MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU...................................................................................................1
PHẦN 2: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG.....2
2.1. Khái niệm cái riêng và cái chung..........................................................2
2.1.1. Các quan điểm phi Mác-xít..................................................................2
2.1.2. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin.........................................3
2.2. Mối quan hệ và sự tồn tại giữa cái chung và cái riêng........................4
2.2.1. Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.............................................4
2.2.2. Sự tồn tại của Cái chung và cái riêng...................................................5
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận....................................................................6
PHẦN 3: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG
VÀ CÁI RIÊNG VÀO HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN CỦA BẢN THÂN.........7
3.1. Mối quan hệ giữa bản thân và gia đình, nhà trường và xã hội...........7
3.1.1. Quan hệ giữa bản thân và gia đình.......................................................7
3.1.2 Quan hệ giữa bản thân với nhà trường..................................................9
3.1.3. Mối quan hệ giữa bản thân với xã hội................................................10
3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của sinh viên trong gia đình, nhà trường
và xã hội........................................................................................................11
3.2.1. Đối với sinh viên................................................................................11
3.2.2. Đối với giảng viên..............................................................................12
3.2.3. Đối với nhà trường.............................................................................13
PHẦN 4: KẾT LUẬN.............................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................16
i
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Xu hướng xã hội đề cao lý tưởng sống cho “cái chung” hay “cái riêng”
đều có lý do nào đó. Xã hội phương Tây dường như khuyến khích tự do cá
nhân, tơn trọng ước muốn của cá nhân mỗi người, cổ vũ cho các cá nhân được
dịp bày tỏ chính kiến của riêng mình, được pháp luật của quốc gia tôn trọng,
bảo vệ quyền tự do cá nhân, quyền được thể hiện quan điểm dù rằng quan
điểm này có là thiểu số và trái ngược hồn tồn với phần còn lại của tập thể
cộng đồng.
Xã hội phương Đông với các triết lý sống kêu gọi con người phải biết
kiềm chế bản thân, phải biết hy sinh vì tập thể, hy sinh quyền lợi cá nhân cho
cộng đồng, cho đất nước. Một ví dụ về cái chung và cái riêng là: Nghĩa vụ
quân sự là bắt buộc hay tự nguyện vẫn luôn là vấn đề tranh cãi. Cường quốc
số 1 thế giới như Mỹ vẫn đang duy trì chế độ nhập ngũ vào quân đội trên tinh
thần tự nguyện. Thanh niên vào quân ngũ được trả lương, học nghề, đóng bảo
hiểm rủi ro, được hưởng nhiều chế độ phép ưu đãi để đi du lịch vòng quanh
thế giới, tạo việc làm sau khi xuất ngũ, bù đắp cho các thiệt thòi khi phải hy
sinh, cống hiến tự do cá nhân, tính mạng cho quê hương, đất nước. Cái riêng
luôn được đề cao và tôn trọng dù rằng đang phục vụ cho cái chung.
Một số quốc gia có nguồn nhân lực ít như Singapore, Israel, ..v.v.. lại
duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc thường xuyên vì khơng có đủ nhân
lực tham gia qn đội. Cái riêng phục vụ cái chung được xem là nghĩa vụ bắt
buộc, khơng thể trốn tránh … Để làm rõ điều đó, tác giả đã chọn đề tài “
Quan điểm của triết học Mác- Lênin về cặp phạm trù cái riêng - cái
chung và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng
vào hoạt động thực tiễn của bản thân” để có cái nhìn sâu và rộng hơn về đề
tài.
1
PHẦN 2: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI
RIÊNG
2.1. Khái niệm cái riêng và cái chung
2.1.1. Các quan điểm phi Mác-xít
Những nhà nghiên cứu triết học Mác-Lenin đề cập đến có hai quan
điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa "cái riêng" và "cái chung", đó là
phái duy thực và phái duy danh. Triết học Mác-Lenin cho rằng, cả quan niệm
của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng
khỏi cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại.
Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng.
Phái duy thực
Phái duy thực là trường phái triết học có ý kiến về mối quan hệ giữa
"cái chung" và "cái riêng", theo phái này thì "cái riêng" chỉ tồn tại tạm thời,
thống qua, khơng phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có "cái chung" mới tồn tại
vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. "Cái chung" không phụ
thuộc vào "cái riêng", mà còn sinh ra "cái riêng". Cái chung là những ý niệm
tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng
do cái chung sinh ra.
Ví dụ: Con người là một khái niệm chung và chỉ có khái niệm con
người mới tồn tại mãi mãi, còn những con người cụ thể là khái niệm tạm thời
vì những con người cụ thể (cá nhân) này có thể mất đi (chết đi)
Phái duy danh
Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, cịn cái chung
là những tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, khơng phản ánh cái gì trong
hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái
niệm. Những khái niệm cụ thể đôi khi không có ý nghĩa gì trong cuộc sống
của con người, chỉ là những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm
2
hiểu. Ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm bị xóa nhịa và
con người khơng cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa các quan điểm
triết học nữa.
Ví dụ: Khơng thể nhận thấy, nắm bắt một "con người" chung chung mà
"con người" chỉ có thể được nhận thấy, nắm bắt qua những con người thực
thể cụ thể, thông qua các cá nhân cụ thể.
2.1.2. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
Cái riêng chỉ một sự vật, hiện tượng hay một quá trình riêng lẻ của hiện
thực khách quan. ví dụ: như một nguyên tố, một thái dương hệ, một con
người, một chế độ xã hội, một quá trình vận động, phát triển kinh tế hay tư
tưởng của một xã hội nhất định, v.v…
Cái riêng cịn được hiểu là cái đơn nhất, đó là chỉ những mặt, những
thuộc tính…chỉ riêng có ở trong một sự vật, hiện tượng hay một q trình
riêng lẻ…và khơng được lặp lại ở bất cứ một sự vật, hiện tượng hay q trình
riêng lẻ nào khác. Ví dụ: Sự ra đời của giai cấp cơng nhân Việt Nam, một mặt
có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới, nhưng mặt khác
giai cấp công nhân Việt Nam lại ra đời trước giai cấp tư sản Việt Nam, v.v…
Cái đơn nhất không chỉ là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa
các cái riêng, mà còn là tiêu chuẩn để phân biệt nó với cái chung, cái phổ
biến. Ví dụ: Cái đơn nhất được thể hiện trong sự ra đời của giai cấp cơng
nhân Việt Nam cịn là một giai cấp cụ thể và nó khác với phạm trù giai cấp và
giai cấp công nhân thế giới với tính cách là cái chung, cái phổ biến.
Cái chung chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ giống
nhau được lặp lại ở trong nhiều sự vật, hiện tượng hay q trình riêng lẻ. Ví
dụ: Bất cứ một dạng vật chất cụ thể nào cũng có những thuộc tính chung như
– tính khách quan, vận động, khơng gian, thời gian, phản ánh, v.v…
3
2.2. Mối quan hệ và sự tồn tại giữa cái chung và cái riêng
2.2.1. Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
Phép biện chứng duy vật của Triết học Marx-Lenin cho rằng cái riêng,
cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ
hữu cơ với nhau; phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định, còn phạm trù cái chung được dùng để
chỉ những mặt, những thuộc tính chung khơng những có ở một kết cấu vật
chất nhất định, mà cịn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá
trình riêng lẻ khác.
Trong tác phẩm Bút ký Triết học, Lenin đã viết rằng:
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Cái riêng chỉ
tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Bất cứ cái riêng [nào cũng] là cái
chung. Bất cứ cái chung nào cũng là [một bộ phận, một khía cạnh, hay một
bản chất] của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại
khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ
vào cái chung
Cụ thể là:
Cái chung chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua cái riêng. Cái chung chỉ
tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình,
khơng có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung tồn tại
thực sự, nhưng khơng tồn tại ngồi cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Khơng có cái
riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, khơng có liên hệ với cái chung, sự vật,
hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì
ngồi những đặc điểm chung, cái riêng cịn có cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc
4
hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn
định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn
liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái
riêng.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt,
những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại
ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực cái mới không
bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất.
Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái
chung, cái phổ biến. Ngược lại cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến,
nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới nên mất dần đi và trở
thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là
biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển
hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi
thời bị phủ định.
Nói chung việc giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
không hề đơn giản, Lenin đã cho rằng:
“Con người bị rối lên chính là ở trong phép biện chứng của cái riêng và
cái chung.”— Lenin
2.2.2. Sự tồn tại của Cái chung và cái riêng
Ăngghen người đã phát biểu quan điểm về sự tồn tại của cái chung và
cái riêng
Triết học Mác-Lenin đặt ra và giải quyết câu hỏi: Cái riêng chỉ tồn tại
trong một khoảng thời gian có hạn, vậy thì cái chung có tồn tại vĩnh viễn, vơ
hạn trong thời gian khơng?
5
Cái riêng xuất hiện chỉ tồn tại được trong một khoảng thời gian nhất
định và khi nó mất đi sẽ không bao giờ xuất hiện lại, cái riêng là cái không
lặp lại.
Cái chung tồn tại trong nhiều cái riêng, khi một cái riêng nào đó mất đi
thì những cái chung tồn tại ở cái riêng ấy sẽ không mất đi, mà nó vẫn cịn tồn
tại ở nhiều cái riêng khác.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng,
Triết học Mác-Lenin nêu ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho mối quan
hệ này để ứng dụng vào thực tiễn và tư duy, cụ thể là:
Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ
những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan
của con người bên ngoài cái riêng vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng,
thơng qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức
phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái
chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết
những nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ khơng tránh khỏi rơi vào
tình trạng hoạt động một cách mị mẫm, mù qng.
Trong q trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định
"cái đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể
biến thành "cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải
tạo điều kiện thuận lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái
chung" và "cái chung" bất lợi trở thành "cái đơn nhất".
Trong Bút ký Triết học, Lenin viết:
"Chúng ta cũng tin chắc rằng, qua tất cả mọi sự chuyển hóa của nó, vật
chất vẫn cứ vĩnh viễn như thế, rằng không bao giờ một thuộc tính của nó lại
6
có thể mất đi, và vì thế, nếu như một ngày kia nó phải hủy diệt mất đóa hoa
rực rỡ nhất của nó trên trái đất, tức là cái tinh thần đang tư duy thì nhất định
nó lại phải... tái sinh ra cái tinh thần ấy ở một nơi nào khác và trong một thời
gian khác.”
Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết vấn đề
chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ khơng sao tránh khỏi những vấp váp
những vấn đề chung một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những
vấn đề đó trong từng trường hợp riêng có nghĩa là đưa ra những chính sách
của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất đi hẳn tính nguyên
tắc.
PHẦN 3: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI
CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀO HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN CỦA
BẢN THÂN
3.1. Mối quan hệ giữa bản thân và gia đình, nhà trường và xã hội
3.1.1. Quan hệ giữa bản thân và gia đình.
Trong bất kỳ một mối quan hệ nào cũng đều chứa đựng những nét
chung và nét riêng biệt vậy nên trước tiên xét về mối quan hệ giữa bản thân
và gia đình:
Gia đình là tổ ấm là nơi chở che là bến bờ vững chắc cho mỗi cá nhân,
mỗi con người. Ngồi ra, nơi đây cịn là một tổ hợp của các chỉnh thể có các
mối liên hệ với nhau như vợchồng, cha mẹcon, cháu –ông,bà... họ sống hạnh
phúc, đầm ấm và chan hịa. Ở đó tình thương được tồn tại, được vun đắp và
gieo trồng trong mỗi con người.
Còn bản thân là một cái riêng mang những đặc tính riêng biệt về tính
cách, học vấn, nhận thức, cách giao tiếp,.... trong gia đình. Cái riêng này tạo
nên sự khác biệt cho mỗi thành viên. Cụ thể hóa một chút ta thấy mỗi con
7
người sinh ra đểu có họ tên, ngày tháng năm sinh, có các đặc điểm nhận dạng
dấu vân tay,vân tai... đặc điểm di truyền như ADN, tính cách: nhu mì, hiền
lành... tất cả những đăc điểm đó tạo nên sự khác biệt giữa các thành viên với
nhau cũng như giữa những con ngưới với con người trong một xã hội. Cịn
đối với gia đình, khi ta nhắc đến 2 từ đó thơi thì ta cũng có thể hình dung ra
được những đặc điểm chung nhất để tạo nên một gia đình đó là mỗi thành
viên trong gia đình đó có mối liên hệ với nhau về mặt huyết thống hay có mối
liên hệ vể mặt luật pháp: ơng, bà, cha,me, con ,anh chị em... Tất cả họ cùng
sống trong một mái nhà cùng lao động, cùng sinh hoạt, cùng xây đắp nên
một gia đình hồn chỉnh hơn. Và gia đình là nơi dưỡng dục về thể chất,
tinh thần, hình thành nhân cách cho mỗi con người trong xã hội.
Từ trường học đầu tiên này, mỗi cá nhân được những người thầy thân
yêu là cha mẹ, ông bà giáo dục kiến thức, kỹ năng sống để có thể thích ứng,
hịa nhập vào đời sống cộng đồng như cách ứng xử giữa các thành viên gia
đình (cha mẹ thương yêu chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà
vừa yêu quý, vừa nghiêm khắc và bao dung với con cháu), giữa gia đình với
họ hàng, với láng giềng, với cộng đồng (trọng nhân nghĩa, làm điều thiện,
sống chan hòa, ghét thói gian tham, điều giả dối), qua đó giúp con cháu tiếp
thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng những bài học cuộc đời nhưng lại tác động
mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Trong gia đình, người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan,
truyền lại cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết u
kính, vâng lời cha mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với
nhau…Ở đó, mỗi người cảm nhận được sự gần gũi, thân thương: từ khoảng
sân, mái nhà, chiếc giường, … đến những quan hệ họ hàng thân thiết.
Từ đó khi đi phân tích mối quan hệ giữa bản thân với gia đình ta nên
nghĩ ngay đến sự tác động qua lại giữa chúng. Bản thân là một cái riêng,
chứa những cái riêng góp phần vào cái chung “gia đình” để tạo nên cái riêng
8
biệt cho cái chung đó. Và cũng từ những cái chung căn bản đó chúng ta gần
gũi, gắn kết, có tinh thần trách nhiệm hơn đối với gia đình tuy nhiên không hề
đánh mất đi cái riêng, sở trường của bản thân bởi chính mái ấm đó đã tạo điều
kiện cho cái riêng phát triển mạnh mẽ hơn, do được đáp ứng chăm sóc đầy
đủ các nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần.
3.1.2 Quan hệ giữa bản thân với nhà trường.
Đối với triết học Mác –Lênin, mối quan hệ giữa mối chúng ta sinh viên
với nhà trường là một mối quan hệ gắn bó mật thiết, liên hệ với nhau. Xét
trong nền gíao dục nước nhà, nhà trường là một cái riêng. Mỗi nhà trường đều
có chung những đặc điểm như đều có tên trường, có đội ngũ giáo viên, học
sinh, sinh viên, có thiết bị dụng cụ phục vụ học tập, có nội quy, quy định của
nhà trường… đó chính là cái chung mà mỗi nhà trường đều có. Tên cụ thể
mỗi trường, mỗi sinh viên, học sinh hay mỗi phương pháp dạy học riêng
của trường… là các cái đơn nhất, là đặc trưng của một trường mà khơng
trường nào có cả. Cái đơn nhất của mỗi trường tạo nên cái riêng biệt, đặ
trưng của trưng của trường đó, đặc điểm để phân biệt giữa các trường với
nhau.
Nhà trường và mỗi bản thân chúng ta đều tồn tại một cách khách quan,
trong đó sinh viên tồn tại trong nhà trường, thể hiện năng lực nhận thức của
bản thân qua các phương pháp học tập khác nhau. Ta có thể thấy được nhà
trường là cái tồn bộ, cịn giáo viên, sinh viên,..là một bộ phận khẳng định và
thể hiện nhà trường, nó sâu sắc bản chất hơn nhà trường. Trong nhà trường
mỗi sinh viên là một cái riêng, mỗi sinh viên lại có một phương pháp học tập
khác nhau tạo nên cái đơn nhất cho nhà trường . nhưng khi phương pháp học
tập đó có hiệu quả cao và được chia sẻ rộng rãi cho nhiều người, điều đó sẽ
tạo nên cái chung giữa các sinh viên. Từ đó ta thấy được cái đơn nhất đã
chuyển hóa thành cái chung trong điều kiện nhất định
9
Áp dụng cái chung cái riêng của triết học Mác Leenin vào phương pháp
quản lí sinh viên, học sinh của mỗi nhà trường: Mỗi nhà trường đều chọn cho
mình những giáo viên, học sinh, sinh viên ưu tú, đủ điều kiện mà nhà trường
đặt ra, có năng lực và khả năng tạo được nét riêng cho nhà trường. Trong quá
trình dạy và học, mỗi giáo viên, mỗi sinh viên phải chọn cho mình phương
pháp dạy và học tối ưu hiệu quả nhất để có thể phát huy hết tiềm năng của bản
thân mình. Khi phương pháp đó là hữu ích, nó được chia sẻ, áp dụng rộng rãi
cho tất cả mọi người, từ đó giúp cho mọi người đi đúng hướng việc học tập
trở nên dễ dàng và đạt hiệu quả cao hơn. Qua quá trình học tập một bộ phận
học sinh, sinh viên chưa đạt kết quả cao, không đủ điều kiện để dự thi thì phải
được đào tạo lại, đến khi đủ điều kiện và đạt được kết quả tốt hơn. Mặt khác
một bộ phận học sinh, sinh viên có phương pháp học tập tốt hơn đạt kết quả
cao trong học tập và được nhà trường khen thưởng qua các mức khác nhau
như: xuất sắc, tiên tiến…hay xếp loại: giỏi, khá, trung bình, yếu…
Về các hoạt động cho sinh viên, nhà trường ln vận động, khuyến
khích sinh viên tham gia các hoạt động tình nguyện, vui chơi lành mạnh và
hạn chế những hoạt động vô bổ, không làh mạnh diễn ra trong nhà trường,
đồng thời đặt ra những quy
định yêu cầu học sinh, sinh viên, cán bộ giáo
viên phải tuân theo.
Xã hội ngày càng phát triển, yêu cầu những chủ nhân tương lai của đất
nước mỗi sinh viên phải khơng ngừng ngày càng nâng cao trình độ, kiến thức
của mình,
hồn thiện bản thân. Mỗi sinh viên cần năng động, sáng tạo,
khơng ngừng tìm tịi nghiên cứu để tìm ra, nghiên cứu ra những cái hay cái
mới có ích cho bản thân, cho xã hội và cho đất nước. Không chỉ vậy nhà
trường cũng phải tạo điều kiện tốt nhất cho sinh viên học tập đạt kết quả tốt
nhất, phải không ngừng thay đổi cái lỗi thời, lạc hậu bằng cái mới, hiện đại
hơn, tiên tiến hơn nhằm tạo ra một thế hệ tương lai tốt nhất cho đất nước.
10
3.1.3. Mối quan hệ giữa bản thân với xã hội.
Xét về mối quan hệ giữa bản thân với xã hội, ta thấy cái riêng là cá
nhân, cái chung là xã hội. Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá
nhân là một chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể
không lặp lại, khác với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành, những cá nhân này sống
và hoạt động trong nhóm cộng đồng, tập đồn xã hội khác nhau do điều kiện
lịch sử quy định. Trong quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với
xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách như sau:
•
Cá nhân là phương thức tồn tại của lồi “người”. Khơng có con
người nói chung, lồi người tồn tại độc lập.
•
Cá nhân là cá thể riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội,
là một chỉnh thể tồn vẹn có nhân cách.
•
Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội.
Giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó với nhau,
chuyển hóa lẫn nhau giữa cái chung và cái riêng. Mác cho rằng: “Chỉ có trong
tập thể mới có những phương tiện làm cho mỗi cá nhân có khả năng phát
triển tồn diện những năng khiếu của mình… chỉ có trong tập thể mới có tự
do cá nhân.”
Mỗi cá nhân trong một tập thể phải biết phát huy điểm mạnh của mình,
biến cái đơn nhất có lợi thành cái chung, biến cái chung bất lợi thành cái đơn
nhất. Khi làm bất cứ một vấn đề gì cũng phải xem xét giải quyết vấn đề sao
cho hợp lý nhất. Có như thế thì con đường đến thành cơng của bạn sẽ ngắn
đi rất nhiều đấy.
11
3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của sinh viên trong gia đình, nhà trường
và xã hội
3.2.1. Đối với sinh viên
Để trở thành người có đầy đủ trình độ tri thức khoa học, tri thức chuyên
ngành, có phẩm chất, lối sống trong sáng, đúng mực, tư cách đạo đức nghề
nghiệp, có lý tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa thì bắt buộc sinh viên phải nhận
thức rõ nhiệm vụ, chức năng của mình khi cịn ngồi trên ghế nhà trường. Bản
thân sinh viên phải nỗ lực học tập tích lũy, phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn
kiến thức khoa học cơ bản, phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức đó
vào giải quyết vấn đề hiệu quả trong học tập và trong cuộc sống, phải tự giác
tu dưỡng, rèn luyện để vững vàng về tư duy khoa học, phát triển tư duy cá
nhân của bản thân.
Trong đào tạo sinh viên, sự tác động của giảng viên chỉ là điều kiện
cần, còn nỗ lực của bản thân sinh viên là điều kiện đủ để phát triển năng lực
tư duy cá nhân. Chỉ khi sinh viên tự giác, chủ động tìm tịi, đam mê khám
phá, lĩnh hội tri thức, vốn sống, tư duy logic và năng lực giải quyết hiệu quả
tình huống nghề nghiệp trong thực tiễn thì sinh viên mới thực sự nâng cao
trình độ và năng lực tư duy.
Để phát huy năng lực tư duy, sinh viên phải nghiên cứu nắm vững các
nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật, phải tự trang bị cho mình
vốn tri thức logic học, phải không ngừng rèn luyện thực tiễn, phải tích cực tự
học tập rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân để từng bước hoàn
thành và phát triển hoàn thành nhân cách nghề nghiệp tương lai. Ngoài ra sinh
viên phải đổi mới phương pháp tự học, tự tìm tịi khám phá đạt hiệu quả. Ý
thức tự học của sinh viên phụ thuộc vào năng lực và phương pháp học. Càng
hiểu bài, các bạn sinh viên sẽ càng say mê, yêu thích, dành nhiều thời gian để
nghiên cứu môn học.
12
3.2.2. Đối với giảng viên
Để giúp sinh viên nâng cao năng lực tư duy độc lập tự chủ, giảng viên
phải đổi mới cách dạy, thay đổi cách học của sinh viên, cách kiểm tra, đánh
giá sinh viên. Bên cạnh đó để phát triển năng lực tư duy độc lập tự chủ cho
sinh viên trước tiên giảng viên phải tạo động cơ học tập cho sinh viên. Từ đó
hình thành cho các em lòng say mê tự học, tự nghiên cứu, năng lực độc lập
suy nghĩ, tư duy sáng tạo. Giảng viên không chỉ thực hiện việc giảng dạy kiến
thức cho sinh viên trong giờ học, mà người giảng viên luôn cố gắng tạo cho
sinh viên một ý thức tự giác học tập, một phương pháp tự học, tự cũng cố,
phát triển kiến thức trước và sau giờ học. Bằng cách này, qua bài học, giảng
viên có thể hình thành cho sinh viên một số kỹ năng tự học như kỹ năng thu
thập tư liệu, hình ảnh minh họa, kỹ năng ứng dụng kiến thức đã học vào thực
tiễn, kỹ năng làm việc nhóm,
Do vậy, giảng viên phải có phương pháp dạy học để phát triển ý thức tự
tu dưỡng, rèn luyện trong sinh viên, phải hướng dẫn sinh viên phương pháp tự
học, giúp sinh viên có khả năng bao quát và rút ra ý nghĩa phương pháp luận
của các môn học và ý nghĩa liên ngành của các khoa học.
3.2.3. Đối với nhà trường
Cơ sở vật chất ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy và học. Thông
qua điều kiện vật chất, giảng viên có thể đổi mới phương pháp dạy học, nâng
cao chất lượng dạy và học. Phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, các phương
tiện kỹ thuật hiện đại, chuẩn bị phòng tự học cho sinh viên thuận lợi nghiên
cứu ngồi giờ lên lớp, có wifi để sinh viên có thể khai thác tư liệu khoa học,
hồn thiện kiến thức của mình, có đầy đủ nguồn tài liệu, phịng thí nghiệm,
các trang thiết bị kỹ thuật, Cơ sở vật chất hiện đại, thuận lợi phù hợp với yêu
cầy dạy học không chỉ thuận lợi cho việc nắm vững tri thức khoa học mà còn
rèn luyện cho sinh viên kỹ năng và phương pháp sử dụng có hiệu quả các
13
phương tiện kỹ thuật đó vào nghiên cứu và phát triển chuyên môn, nghề
nghiệp, nâng cao chất lượng công việc sau này.
Đồng thời, nhà trường cần xây dựng và phát triển duy trì các câu lạc bộ
sinh viên nghiên cứu khoa học, câu lạc bộ rèn luyện nghiệp vụ chuyên mộn,
nghề nghiệp, câu lạc bộ kỹ năng sống,cần phát huy dân chủ và tạo điều kiện
để sinh viên tự hoàn thiện mình. Ngồi ra, nhà trường phải định kỳ cập nhật,
điều chỉnh các chương trình đào tạo và xây dựng ngành đào tạo mũi nhọn tạo
nét riêng cho trường; phát triển, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên phù hợp
với định hướng phát triển của trường.
Những yếu tố trên có ý nghĩa quan trọng trong phát triển năng lực tư
duy cho sinh viên hiện nay. Coi trọng việc phát huy vai trị tích cực, chủ động
của sinh viên trong việc rèn luyện, phát triển năng lực tư duy nhằm góp phần
nhỏ nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, phương pháp, các điều kiện về
cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên.đạt trình độ cao để đáp ứng nhu cầu đào
tạo, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, tham gia một cách có hiệu quả
vào thị trường lao động trong và ngoài tỉnh.
14
PHẦN 4: KẾT LUẬN
Hiện tượng trong một xã hội phương Đông như Việt Nam, nơi các
truyền thống Nho giáo – Khổng giáo thường cổ vũ, suy tôn việc hy sinh cá
nhân cho tập thể trong một thời gian dài, nhưng nay, trong thời đại mở cửa
hội nhập thì các nền văn hóa quốc gia giao lưu, va chạm, tương tác, ảnh
hưởng lẫn nhau là điều không thể tránh khỏi.
Việc xuất hiện các “nhóm lợi ích” là khơng thể tránh khỏi. Nhóm lợi
ích có thể được hình thành từ các nhóm quyền lực tập trung, các nhóm có
cùng quyền lợi vật chất và tinh thần, các nhóm có xu hướng hợp tác để cùng
cạnh tranh, giành lấy ưu thế trên thương trường, các nhóm hợp tác giữa chính
trị gia và thương gia, .v.v..
Tại các quốc gia đang phát triển, khi các thể chế pháp quyền chưa hình
thành đầy đủ, các nhóm lợi ích có điều kiện thuận lợi phát triển nhanh, vượt
qua sự kềm chế của thể chế pháp quyền, sẽ dẫn đến sự “nơ lệ hóa” hay nhà
nước pháp quyền chưa đủ lớn mạnh đã có thể bị bắt làm con tin trong vịng
cương tỏa của các nhóm lợi ích.
Khi đó, hiện tượng xuất hiện các nhóm lợi ích, các nhóm vận động
hành lang cho quyền lợi nhóm, sẽ thống trị và khống chế việc ban hành các
chính sách sao cho có lợi nhất cho nhóm của mình.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
2. Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo
biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lenin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004
3. Nhập môn Marx, Rius (Eduardo del Rio), người dịch: Nguyễn
Hà, hiệu đính: Bùi Văn Nam Sơn, Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2006
4. Một số vấn đề Triết học Mác – Lenin: Lý luận và thực tiễn (tái
bản có bổ sung), Lê Dỗn Tá, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, năm 2003
5. Triết học Mác – Lenin (tập II), Học viện chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, năm 1994 (xuất bản lần thứ ba)
6. Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị-hành chính: Những vấn đề
cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2014, trang
15-16, trang 18-19
16