Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Nhận thức mới của đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.48 KB, 16 trang )

Nhận thức mới của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Công cuộc đổi mới ở nước ta diễn ra đã 24 năm (19862010), đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Trong đó, một thành tựu lớn là Đảng và nhân dân ta nhận thức
về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta
ngày càng rõ hơn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH năm 1991 đã phác họa mơ hình CNXH mà nhân dân ta
xây dựng với sáu đặc trưng. Đại hội lần thứ X bổ sung, phát
triển, làm cho mơ hình CNXH đang được xây dựng ở nước ta
tồn diện hơn, hồn chỉnh hơn. Đó là: "Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển tồn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân
các nước trên thế giới".
Mô hình CNXH nêu trên thể hiện quan điểm Mác - Lê-nin về
CNXH. Một mặt, lấy phục vụ con người làm mục đích, tức là "tất
cả vì con người". Mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con

1


người làm động lực chủ yếu để xây dựng thành công CNXH, tức


là "tất cả do con người". Đồng thời, mơ hình trên cũng thể hiện
sự qn triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH. Mơ hình ấy
biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó
khơng phải là một mơ hình khép kín và cứng nhắc. Mơ hình
CNXH thời kỳ đổi mới ở nước ta chứa đựng khả năng mở rộng
nội hàm, tiếp tục bổ sung những nét mới là kết quả của việc
không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn
phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái
phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một
mô hình có tên gọi: mơ hình CNXH Việt Nam. Nó thể hiện xu
hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của CNXH với sự vận
động không ngừng của nhân loại đi lên phía trước, kế thừa
những thành tựu tiến bộ của lồi người để xây dựng thành cơng
CNXH.
Thực tế 24 năm qua đã chứng minh, với mơ hình này,
chúng ta đã thu được những thành tựu, to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Thời điểm hiện nay đã có yêu cầu bức thiết và những điều
kiện cơ bản đã chín muồi cho việc bổ sung phát triển Cương lĩnh
trong đó có mơ hình CNXH của nước ta.
Lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con
đường quá độ lên CNXH của nước ta có những đổi mới sâu sắc.
Nếu trước đây thường nói, nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa", thì từ Đại hội lần thứ IX trong
các văn kiện chính thức của Đảng, Nhà nước diễn đạt là: Nước
ta quá độ lên CNXH "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa".
Việc "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" được giải thích rõ về
hai phương diện: Thứ nhất, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
2



(TBCN) là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa". Thứ hai, trong
khi bỏ qua những mặt đó, cần "tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học-công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại".
Nhận thức trên đây là kết quả của sự đổi mới tư duy về
CNXH, về mối quan hệ giữa CNXH và CNTB. Tư duy "cũ" hiểu sự
ra đời của CNXH là kết quả của sự phủ định triệt để CNTB, từ đó
có nơi có lúc cho rằng cái gì càng xa với CNTB thì càng gần với
CNXH. Tư duy mới phân biệt sự khác nhau về chất giữa CNXH
và CNTB, nhưng đặt CNXH và CNTB vào lịch trình chung của sự
tiến hóa nhân loại qua năm hình thái kinh tế - xã hội để xác
định vị trí của CNTB như là một giai đoạn phát triển cao của văn
minh nhân loại và là nấc thang cận kề để loài người từ đó bước
sang nấc thang cao hơn là CNXH.
Trong thời đại ngày nay, trên phạm vi thế giới, sự nghiệp
giải phóng những người lao động bị áp bức, bóc lột, sự nghiệp
giải phóng xã hội khỏi tình trạng bế tắc đòi hỏi thay thế CNTB
bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn. Sự phủ định CNTB là một
tất yếu lịch sử và đã thành hiện thực từ Cách mạng XHCN Tháng
Mười Nga (1917). Dù hiện nay CNXH thế giới đang lâm vào
khủng hoảng, xu hướng đó khơng hề thay đổi.
Ở nước ta tiến trình của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân kéo dài 30 năm đã đem lại những thành tựu to lớn,
tạo nên những tiền đề để nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên
CNXH. Những thành tựu và những tiền đề đó (nhất là những
thành tựu trong lĩnh vực xây dựng kiến trúc thượng tầng và
3



những tiền đề về chính trị, xã hội), khơng dung nạp sự thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN. Thậm chí,
những thành tựu đó sẽ bị hủy hoại, những tiền đề đó sẽ bị phủ
định, nếu đất nước đi theo con đường TBCN.
Nước ta cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản" bởi vì:
+ Một là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng nước ta vẫn phải
tơn trọng q trình lịch sử - tự nhiên của sự chuyển biến từ hình
thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, đặc
biệt, phải tơn trọng q trình lịch sử tự nhiên của lực lượng sản
xuất, của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật mà xét đến cùng là
những nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của
chế độ mới.
+ Hai là, từ một nước chậm phát triển, bằng "con đường
rút ngắn" đi lên CNXH, tất yếu nước ta phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài trong đó có sự xen kẽ "những mảnh của chủ
nghĩa xã hội" với "những mảnh của CNTB" (Lê-nin). Trạng thái
xen kẽ ấy làm cho các yếu tố của CNXH và các yếu tố của CNTB
vừa đấu tranh với nhau, vừa "chung sống hịa bình", vừa bài trừ,
vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau.
+ Ba là, nước ta "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng khơng thể
bỏ qua q trình phát triển có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn mà CNTB đã từng trải qua: sản xuất hàng hóa; tiến
hành cách mạng kỹ thuật - theo nhu cầu phát triển biện chứng
của kỹ thuật trong hiệp tác giản đơn, cơng trường thủ cơng, đại
cơng nghiệp cơ khí - để chuyển lao động thủ công thành lao
động sử dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong nước và giao

4



lưu quốc tế, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ và tư tưởng phong
kiến...
+ Bốn là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng phải kế thừa những
thành tựu tiến bộ mà loài người tạo ra trong chế độ CNTB. Sau
khi "bỏ qua" phần lạc hậu của CNTB (địa vị thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN), chúng ta cần tiếp
thu những thành tựu của CNTB và sử dụng chúng vào mục tiêu
xây dựng CNXH. "Bỏ qua" chế độ TBCN, nhưng đồng thời sử
dụng những thành quả văn minh trong CNTB một cách chủ
động và tự giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều kiện mới - điều
kiện có nhà nước XHCN và với chủ thể mới là nhân dân lao
động.
Nhận thức mới của Đảng ta về mô hình CNXH và con
đường đi lên CNXH đã được thể hiện nhất quán. Sự nhất quán
đó sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc cho hệ thống quan điểm
lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã bắt đầu
hình thành và sẽ từng bước được bổ sung, hồn thiện.
Thành tựu đó có ý nghĩa lớn nhưng vẫn là bước đầu.Vì, một
mặt, nó cần được nâng lên trình độ cao hơn về lý luận để trở
thành một triết lý, hay nói cách khác - một bộ phận chủ đạo
trong chủ thuyết chung của công cuộc xây dựng CNXH ở nước
ta; mặt khác, nó phải được mở rộng sang mọi phương diện và
các lĩnh vực quan trọng của công cuộc xây dựng CNXH mà Nghị
quyết của các Đại hội Đảng đã nêu thành nhiệm vụ trực tiếp và
đang được quan tâm sâu sắc. Thí dụ: vấn đề xây dựng quan hệ
sản xuất XHCN chủ yếu dựa trên chế độ công hữu từ một nền
kinh tế đa thành phần, đa sở hữu hiện nay; vấn đề cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh của thời kỳ khoa học-công

5


nghệ bùng nổ và xuất hiện kinh tế tri thức, đặc biệt là cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và nông thôn theo con
đường xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng và phát triển nền dân
chủ XHCN, trong đó mấu chốt là xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN, đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, kết hợp những giá
trị dân tộc truyền thống với những tinh hoa của nền văn minh
hiện đại; vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối
cảnh hội nhập và phải đối mặt với những thách thức từ nhiều
phía...
Điều kiện tiên quyết cho sự thành cơng của việc đồng thời
thực hiện hai nhiệm vụ nói trên là: Kiên định nền tảng tư tưởng
của Đảng, tiếp tục kế thừa và phát triển những kết quả nhận
thức về mô hình và con đường đi lên CNXH ở nước ta và luôn
bám sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn đổi mới của
đất nước trong bối cảnh thế giới ln có những thay đổi.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam  
+ Tính khách quan của thời kỳ quá độ :  
Mác cho rằng: hình thức quá độ trực tiếp từ xã hội TBCN
lên CNXH diễn ra ở các nước tư bản phát triển nhất ở châu Âu
không thể là gì khác ngồi thực hiện CCVS.  
Lê-nin cho rằng: quá độ gián tiếp không qua CNTB ở những
nước tiểu nơng cần có sự giúp đỡ từ bên ngồi của một nước
công nghiệp tiên tiến đã làm cách mạng XHCN thành cơng và
điều kiện bên trong phải có một chính Đảng vơ sản lãnh đạo đất
nước đi theo chủ nghĩa xã hội. Sự sáng tạo của Lênin bổ sung


6


cho học thuyết Mác, xuất phát từ thực tiễn nước Nga, khơng chỉ
là q độ về chính trị.  
+ Hồ Chí Minh thống nhất với các nhà kinh điển và nhấn
mạnh hình thức quá độ "rút ngắn" áp dụng cho Việt Nam.  
Hồ Chí Minh khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là
giải phóng dân tộc, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.  
- Cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử
cụ thể của mỗi nước khi bước vào thời kỳ quá độ: "tuỳ hoàn
cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau... Có
nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội, có nước thì phải kinh
qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội".  
- Hồ Chí Minh xây dựng quan niệm quá độ gián tiếp căn cứ
vào thực tiễn của Việt Nam từ một xã hội thuộc địa, nửa phong
kiến, nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải
phóng dân tộc, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.  
Hồ Chí Minh chỉ ra đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá
độ lên CNXH ở Việt Nam: "Đặc điểm to lớn nhất của nước ta
trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa". Đây là vấn đề mới cần nhận thức và tìm giải
pháp đúng đắn để có hình thức, bước đi phù hợp với Việt Nam.  
"Mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa
một bên là yêu cầu phải tiến lên xây dựng một chế độ xã hội
mới có "cơng, nơng nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến"

7


với một bên là tình trạng lạc hậu phải đối phó với bao thế lực
cản trở, phá hoại mục tiêu của chúng ta".  
Về độ dài của thời kỳ quá độ: lúc đầu dựa theo kinh
nghiệm của Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh dự đốn "chắc
đơi ba, bốn kế hoạch dài hạn,..." sau đó quan niệm được điều
chỉnh: "xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức
tạp, gian khổ và lâu dài".  
A. Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Người nêu: phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật
của CNXH..., vừa cải tạo kinh tế cũ vừa xây dựng kinh tế mới,
mà xây dựng là chủ yếu và lâu dài. Hồ Chí Minh chỉ ra nhiệm vụ
cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội nhằm chống lại các
thế lực cản trở đi lên chủ nghĩa xã hội. Hai nội dung lớn:  
(1) Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa
xã hội, xây dựng tiền đề về kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng
cho chủ nghĩa xã hội.  
(2) Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo
và xây dựng, trong đó xây dựng là trọng tâm, là nội dung cốt
lõi, lâu dài. Tính chất phức tạp và lâu dài, khó khăn được Hồ Chí
Minh lý giải:  
- Là một cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi mặt của đời
sống xã hội cả LLSX, QHSX, KTTT.  
- Là công việc mới mẻ đối với Đảng ta, vừa làm, vừa học,
vừa rút kinh nghiệm.  
- Sự nghiệp của chúng ta bị các thế lực phản động trong và
ngồi nước tìm cách chống phá. Vì vậy, xây dựng chủ nghĩa xã


8


hội vừa đòi hỏi khoa học, hiểu biết qui luật khách quan, vừa
phải có nghệ thuật quản lý khơn khéo.  
B. Nội dung xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hộ ở nước tai  
Chính trị, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất,
nịng cốt là liên minh cơng nhân, nơng dân, trí thức do Đảng
Cộng sản lãnh đạo.  
Kinh tế, Người nhấn mạnh việc tăng năng suất lao động
trên cơ sở tiến hiành cơng nghiệp hố XHCN; xây dựng cơ cấu
kinh tế ngành, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh
tế và lãnh thổm chủ trương đa dạng hố các loại hình sở hữu về
tư liệu sản xuất, đồng thời coi trọng quan hệ phân phối và quản
lý kinh tếm sử dụng hình thức và phương tiện của chủ nghĩa tư
bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kẻ thù muốn đè bẹp ta về
kinh tế thay bằng quân sự, vì vậy ta phải phát triển kinh tế.  
Tư tưởng, văn hoá, xã hội: Bác nêu phải khắc phục sự yếu
kém về kiến thức, sự bấp bênh về chính trị, sự trì trệ về kinh tế,
lạc hậu về văn hoá... tất cả sẽ dẫn đến những biểu hiện xấu xa,
thoái hoá cán bộ, đảng viên... là khe hở chủ nghĩa tư bản dễ
dàng lợi dụng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh "muốn cải tạo xã hội chủ
nghĩa thì phải cải tạo chính mình, nếu khơng có tư tưởng XHCN
thì khơng làm việc XHCN được". "Khắc phục chủ nghĩa cá nhân
là bước quan trọng để tiến lên chủ nghĩa xã hội."

Những nội dung mới về nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa


9


Có thể nói, qua mỗi kỳ Đại hội, nhận thức của Đảng
về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đều được bổ sung
những nội dung mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng vừa tổ chức thành công tại Hà Nội tháng 12011 đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011);
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa X
trình Đại hội XI; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm
2011 – 2020. Nghiên cứu những văn kiện đó, chúng ta
thấy rằng, nhận thức về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam đã được bổ sung những nội dung mới.
“Sắp xếp” lại vị trí của “dân chủ” trong mục tiêu xây
dựng đất nước.
“Dân chủ” đứng trước “công bằng” và “văn minh”.
Điều này không chỉ là vấn đề “câu chữ” mà là logic của
phát triển, là trình tự ưu tiên trong các mục tiêu phái
thực hiện. Dân chủ là tiền đề, là điều kiện của “công
bằng” và “văn minh”. Cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ, có
dân chủ chúng ta mới có sức dân, một nhân dân khơng
phân biệt giàu nghèo, dịng giống, tơn giáo, giai cấp,
nam, nữ... để một nước nhỏ mà đánh thắng các đế quốc
to trong các cuộc kháng chiến thần thánh giành và bảo
10



vệ nền độc lập. Khơng có dân chủ là khơng có dân, mà
mất dân là mất tất cả, như người xưa đã từng nói.
Phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong các văn kiện, cụm từ “Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân...
do sự lãnh đạo của Đảng cộng sản” trước đây thường sử
dụng từ “dưới” nay thay bằng từ “do” – “do sự lãnh đạo
của Đảng”. Đây là một sự thay đổi nhận thức quan
trọng, khẳng định rằng, dù Đảng là hạt nhân của hệ
thống chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, dù “sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam” thì Đảng cũng
khơng đứng trên Nhà nước pháp quyền, không đặt Nhà
nước pháp quyền “dưới” Đảng. Điều này cũng thể hiện
sự chuyển biến nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng
và vai trò quản lý của Nhà nước. Lãnh đạo không phải là
người đứng trên mà là người tiên phong, người chỉ
đường và dẫn đường. Như vậy, những bức xúc từ thực
tiễn, những tranh luận khoa học, ở mức độ nào đó đã
đưa lại chuyển biến trong nhận thức về phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Sự đổi mới vị trí vai trò, mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước, cũng đồng nghĩa với đổi mới nhận thức của
11


Đảng về Nhà nước. Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là cơ quan quyền lực công cộng của
toàn xã hội, do nhân dân lập nên, thực hiện chức năng

công quyền, hành động theo pháp quyền, mọi lợi ích
của các giai cấp, các tầng lớp đều được thực hiện thông
qua Nhà nước, bằng Nhà nước với hệ thống pháp luật,
chính sách của Nhà nước. Tổ chức và vận hành bộ máy
nhà nước là một phương thức thực hành dân chủ của
nhân dân.
Nhận thức về Nhà nước và chủ quyền Nhà nước đã
bắt đầu đổi mới từ khi Đảng ta chủ trương xây dựng
Nhà nước pháp quyền. Đặc trưng quan trọng nhất của
Nhà nước pháp quyền là chủ quyền nhà nước thuộc về
nhân dân. Nhà nước là tổ chức đại diện cho nhân dân,
cho mọi giai cấp, tầng lớp, tộc người, tôn giáo... được
lập ra nhằm thực hiện ý chí chung. Để thực hiện ý chí
chung đó, mọi tầng lớp nhân dân phải đồn kết, đổng
thuận. Chính Nhà nước pháp quyền đã làm thay đổi,
khắc phục cách nhận thức biệt phái, cực đoan, coi Nhà
nước chỉ đơn thuần là công cụ thống trị mà coi nhẹ hoặc
phủ nhận tính xã hội, tính cơng quyền của Nhà nước.
Sự chuyển biến theo hướng tích cực trong nhận thức
về Nhà nước, sẽ góp phần tạo ra những chuyển biến
tích cực trong nhận thức và hành vi của nhân dân, khi

12


nhân dân thấy rằng, Nhà nước là của mình, do mình và
vì mình. Với nhận thức đó, việc nhân dân tổ chức ra Nhà
nước, kiểm soát hoạt động của Nhà nước sẽ trở thành
hiện thực. Điều đó có nghĩa một nền dân chủ thực sự sẽ
trở thành hiện thực. Nền dân chủ ấy sẽ khắc phục dần

tình trạng lộng quyền, lạm quyền, cửa quyền hoặc
nhược quyền vẫn đang tồn tại khá phổ biến trong hệ
thống chính trị nước ta. Nó cũng góp phần khắc phục
tình trạng đặt Đảng cao hơn Nhà nước, Nhà nước cao
hơn nhân dân một cách cơ giới, siêu hình. Vớì tình trạng
đó, nhân dân khơng thể kiểm sốt được quyền lực của
mình khi đã tin cậy trao vào các cơ quan nhà nước và
công chức nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước
Trong một chế độ nhà nước, khi “quan chủ” lấn át
“dân chủ” thì người dân khơng cịn quyền gì, khơng thể
kiểm sốt quyền lực của mình đã ủy thác cho nhà nước,
thậm chí cịn trở thành nạn nhân của các hành vi
chuyên quyền, lộng quyền, lạm quyền...
Vấn đề kiểm sốt quyền lực nhà nước khơng chỉ có ý
nghĩa ở chỗ là chủ thể quyền lực nhà nước kiểm soát
quyền lực của minh đã ủy thác cho Nhà nước, mà ý
nghĩa lớn lao hơn, là ở chỗ nhân dân chỉ có thể tin tưởng
vào Nhà nước, tự nguyện tuân thủ sự quản lý của Nhà
13


nước như là tuân thủ ý chí chung, khi họ kiểm sốt được
cơ quan nhà nước và cơng chức nhà nước. Nhân dân sẽ
không thấy rằng họ đã mạo hiểm và phí phạm lịng tin
khi trao quyền cho các cơ quan nhà nước và công chức
nhà nước.
Trên cơ sở những phân tích tính tất yếu chính trị như
trên, chúng ta mới thấy rằng, những luận điểm về kiểm
soát quyền lực nhà nước trong Cương lĩnh chính trị của

Đảng và trong Báo cáo chính trị của Đảng được thơng
qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI là một bước
tiến lớn trong nhận thức của Đảng về nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của Đảng (bổ sung, phát triển năm
2011) đã bổ sung nội dung kiểm soát quyền lực trong tổ
chức và thực thi quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà
nước phải được kiểm soát, mà trước hết là kiểm soát
ngay từ bên trong Nhà nước, ngay trong quá trình tổ
chức và vận hành bộ máy nhà nước, sau đó là sự kiểm
sốt của nhân dân bằng các hình thức giám sát, phản
biện xã hội khác nhau.
Đảng chủ trương: “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung
các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để đảm bảo
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
14


dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”, “Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các
hoạt động và quyết định của các cơ quan cơng quyền”
Đại hội XI đã ghi dấu ấn của mình về dân chủ trong
tổ chức Đại hội cũng như trong những quyết định của
Đại hội. Tuy nhiên như Đai hội đã nhận định: “Nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng

Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm. Còn
tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội”
.
Để thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước như
là một quá trình “tự nhiên” trong nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, thì sự chuyển biến về nhận thức là
chưa đủ. Quá trình biến nhận thức của Đảng thành nhận
thức và hành vi của toàn xã hội đòi hỏi phải tuyên
truyền, tổ chức thực hiện. Phải xây dựng cho được
những thể chế, cơ chế, quy phạm cụ thể về kiểm sốt
quyền lực nhà nước. Đó là một q trình khơng dễ

15


dàng, cần phải có quyết tâm cao, tri thức rộng và kỹ
năng thành thạo. Đó cũng chính là q trình đưa Nghị
quyết của Đảng đi vào cuộc sống.

16



×