Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.54 KB, 2 trang )
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Về tác giả:
Phan Châu Trinh (1872 – 1926) hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, quê ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông
(nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Phước, huyện Tam Kì), tỉnh Quảng Nam. Ông đỗ Phó bảng, từng được bổ
dụng một chức quan nhưng rồi bỏ quan để chuyên tâm vào sự nghiệp cứu nước – một sự nghiệp tâm
huyết, sôi nổi và đa dạng của ông trong những năm đầu thế kỉ XX. Ông nổi tiếng là người giỏi biện luận
và có tài văn chương. Thơ văn của ông thấm đẫm lòng yêu nước và tinh thần dân chủ. Tác phẩm chính:
Tây Hồ thi tập, Tỉnh quốc hồn ca, Xăng-tê thi tập (các tập thơ), Giai nhân kì ngộ (truyện thơ dịch).
2. Về tác phẩm:
a) Bài thơ này được viết trong cùng cảnh ngộ với bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội
Châu. Cũng là tác phẩm của những nhà yêu nước tiến bộ, lại cũng đang trong cảnh bị tù đày, hai bài thơ
có những điểm khá tương đồng. Đó là biểu hiện của hai tâm hồn, khí phách mạnh mẽ, vượt lên trên hoàn
cảnh hiểm nguy. Sự khác nhau giữa hai tác phẩm thể hiện ở giọng điệu, phong cách của mỗi tác giả. Nếu
như bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác có nhiều nét hóm hỉnh, đùa vui nhẹ nhàng thì bài Đập đá ở
Côn Lôn lại thể hiện giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, có nhiều sắc thái khẳng định hơn.
b) Câu mở đầu, tác giả phác hoạ bối cảnh không gian, gợi mở âm hưởng hùng tráng bằng tư thế hiên
ngang, sừng sững của phận “làm trai” đầu đội trời, chân đạp đất kiêu hùng. Dân gian từng có câu: “Làm
trai cho đáng nên trai”. Phan Bội Châu cũng đề cao chí hướng làm trai: “Đã sinh làm trai thì cũng phải
khác đời”… Cho thấy quan niệm về chí trai, làm trai có mạch nguồn trong quan niệm nhân sinh truyền
thống. Trong câu thơ của Phan Châu Trinh quan niệm ấy được khẳng định trong một bối cảnh cụ thể: “…
đứng giữa đất Côn Lôn” là “đứng giữa” biển – trời – đất, thật kiêu hãnh, đường hoàng, đúng là tư thế của
người làm chủ giang sơn. Ba câu thơ tiếp theo, qua những hình ảnh chân thực diễn tả công việc nặng nhọc
(khai thác đá) tác giả đã khắc hoạ thành những hình ảnh biểu trưng cho tầm vóc sức mạnh dời non lấp bể,
kinh thiên động địa của nhân vật trữ tình. Những hành động mạnh mẽ cho phép ta hình dung ra hình ảnh
người dũng sĩ với sức vóc thần kì đang xung trận: “xách búa“, “ra tay“; và “lừng lẫy” những chiến công
“lở núi non“, “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn”. Những từ ngữ cực tả sức mạnh dũng
mãnh đã làm nổi bật hình tượng con người trong tư thế ngạo nghễ, lớn ngang tầm vũ trụ. Giữa không gian
biển trời bao la, sừng sững một tượng đài kết bằng những hình khối phi thường.
Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy nghĩ của người anh hùng. “Thân sành sỏi”, “dạ sắt son” sẽ
bền bỉ trụ lại được cùng “tháng ngày”, “mưa nắng”. Thế đối lập ở câu 5 – 6 thể hiện sự kiên tâm, vững trí
của nhà cách mạng dù trong bất kì hoàn cảnh khắc nghiệt nào. Tấm lòng thuỷ chung, son sắt “mài chăng