt trong tìm kiếm việc làm. Đối tượng này
bao gồm những người đã đăng ký với Bộ Lao động trong một thời gian dài
nhưng vẫn thất nghiệp và những người liên tiếp trượt vòng phỏng vấn xin
việc.
Những người tham gia chương trình được đưa vào làm những công
việc thực sự do các tổ chức tham gia bố trí trong một thời gian thử việc là một
tháng. Trong suốt giai đoạn này, sẽ không có quan hệ lao động giữa ngưòi
tham gia và tổ chức này. Các tổ chức đựoc khuyến khích để tuyển dụng
những người đã tham gia chương trình sau khi họ kết thúc tốt đẹp giai đoạn
thử việc.
Như vậy Chương trình PES với các dịch vụ hỗ trợ của nhiều NGOs đã
hội đủ 6 yếu tố của một chính sách thị trường lao động tích cực:
+ Thiết lập mối liên kết xã hội.
+ Trợ cấp bố trí việc làm.
+ Đào tạo nghề.
+ Hỗ trợ tìm việc làm.
+ Thúc dẩy việc làm trong doanh nghiệp, tự tạo việc làm.
+ Giới thiệu các biện pháp hỗ trợ thanh niên yếu thế.
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Qua những kinh nghiệm của Singapore và Hồng công được trình bày ở
trên, chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước bạn ở một số điểm
sau:
- Thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường; xây dựng
hệ thống quản lý theo các nguyên tắc của WTO.
- Điều chỉnh quy hoạch ngành, đặc biệt là ngành nông nghiệp,theo hướng ưu
tiên những ngành có lợi thế và cho xuất khẩu.

- Thu hút nguồn vốn và công nghệ từ bên ngoài; chú trọng công nghệ cao;
chuẩn hóa chỉ tiêu/thông số kỹ thuật.
- Áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với một số ngành dễ bị tổn thương hoặc
dễ có tác động xấu đến đời sống của người nông dân.
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thông qua quỹ
phát triển (khuyến khích các doanh nghiệp lớn đầu tư ra nước ngoài, tạo điều
kiện giải quyết vấn đề liên quan tới các vụ kiện chống bán phá giá, khuyến
khích giao dịch điện tử, hỗ trợ đăng ký thương hiệu, phát triển kết cấu hạ
tầng…).
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tàu (trong mắt xích phát triển), tạo điều
kiện thúc đẩy liên kết, hợp tác kinh doanh.
- Đào tạo nguồn nhân lực thông qua các khóa học bồi dưỡng, công tác truyền
thông, phối hợp đạo tạo giữa viện, trường, trung tâm, và bộ ngành.
- Bảo vệ môi trường sinh thái thông qua việc xây dựng các khu sinh thái
nông thôn, khu phát triển bền vững nông thôn, khu nông nghiệp sạch, khu
nông sản sạch, khu nông sản hữu cơ.
Kết luận: Kết hợp vai trò của việc làm bền vững đối với phát triển kinh
tế xã hội với những vấn đề đặt ra trong nền kinh tế cũng như yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế đòi hỏi cần tăng cường tạo việc làm bền vững ở Việt Nam.
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TẠO VIỆC LÀM BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
I/ Tổng quan về tạo việc làm ở Việt Nam.
1. Tình hình lao động, việc làm ở Việt Nam.
Đến năm 2007, dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam là 53,951
triệu người, tăng 2,2 triệu so với năm 2005, bình quân hàng năm tăng 1,1 triệu
người. Cũng trong khoảng thời gian đó, số lao động có việc làm tăng lên 2,06
triệu người, từ 42,527 triệu năm 2005 lên 44,590 triệu năm 2007. Tỷ lệ thất
nghiệp cũng có xu hướng giảm liên tục từ 5.3% năm 2005 xuống còn 4.99%
năm 2007 và dự báo kế hoạch đến năm 2010 còn 4.51%.
Biểu 1.1: Xu hướng thay đổi dân số trong độ tuổi lao động và số người có việc làm.

0
10000
20000
30000
40000
50000
60000
70000
2005 2006 2007 KH
2008
KH
2009
KH
2010
Dân số trong độ tuổi lao
động (1000 người)
Số người đang làm viêc
(1000 người)
(Nguồn: TCTK, Bộ KH & ĐT)

×