ÔN TẬP CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
Câu 1: Luật quốc tế là một hệ thống pháp luật độc lập:
Luật quốc tế hiện đại là tổng thể những nguyên tắc, những qui phạm pháp luật
quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở
tự nguyện & bình đẳng, thông qua đấu tranh & thương lượng nhằm điều chỉnh mối
quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với
nhau (trước tiên & chủ yếu giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết
pháp luật quốc tế được bảo đảm thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ
hoặc tập thể do chính các chủ thể pháp luật quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu
tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ thế giới. Hệ thống là bao gồm tổng thể cơ
quan, bộ phận mà nó bổ sung, hổ trợ trong một chỉnh thể thống nhất.
Pháp luật quốc gia cũng được hiểu là một hệ thống, mỗi quốc gia có một hệ pháp
luật riêng & theo nghĩa nầy luật quốc tế cũng được coi là một hệ thống pháp luật
bao gồm những hệ thống nguyên tắc, những qui phạm pháp luật quốc tế nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ giữa các quốc gia với nhau
Luật quốc tế được coi là một hệ thống pháp luật độc lập bởi vì so với hệ thống
pháp luật của từng quốc gia, luật quốc tế có những đặc thù cơ bản mà các dấu hiệu
của luật mỗi quốc gia không có các dấu hiệu đặc thù đó( nói thêm về đặc điểm của
luật quốc tế ở câu 2)
Câu 2: Khái niệm & đặc điểm cơ bản của luật quốc tế
Khái niệm:Luật quốc tế hiện đại hay còn gọi là công pháp quốc tế là tổng thể
những nguyên tắc, những qui phạm pháp luật quốc tế do các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp lí quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện & bình đẳng, thông qua đấu
tranh & thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ
chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau (trước tiên & chủ yếu giữa các
quốc gia) trong những trường hợp cần thiết luật quốc tế được bảo đảm thi hành
bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể luật
quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ Thế
giới.
Đặc điểm:Từ khái niệm nêu trên, luật quốc tế có những đặc điểm cơ bản như sau:
Đối tượng điều chỉnh : nếu như luật trong nước điều chỉnh về quan hệ xã hội
phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia & quan hệ có iếu tố nước ngoài thì
luật quốc tế chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống uốc
tế như quan hệ chính trị ,kinh tế,văn hóa,khoa học-kỷ thuật,môi trường…giữa
các chủ thể của luật quốc tế với nhau mà chủ yếu là những quan hệ chính trị.
1
Tuy nhiên không phải tất cả quan hệ quốc tế đều là đối tượng điều chỉnh của
luật quốc tế
(VD: Quan hệ quốc tế theo con đường các tổ chức chính trị –xã hội…không do
luật quốc tế chính trị điêù chỉnh)
Trình tự xây dựng các qui phạm pháp luật quốc tế: trong hệ thống quốc tế dựa
trên nguyên tắc cơ bản bình đẳng về chủ quyền các quốc gia nên không có cơ
quan làm luật. Con đường duy nhất để hình thành các qui phạm pháp luật quốc
tế đó là sự thỏa thuận giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau dưới hình thức ký
kết các điều ước quốc tế ( qui phạm thành văn) ; cùng nhau thừa nhận những
tập quán quốc tế trong quan hệ giữa họ( qui phạm bất thành văn). Đây là đặc
trưng quan trọng nhất.
Chủ thể của luật quốc tế:
Các quốc gia có chủ quyền:chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực đối nội là quyền
tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình, quyền làm luật, quyền
giám sát việc thi hành pháp luật, quyền xét xử những hành vi vi phạm pháp
luật của quốc gia.
Trong lĩnh vực đối ngoại đó là quyền độc lập trong hệ thống quốc tế ,tự do
quan hệ không lệ thuộc vào bất cứ thế lực nào, hai mối quan hệ này có quan hệ
mật thiết với nhau,chỉ vì khi quốc gia có quyền tối cao trong quan hệ đối ngoại
thì mới có quyết định trong quan hệ đối ngoại, Quốc gia là chủ thể đặc biệt khi
tham gia vào họat động tư pháp quốc tế, được miễn trừ về tư pháp quốc tế:
quyền miễn trừ về xét xử, quyền miễn trừ về tài sản, quyền miễn trừ về thi
hành án.
Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập được xem là quốc gia đang hình
thành, đứng lên đấu tranh giành độc lập, thành lập quốc gia có chủ quyền, có
quyền tham gia đại diện ký kết các điều ước quốc te với các quốc gia khác, tự
do không bị lệ thuộc vào bất cứ quốc gia nào.
Các tổ chức quốc liên chính phủ ( liên quốc gia) là tổ chức thành lập trên sự
liên kết giữa các quốc gia, & họat động dưới sự thỏa thuận giữa các quốc gia
(VD: LHQ, Asian, EU…).
Tổ chức phi chính phủ được thành lập dưới sự thỏa thuận giữa các thể nhân với
pháp nhân thì không được coi là chủ thể của luật quốc tế, không được thừa
nhận của luật quốc tế (VD: Hội luật gia thế giới, Hội Liên hiệp phụ nữ thế
giới…)
2
Tư cách chủ thể của tòa thánh Vatican tòa thánh Vatican không phải là một
quốc gia, tư cách chủ thể của Vatican được đặt ra
Biện pháp bảo đảm thi hành luật quốc tế khi xây dựng các điều ước quốc tế các
bên thường thỏa thuận các biện pháp cưỡng chế để áp dụng cho các quốc gia vi
phạm.Đó là những quan hệ mà tự các chủ thể thỏa thuận xây dựng các biện
pháp nhất định vì lợi ích của chính họ. Các chủ thể bị hại được quyền sử dụng
một số biện pháp nhất định cho quốc gia gây hại. Biện pháp cưỡng chế được
thể hiện dưới hai hình thức:
Cưỡng chế cá thể : trên bình diện quốc tế không có cơ quan cưỡng chế tập
trung thường trực, những biện pháp do chính chủ thể của luật quốc tế thực hiện
dưới hình thức cá thể, riêng lẻ tức là chủ thể bị hại được quyền sử dụng những
biện pháp cưỡng chế trả đũa hay biện pháp tự vệ đối với chủ thể gây hại cho
mình (rút đại sứ về nước, cắt đứt quan hệ ngoại giao, bao vây kinh tế, giáng
trả…)
Biện pháp cưỡng chế tập thể tức là quốc gia bị hại có quyền liên minh các
quốc gia trên cơ sở các cam kết phù hợp để chống lại quốc gia gây hại cho
mình.
LHQ giao cho HĐBA LHQ có nhiệm vụ giữ gìn hòa bình & an ninh của các
quốc gia trong khuôn khổ tuân thủ hiến chương LHQ, có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp cưỡng chế & trừng phạt kể cả dùng vũ lực chống lại các quốc gia
vi phạm.
Ngoài ra vấn đề dư luận tiến bộ trên thế giới & sự đấu tranh của nhân dân các
nước cũng là biện pháp để cho pháp luật quốc tế phải tuân theo.
Câu 3: So sánh điều ước quốc tế & tập quán quốc tế
Điều ước quốc tế : được coi là văn bản pháp lí quốc tế do các chủ thể của luật
quốc tế thỏa thuận xây dựng trên cơ sở tự nguyện & bình đẳng nhằm ổn định thay
đổi hay chấm dứt quyền & nghĩa vụ pháp lí đối với nhau trong bang giao quốc tế
phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
Tập quán quốc tế: là qui tắc xử sự chung được hình thành trong quan hệ quốc tế
do một hoặc một số quốc gia đưa ra & áp dụng lâu dài trong thực tiễn (được áp
dụng từ hai chủ thể trở lên)
Giống nhau
3
Cả hai đều là nguồn chính của luật quốc tế, là những hình thức chứa đựng các qui
phạm pháp luật quốc tế, đều có giá trị hiệu lực như nhau.
Bản chất như nhau đều là dựa trên sự thỏa thuận giữa các chủ thể với nhau, điều
ước quốc tế thỏa thuận ký kết, tập quán quốc tế thỏa thuận thừa nhận.
Nội dung của cả điều ước quốc tế & tập quán quốc tế phải phù hợp với những
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế .
Đều điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể của luật quốc tế với
nhau như những quan hệ về chính trị, văn hóa, kinh tế…
Khác nhau
Hình thức thể hiện : sự thỏa thuận Điều ước quốc tế là ký kết những qui phạm
pháp luật tồn tại dưới dạng văn bản,thể hiện rõ ràng cụ thể, còn sự thỏa thuận của
tập quán quốc tế là để đi đến thừa nhận những qui phạm pháp luật bất thành văn
Quá trình hình thành Trình tự lập pháp đối với điều ước quốc tế là chính xác & cụ
thể hơn thông qua một thủ tục kí kết bao gồm các quá trình đàm phán, sọan thảo
văn bản, thông qua văn bản, ký điều ước quốc tế,phê chuẩn hoặc phê duyệt
Trình tự lập pháp của tập quán quốc tế thông qua sự áp dụng thừa nhận những qui
tắc xử sự trong thực tiễn trãi qua một thời gian dài lặp đi lặp lại nhiều lần trong
một thời gian liên tục.
Phạm vi điều chỉnh của điều ước quốc tế có phạm vi rộng hơn tập quán quốc tế
Câu 4: So sánh luật quốc tế & luật quốc gia
Luật quốc tế hiện đại là tổng thể những nguyên tắc, những qui phạm pháp luật
quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở
tự nguyện & bình đẳng, thông qua đấu tranh & thương lượng nhằm điều chỉnh mối
quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với
nhau (trước tiên & chủ yếu giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết
cần thiết luật quốc tế được bảo đảm thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế
riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể luật quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu
tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ Thế giới.
Về đối tượng điều chỉnh pháp luật quốc gia điều chỉnh những quan hệ xã hội phát
sinh trong nội bộ phạm vi lãnh thổ , còn pháp luật quốc tế điều chỉnh những quan
hệ xã hội phát sinh trong đời sống sinh họat quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế.
4
Về chủ thể chủ thể luật quốc gia là thể nhân, pháp nhân & nhà nước tham gia với
tư cách là chủ thể đặc biệt khi nhà nước là một bên trong quan hệ, còn chủ thể của
pháp luật quốc tế là các quốc gia có chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành
độc lập, các tổ chức liên chính phủ & các chủ thể khác.
Về trình tự xây dựng Pháp Luật: việc xây dựng pháp luật & trình tự xây đựng
pháp luật của pháp luật quốc gia do cơ quan lập pháp thực hiện còn xây dựng &
trình tự xây dựng pháp luật quốc tế do không có cơ quan lập pháp nên khi xây
dựng các qui phạm thành văn bất thành văn chủ iếu do sự thỏa thuận giữa các chủ
thể có chủ quyền quốc gia của luật quốc tế.
Về biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật quốc gia có bộ máy cưỡng chế tập trung
thường trực như quân đội, cảnh sát,tòa án nhà tù…làm biện pháp bảo đảm thi
hành, còn pháp luật quốc tế thì không có bộ máy cưỡng chế tập trung thường trực
mà chỉ có một số biện pháp cưỡng chế nhất định mang tính tự cưỡng chế dưới
hình thức riêng rẽ hoặc tập thể
Về phương pháp điều chỉnh các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia có
phương pháp điều chỉnh khác nhau còn các ngành luật trong hệ thống pháp luật
quốc tế thì chỉ có một phương pháp điều chỉnh là sự thỏa thuận.
Câu 5: Phân tích bản chất của luật quốc tế hiện đại trên cơ sở so sánh với
LQT củ .
Luật quốc tế hiện đại là tổng thểnhững nguyên tắc, những qui phạm pháp luật
quốc tế do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở
tự nguyện & bình đẳng, thông qua đấu tranh & thương lượng nhằm điều chỉnh mối
quan hệ nhiều mặt (chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với
nhau (trước tiên & chủ yếu giữa các quốc gia) trong những trường hợp cần thiết
luật quốc tế được bảo đảm thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc
tập thể do các chủ thể luật quốc tế thi hành hoặc bằng sức đấu tranh của nhân dân
cùng dư luận tiến bộ Thế giới.
Như ta biết, nếu như luật quốc gia đều có liên quan chặt chẽ đến hạ tầng kỷ thuật
nhất định & sự phát triển của nó gắn với một hình thái kinh tế – xã hội cụ thể thì
luật quốc tế cũng vậy. Do ảnh hưởng của CM tháng10 Nga, do kết quả đấu tranh
của các lực lượng tiến bộ cách mạng & yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Luật
quốc tế đã có những thay đổi sâu sắc & thực chất là luật quốc tế mới về chất. Luật
quốc tế hiện đại & bản chất tiến bộ khác hẳn với luật quốc tế cũ. Điều này dễ nhận
thấy qua qúa trình tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế & là chủ thể của luật quốc
tế. Luật quốc tế củ còn có những nguyên tắc, chế định phản động như quyền tiến
hành chiến tranh, quyền của kẻ chiến thắng, chế định chiếm cứ đầu tiên, chế định
thuôc địa, chế định bảo hộ…
5
Từ sau CM tháng10 Nga, Luật quốc tế hiện đại không còn là pháp luật bị áp đặt
bởi sức mạnh, bởi các quốc gia mạnh, các qui phạm của luật quốc tế đã & đang
xây dựng trên cơ sở thỏa thuận, đàm phán, thương lượng. Do đó không một quốc
gia nào có quyền áp đặt các qui phạm pháp luật cho các quốc gia khác khi không
cósự đồng ý thỏa thuận của họ, “quyền chiến tranh” không còn tồn tại trong luật
quốc tế hiện đại & thay vào đó các nguyên tắc, các chế định mới hết sức quan
trọng, tiến bộ, dân chủ như: cấm chiến tranh xâm lược, cấm dùng vũ lực & đe dọa
dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Đồng thời luật quốc tế hiện đại kế thừa & phát triển tiến bộ thêm các nguyên tắc &
qui phạm mang tính dân chủ của luật quốc tế cũ như : nguyên tắc bình đẳng về chủ
quyền giữa các quốc gia, không can thiệp vào nội bộ của nhau, tận tâm thực hiện
các cam kết quốc gia, điều này có thể hiện đại đã loại trừ sự phân biệt giữa các
quốc gia, giữa các nước văn minh & các nước lạc hậu, giữa các nước phát triển &
các nước chậm phát triển. Các nước lớn nhỏ đều có quyền tham gia vào quan hệ
quốc tế & trở thành chủ thể luật quốc tế hiện đại.
Sự phân tích trên cho ta thấy rằng luật quốc tế chỉ có thể được xây dựng trên nền
tảng dân chủ, tiến bộ chung & chỉ có trên cơ sở được thoả thuận chấp nhận của tất
cả các quốc gia. Tuy nhiên, mức độ dân chủ tiến bộ của từng qui phạm luật quốc
tế còn tùy thuộc vào sự tương quan lực lượng giữa tiến bộ & phản dân chủ trên
chiến trường quốc tế & trong nội bộ của mỗi quốc gia.
Câu 6: Phân tích các yếu tố cấu thành quốc gia
Sự tồn tại của một quốc gia chủ thể cơ bản của luật quốc tế có liên quan mật thiết
với hình thức tổ chức nhà nước, mặc dù hình thức tổ chức của nhà nước rất đa
dạng, tuy nhiên ở mọi giai đọan phát triển của lich sử nhà nước & pháp luật quốc
gia được thừa nhận là chủ thể cơ bản của luật quốc tế.
Cho đến nay dù chưa có một định nghĩa thống nhất về quốc gia, tuy nhiên theo
luật quốc tế hiện địa thì để coi quốc gia là một thực thể của luật quốc tế, quốc gia
phải có các tiêu chí sau:
Có lãnh thổ xác định - Có dân cư ổn định - Có chính phủ có chủ quyền- Có khả
năng thiết lập & thực hiện các quan hệ đối ngoại.
Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng
trời, dưới lòng đất, lãnh thổ của quốc gia phải được xác định rõ ràng bởi đường
biên giới trên đất liền với các quốc gia lân cận hay vùng không thuộc quốc gia
nào, quốc gia đó phải được xác định trên bản đồ địa lí hành chánh thế giới với vị
trí & địa danh rõ ràng, tuy nhiên giữa các quốc gia có thể có các vùng lãnh thổ
6
tranh chấp, nhưng để đảm bảo yếu tố lãnh thổ xác định thì quốc gia đó phải có
vùng lãnh thổ hòan tòan được xác định rõ ràng thuộc chủ quyền của mình.
Một quốc gia không thể tách rời yếu tố con người nghĩa là có dân cư ổn định trên
lãnh thổ đó, đa phần dân cư phải là công dân nước sở tại, sinh sống ổn định lâu dài
là những người có địa vị pháp lí có quyền & nghĩa vụ đối với quốc gia, quốc gia
cũng thực hiện quyền & nghĩa vụ của mình đối với công dân của mình, có lich sử
truyền thống văn hóa gắn bó lâu dài với quốc gia sở tại.
Chính phủ là yếu tố cần phải có để điều hành xã hội, có chủ quyền được nhân dân
tín nhiệm có đầy đủ chủ quyền & quyền lực trong việc thực hiện các quan hệ đối
nội , đối ngoại, nghĩa là có thực quyền điều hành quốc gia trong lập pháp, hành
pháp & tư pháp quyết định vận mệnh chính trị của dân tộc, tự do lựa chọn hình
thức, thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội cho đất nước mình, chính phủ đó
phải nắm được quyền lực đối ngoại nghĩa là nắm quyền đại diện quốc gia tham gia
vào các quan hệ quốc tế.
Quốc gia phải có khả năng thiết lập & thực hiện các quan hệ đối ngoại trong cả
mặt thể hiện vai trò một chủ thể luật quốc tế, có khả năng về chính trị, kinh tế, văn
hóa – xã hội để có thể thực hiện quyền quyết định mọi vấn đề của quốc gia mà các
quốc gia khác không có quyền can thiệp, đồng thời quốc gia ấy phải tôn trọng &
thực thi đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế khi tham gia vào các quan
hệ quốc tế.
Câu 7:Quốc gia là chủ thể đầu tiên, chủ thể cơ bản & chủ yếu luật quốc tế
Quan hệ pháp luật quốc tế là những quan hệ phát sinh tồn tại & phát triển chủ yếu
giữa các quốc gia với nhau. Quốc gia là chủ thể đầu tiên, chủ thể trước hết xây
dựng pháp luật quốc tế. Trong quá trình thi hành luật quốc tế, quốc gia cũng là chủ
thể đầu tiên cho việc thi hành pháp luật quốc tế.
Chủ thể của luật quốc tế hiện đại là những thực thể đang tham gia quan hệ pháp lí
luật quốc tế một cách đôc lập có đầy đủ quyền & nghĩa vụ pháp luật quốc tế đồng
thời phải gánh chịu trách nhiệm pháp lí quốc tế một cách độc lập do chính hành vi
vi phạm pháp luật quốc tế gây ra trên cơ sở các qui phạm pháp luật quốc tế. Hầu
hết các nhà làm luật công nhận quốc gia là chủ thể chủ yếu cơ bản của luật quốc tế
hiện đại bởi vì :
Quốc gia cũng là chủ thể cơ bản của luật quốc tế bởi vì nếu không có quốc gia thì
bản thân luật quốc tế không có cơ sở tồn tại và phát triển.Khi các quốc gia ra đời
có mối quan hệ mật thiết với nhau và chịu sự điều chỉnh trong quan hệ quốc tế,
quốc gia được coi là hạt nhân của tòan bộ hệ thống pháp luật quốc tế.
7
Quốc gia là chủ thể đầu tiên, chủ thể trứơc hết xây dựng pháp luật quốc tế; quốc
gia là chủ thể ban đầu của luật quốc tế bởi vì nó xuất hiện như một chủ thể đầu
tiên của luật quốc tế. Trong quá trình thi hành luật quốc tế, quốc gia cũng là chủ
thể đầu tiên cho việc thi hành pháp luật quốc tế.
Quốc gia cũng là chủ thể cơ bản & chủ yếu trong việc thi hành áp dụng biện pháp
cưỡng chế việc tuân thủ áp dụng pháp luật quốc tế.
Quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền tạo lập ra & khả năng tạo lập ra chủ thể
mới luật quốc tế đó là các tổ chức liên chính phủ.
v Quốc gia là chủ thể cơ bản, chủ thể ban đầu luật quốc tế bởi vì quốc gia là một
thực thể bao gồm 3 yếu tố cơ bản:
Lãnh thổ: là một trong những yếu tố cần thiết cho sự ra đời tồn tại & phát triển
của mỗi quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất bao gồm vùng đất,
vùng nước, vùng trời, dưới lòng đất, lãnh thổ của quốc gia phải được xác định rõ
ràng bởi đường biên giới trên đất liền với các quốc gia lân cận hay vùng không
thuộc quốc gia nào, quốc gia đó phải được xác định trên bản đồ địa lí hành chánh
thế giới với vị trí & địa danh rõ ràng, tuy nhiên giữa các quốc gia có thể có các
vùng lãnh thổ tranh chấp, nhưng để đảm bảo yếu tố lãnh thổ xác định thì quốc gia
đó phải có vùng lãnh thổ hòan tòan được xác định rõ ràng thuộc chủ quyền của
mình.
Dân cư : một quốc gia không thể tách rời yếu tố con người nghĩa là có dân cư ổn
định trên lãnh thổ đó, đa phần dân cư phải là công dân nước sở tại, sinh sống ổn
định lâu dài là những người có địa vị pháp lí có quyền & nghĩa vụ đối với quốc
gia, quốc gia cũng thực hiện quyền & nghĩa vụ của mình đối với công dân của
mình, có lich sử truyền thống văn hóa, nguồn gốc gắn liền với lãnh thổ mà họ
đang sinh sống ,gắn bó lâu dài với quốc gia sở tại.
Chính phủ : là yếu tố cần phải có để điều hành xã hội, có chủ quyền được nhân
dân tín nhiệm có đầy đủ chủ quyền & quyền lực trong việc thực hiện các quan hệ
đối nội , đối ngoại, nghĩa là có thực quyền điều hành quốc gia trong lập pháp, hành
pháp & tư pháp quyết định vận mệnh chính trị của dân tộc, tự do lựa chọn hình
thức, thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội cho đất nước mình, chính phủ đó
phải nắm được quyền lực đối ngoại nghĩa là nắm quyền đại diện quốc gia tham gia
vào các quan hệ quốc tế, có khả năng thiết lập quan hệ pháp luật quốc tế.
[ Khi một quốc gia đáp ứng được các điều kiện về lãnh thổ,dân cư ổn định, quốc
gia có chủ quyền, chính phủ có khả năng quan hệ pháp luật quốc tế thì kể từ thời
điểm đó quốc gia trở thành chủ thể đương nhiên, chủ thể mới của luật quốc tế mà
không phụ thuộc bất kỳ sự công nhận nào.
8
Câu 8: Vì sao tổ chức liên chính phủ là chủ thể phái sinh, thứ sinh không có
chủ quyền
Chủ thể của luật quốc tế hiện đại là một thực thể đang tham gia quan hệ pháp lí
luật quốc tế một cách độc lập có đầy đủ quyền & nghĩa vụ pháp luật quốc tế đồng
thời phải gánh chịu trách nhiệm pháp lí quốc tế một cách độc lập do chính hành vi
vi phạm pháp luật quốc tế gây ra trên cơ sở các qui phạm pháp luật quốc tế.
Luật quốc tế công nhận quốc gia là chủ thể chủ yếu của luật quốc tế, bên cạnh đó
còn các tổ chức liên chính phủ, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập & tư cách
chủ thể Vatican cũng được xem là chủ thể luật quốc tế, trong đó tổ chức liên chính
phủ là chủ thể phái sinh, thứ sinh không có chủ quyền vì những lý do sau:
Tổ chức liên chính phủ được thành lập do sự thỏa thuận của các quốc gia, tư cách
chủ thể của các tổ chức liên chính phủ có từ thời điểm các văn bản, hiến chương,
điều lệ phát sinh hiệu lực.
Quyền năng chủ thể của tổ chức liên chính phủ không giống nhau, quyền năng đó
dựa trên các văn bản, hiến chương điều lệ,quy chế của các tổ chức đó.
Các tổ chức liên chính phủ xuất hiện & tồn tại do các quốc gia thành lập nên,
không tự nhiên mà có, mà do thỏa thuận của các quốc gia có chủ quyền với
nhau.Các quốc gia thỏa thuận thành lập cũng như thỏa thuận, quyền & nghĩa
vụ của các tổ chức liên chính phủ phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
luật quốc tế hiện đại. Vì chỉ được xem là chủ thể của luật quốc tế hiện đại khi các
tổ chức này được thanh lập phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
hiện đại.
Các tổ chức liên chính phủ được thành lập nhằm những mục đích nhất định &
trong những lĩnh vực họat động, phạm vi họat động của tổ chức đó do các quốc
gia thành viên qui định cho nó. Vì mỗi tổ chức liên chính phủ chỉ giải quyết một
công việc cụ thể & trong khuôn khổ sự thỏa thuận của các quốc gia giao cho nó.
Là chủ thể chuyên biệt bởi vì nó chỉ họat động gói ghém trong phạm vi hiến
chương điều lệ của tổ chức đó qui định, nếu họat động ra ngoài điều lệ thì vi phạm
hiến chương điều lệ của tổ chức, họat động trong một số lĩnh vực chuyên môn,
trong lĩnh vực họat động nhất định.
Là chủ thể hạn chế luật quốc tế bởi vì chủ thể nó rộng lớn nhưng không thể so
sánh với chủ thể của luật quốc gia.
Là chủ thể không có chủ quyền của luật quốc tế bởi vì tổ chức quốc tế liên chính
phủ không phải là chủ thể có chủ quyền của luật quốc tế, vì chủ quyền quốc gia là
9
chủ quyền độc lập trong luật quốc tế mà tổ chức liên chính phủ không thể có được
chủ quyền đó.
Tư cách chủ thể của tổ chức liên chính phủ có từ thời điểm khi các văn bản hiến
chương, điều lệ phát sinh hiệu lực.
Tư cách chủ thể luật quốc tế cũng nằm trong hai phạm trù năng lực pháp luật &
năng lực hành vi, tuy nhiên quyền năng chủ thể được gọi là thuộc tính tự nhiên
vốn có của quốc gia, bởi vì sự tồn tại của nó khẳng định tư cách chủ thể, không
cần bất kì một sự cộng nhận nào.
Quyền năng chủ thể của tổ chức liên chính phủ nó không dựa vào thuộc tính “ tự
nhiên “ vốn có như quốc gia mà quyền năng này được ghi nhận ngay chính trong
hiến chương, điều lệ thành lập nên tổ chức do các quốc gia thỏa thuận thành lập.
Câu 9:Tại sao thể nhân, pháp nhân không là chủ thể của luật quốc tế hiện đại
Theo các nhà làm luật quốc tế thì chủ thể luật quốc tế hiện đại là các quốc gia có
chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các tổ chức liên chính phủ &
Vatican. Ngoài 4 chủ thể trên luật quốc tế hiện đại không có chủ thể nào khác. Vì
vậy thể nhân, pháp nhân không được xem là chủ thể luật quốc tế hiện đại .
Nói thể nhân, pháp nhân không được xem là chủ thể luật quốc tế hiện đại vì những
lý do sau:
Các tổ chức liên chính phủ xuất hiện & tồn tại do các quốc gia thành lập nên,
không tự nhiên mà có, mà do thỏa thuận của các quốc gia có chủ quyền với nhau.
Các quốc gia thỏa thuận thành lập cũng như thỏa thuận, quyền & nghĩa vụ của các
tổ chức liên chính phủ phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản luật quốc tế
hiện đại. Tư cách chủ thể của tổ chức liên chính phủ có từ thời điểm khi các văn
bản hiến chương, điều lệ phát sinh hiệu lực.
Quyền năng chủ thể có giới hạn được gọi là chủ thể hạn chế, vì vậy các tổ chức
quốc tế khác nhau sẽ có quyền năng chủ thể luật quốc tế không giống nhau.
Là chủ thể không có chủ quyền của luật quốc tế bởi vì tổ chức quốc tế liên chính
phủ không phải là chủ thể có chủ quyền của luật quốc tế, vì chủ quyền quốc gia là
chủ quyền độc lập trong luật quốc tế mà tổ chức liên chính phủ không thể có được
chủ quyền đó.
Trong quan hệ pháp luật quốc tế là quan hệ bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
với nhau vì khi ngồi vào bàn đàm phán thỏa thuận ký kết điều ước quốc tế các
quốc gia đều là những con người cụ thể, đây là những người được quốc gia giao
10
cho họ, ủy quyên cho họ được xây dựng nên những qui phạm pháp luật quốc tế.
Đây là những con người luôn đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, không tính đến lợi
ích cá nhân .Nếu con người đó vượt qua thẩm quyền được quốc gia giao cho họ thì
những điều ước quốc tế sẽ không đựơc thực hiện .
Thể nhân, pháp nhân chỉ là người đại diện một tổ chức nào đó, người này hoạt
động nhân danh cho một nhóm người, một tổ chức phi chính phủ, nhóm người này
không có tư cách chủ thể luật quốc tế, không thể ngang hàng với quốc gia được.
Như vậy thể nhân, pháp nhân không xếp ngang hàng với quốc gia cho nên nó
không là chủ thể luật quốc tế hiện đại. Với những lý lẽ trên, tổ chức liên chính phủ
là chủ thể phái sinh, thứ sinh & chủ thể hạn chế không có chủ quyền.
Câu 10:Cơ sở để công nhận chính phủ Defacto (chính phủ thực tế đó) là hợp
pháp
Công nhận trong luật quốc tế hiện đại được hiểu là hành vi pháp lí mang tính
chính trị của quốc gia công nhận, dựa trên ý chí độc lập của các bên công nhận
nhằm thể hiện thái độ của mình đối với đường lối chủ trương chính sách, chế độ
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của quốc gia được công nhận, tạo tiền đề cho
việc thiết lập các quan hệ pháp lí quốc tế, mong muốn thiết lập quan hệ bình
thường với quốc gia được công nhận.
Hình thức công nhận chính phủ Defacto: là hình thức công nhận chính thức
nhưng ở mức độ không đầy đủ & toàn diện có nghĩa là quan hệ với nhau ở một vài
lĩnh vực nào đó.
Việc công nhận quốc gia mới này bao hàm cả việc công nhận chính phủ mới
nằm trong quốc gia đó. Đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên của hai thể loại, song trong
sự trùng lắp đó tồn tại sự đối lập nhau vì quốc gia mới vẫn là một ,nhưng chính
phủ mới có thể thay đổi. Chính phủ mới ra đời có 2 loại:
Chính phủ hợp hiến hợp pháp (chính phủ De Jure) chính phủ này được thành
lập thông qua qui định trong hiến pháp hoặc trong pháp luật quốc gia đó. Những
chính phủ này được thông qua trong việc bầu cử, luật quốc tế hiện đại không đặt ra
việc công nhận chính phủ hợp hiến hợp pháp.(VD: HP Pháp qui định 7 năm bầu
tổng thống một lần, tổng thống không được làm quá 2 nhiệm kỳ).
Chính phủ thực tế (chính phủ De Facto ): chính phủ này được thành lập
không phù hợp với hiến pháp & pháp luật của quốc gia đó ,được thành lập thông
qua cuộc đảo chính, luật quốc tế hiện đại chỉ đặt ra việc công nhận chính phủ De
Facto (VD: 5/ 97 Tướng quân Cavena lật đổ tống thống nước Côngô, làm tống
thống phải tị nạn ở nước ngoài & chết ở nước ngoài)
11
Công nhận chính phủ mới này không phải là công nhận chủ thể mới của luật
quốc tế mà là công nhận người đại diện “ hợp pháp” cho một quốc gia trong bang
giao quốc tế.
Sự công nhận chính phủ thực tế (CP Defacto) là hợp pháp phải dựa trên
những tiêu chí sau:
Chính phủ mới phải được đông đảo quần chúng nhdân tự nguyện, tự giác ủng
hộ.
Chính phủ mới phải khả năng duy trì & thực hiện được quyền lực của mình
trong một thời gian dài ổn định, tự giải quyết được các công việc của đất nước.
Chính phủ mới phải có khả năng kiểm soát được toàn bộ hoặc phần lớn lãnh
thổ của quốc gia đó một cách độc lập & tự quản lí được mọi công việc của quốc
gia.
Căn cứ vào 3 điều kiện trên, tùy thuộc vào sự nhìn nhận của từng quốc gia để
có sự công nhận chính phủ thực tế đó là hợp pháp, điều này cũng có nghĩa là sẽ có
những quốc gia công nhận thực tế đó là hợp pháp nhưng cũng có những quốc gia
sẽ không công nhận thực tế đó.
11.So sánh phê chuẩn, phê duyệt & gia nhập
Phê chuẩn là sự đồng ý chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
các bên ký kết (thông thường là cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước đó) xác
nhận điều ước quốc tế đã có hiệu lực đối với mình. Thông thường những điều ước
quốc tế liên quan đến vấn đề chính trị, ANQP, biên giới lãnh thổ thì phải phê
chuẩn.(VD: Ở VN vấn đề này được qui định tại điều 10 Pháp lệnh về ký kết thực
hiện điều ước quốc tế năm 1993)
Phê duyệt là tuyên bố đơn phương ( hành vi pháp lí đơn phương)của cơ quan
có thẩm quyền trong nước công nhận một đều ước quốc có hiệu lực đối với quốc
gia mình.
Gia nhập là tuyên bố đơn phương của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia,
công nhận một điều ước quốc tế có hiệu lực đối với quốc gia mình, chính thức
ràng buộc quyền và nghĩa vụ của mình đối với một điều ước quốc tế mà mình
chưa phải là thành viên của điều ước quốc tế đó.
Giống nhau:
Phê chuẩn, phê duyệt, gia nhập đều là hành vi đơn phương nhằm công nhận
hiệu lực điều ước quốc tế đối với quốc gia mình. Phê chuẩn, phê duyệt xác nhận
12
điều ước quốc tế đã có hiệu lực đối với quốc gia mình. Gia nhập chính thức ràng
buộc quyền và nghĩa vụ của mình đối với một điều ước quốc tế mà mình chưa phải
là thành viên điều ước quốc tế đó.
Khác nhau:
Về thời điểm Thời điểm gia nhập khác với thời điểm phê chuẩn, phê duyệt.
Phê chuẩn, phê duyệt được thực hiện đối với quốc gia sáng lập ra điều ước quốc
tế, trong thời điểm kí kết điều ước quốc tế theo trình tự thủ tục phức tạp. Gia nhập
điều ước quốc tế chỉ diễn ra trong khi điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực & chỉ
áp dụng đối với quốc gia chưa là thành viên tham gia ký kết điều ước quốc tế.
Về phạm vi: Phê chuẩn, phê duyệt diễn ra cả đối với điều ước quốc tế đa
phương & song phương. Gia nhập điều ước quốc tế chỉ diễn ra đối với điều ước
quốc tế đa phương.
Về thẩm quyền(Điều 32 Điều 44): Thẩm quyền phê chuẩn điều ước quốc tế
thuộc thẩm quyền của cơ quan lập pháp là sự đồng ý chính thức của cơ quan có
thẩm quyền (cơ quan quyền lực tối cao) của nhà nước đó. Thẩm quyền phê duyệt
thuộc thẩm quyền cơ quan hành pháp, thường tiến hành ở cơ quan nhà nước thấp
hơn như Chính phủ, cấp Bộ Gia nhập thì thuộc thẩm quyền của cả cơ quan lập
pháp & cơ quan hành pháp.
Về mức độ quan trọng: điều ước quốc tế cần phải phê chuẩn ở mức độ quan
trọng cao hơn, điều ước quốc tế cần phê duyệt ở mức độ quan trong thấp hơn.
Câu 12: Phân biệt bãi bỏ điều ước quốc tế & huỷ bỏ điều ước quốc tế
Bãi bỏ hiệu lực của điều ước quốc tế là tuyên bố đơn phương mà quốc gia
đưa ra tuyên bố nhằm chấm dứt hiệu lực của Điều ước quốc tế nào đó đối với quốc
gia mình.
Huỷ bỏ hiệu lực điều ước quốc tế là tuyên bố đơn phương của một quốc gia
nhằm chấm dứt hiệu lực của điều ước nào đó đối với quốc gia mình mà không
được qui định trong Điều ước.
Giống nhau: đều là tuyên bố đơn phương mà quốc gia đưa ra tuyên bố nhằm
chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế nào đó đôí với quốc gia mình
Khác nhau:
Tuyên bố hủy bỏ điều ước phải được điều ước cho phép.
Tuyên bố bãi bỏ điều ước không cần được điều ước cho phép.
13
Có 5 cơ sở tuyên bố hủy bỏ điều ước:
Có sự vi phạm về thẩm quyền & thủ tục ký kết theo qui định của pháp luật
trong nước của các bên ký kết.
Điều ước quốc tế ký kết mà trong đó có một trong các bên chỉ hưởng quyền
mà không thực hiên nghĩa vụ.
Khi xuất hiện điều khoản Rebutsic Stantibus tức là khi hoàn cảnh trong nước
bị thay đổi căn bản các bên không thể thực hiện được điều ước vì vậy có quyền
tuyên bố hủy bỏ điều ước.
Tuy nhiên trong điều khoản này không áp dụng đối với các Điều ước về: biên
giới lãnh thổ, điều ước mang tính trung lập nhân đạo. Điều ước mà các quốc gia
cam kết, nó sẽ không hết hiệu lực cả khi xảy ra chiến tranh.
Nội dung của điều ước trái với nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
Khi các bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế trường hợp
này thường áp dụng cho điều ước vô thời hạn.
Ví dụ: Điều ước thành lập hiệp ứơc Vacsava, điều ước này qui định 20 năm
nhưng thực hiện được 15 năm thì ngồi lại thỏa thuận với nhau chấm dứt Điều ước
quốc tế này.
Câu 13: Phân biệt tuyên bố bảo lưu & tuyên bố giải thích
Bảo lưu điều ước quốc tế là tuyên bố đơn phương của một quốc gia đưa ra ký
phê duyệt, phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước nhiều bên nhằm loại trừ hoặc thay
đổi hệ quả pháp lý của một hoặc một số qui định của điều ước.
Giải thích điều ước quốc tế là việc làm sáng tỏ nội dung của điều ước nhằm
mục đích thực hiện điều ước một cách kịp thời và chính xác tránh sự hiểu lầm và
ngây mâu thuẩn giữa các bên.
Giống nhau: đều là tuyên bố đơn phương của quốc gia đưa ra nhằm công
nhận hiệu lực điều ước quốc tế đối với quốc gia mình.
Khác nhau:
Về mục đích Tuyên bố bảo lưu chỉ nhằm thay đổi một hệ quả pháp lý, lọai trừ
hệ quả pháp lí của một số điều khoản nhất định của điều ước quốc tế.
Ví dụ: VN bảo lưu điều 24 công ước Chicago, bảo lưu loại trừ.
14
Tuyên bố giải thích là việc làm sáng tỏ nội dung sự thật của điều ước, thuật
ngữ của những điều khoản trong điều ước quốc tế nhằm mục đích thực hiện điều
ước một cách kịp thời và chính xác.
Về thời điểm đưa ra tuyên bố: Tuyên bố bảo lưu được thực hiện trong bất kỳ
giai đoạn nào của điều ước (đàm phán, soạn thảo, thông qua, ký kết, phê chuẩn,
phê duyệt, gia nhập).
Tuyên bố giải thích được thực hiện khi điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực
& khi có tranh chấp xảy ra (tức là trong quá trình thực hiện điều ước quốc tế)
Về thể loại Tuyên bố bảo lưu chỉ được áp dụng đối với điều ước quốc tế đa
phương mà không cấm bảo lưu, còn tuyên bố giải thích điều ước quốc tế thì được
áp dụng cho cả điều ước quốc tế song phương & đa phương.
Tuyên bố bảo lưu diễn ra ở cơ quan có thẩm quyền theo luật định, Tuyên bố
giải thích do chủ thể giải thích.
Về giá trị pháp lí Tuyên bố bảo lưu có giá trị pháp lí trên bình diện quốc tế.
Còn tuyên bố giải thích do một quốc gia đơn phương đưa ra.
Về ý nghĩa Tuyên bố bảo lưu nếu được chấp thuận thì có giá trị pháp lí quốc
tế còn tuyên bố giải thích điều ước quốc tế thì không có giá trị pháp lí.
Câu14: Bảo lưu điều ước quốc tế đây là một quyền hay là sự ưu tiên
Bảo lưu điều ước quốc tế là hành vi đơn phương của một chủ thể luật quốc tế
tuyên bố nhằm thay đổi hay loại trừ hệ quả của một hay một số điều khoản nhất
định của điều ước, những điều khoản đó được gọi là điều khoản bảo lưu.
Bảo lưu điều ước đây là một quyền & quyền này không phải là quyền tuyệt đối,
bởi vì có những hạn chế sau:
Bảo lưu không diễn ra với điều ước song phương bởi vì trong những điều ước
song phương thường thỏa thuận ý chí của hai quốc gia với nhau. Trong trường hợp
một bên nào đó không thực hiện nổi một số điều của điều ước thì đây là lời đề
nghị mới của bên đối phương, nếu được bên dối phương đồng ý. Nếu không đồng
ý thì không thực hiện được quyền bảo lưu.
Đối với những điều ước đa phương mà có điều khoản qui định hoặc các bên thỏa
thuận miệng với nhau rằng không cho phép bảo lưu thì quyền bảo lưu không được
thực hiện. Đối với những điều ước nhiều bên trong đó chỉ qui định cho phép bảo
lưu một hoặc một vài điều khoản cụ thể nhất định nào đó thì quyền bảo lưu không
được thực hiện đối với những điều khoản còn lại. Đối với những điều ước cho
15
phép tự do lựa chọn một hoặc một số những điều khoản nào đó để bảo lưu thì
quyền bảo lưu cũng không được thực hiện đối với những điều khoản không phù
hợp với mục đích và đối tượng của điều ước.
Không phải là quyền ưu tiên vì không thể có sự ưu tiên một điều khoản của một
điều ước quốc tế đối với một quốc gia nào khác.
Quyền bảo lưu diễn ra trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình ký kết điều ước,
tuy nhiên nếu điều ước qui định điều ước này chỉ phát sinh hiệu lực sau khi phê
chuẩn nhưng quốc gia lại tuyên bố bảo lưu từ những giai đoạn đầu của quá trình
ký kết điều ước quốc tế thì khi phê chuẩn quốc gia đó nhắc lại điều khoản bảo lưu
mới có gía trị pháp lý.
Quốc gia có quyền bảo lưu thì cũng có quyền rút bảo lưu hay hủy bỏ bảo lưu trong
bất kỳ thời điểm nào xét thấy cần thiết.
Bảo lưu có giá trị một năm kể từ khi đưa ra tuyên bố bảo lưu mà không có quốc
gia nào phản đối.
Thực tiễn bảo lưu của VN:
VN bảo lưu những điều khoản điều ước qui định phải đưa những tranh chấp bất
đồng về việc giải thích hoặc áp dụng điều ước ra trước trụ sở quốc tế để giải quyết
hoặc thông qua một thủ tục giải quyết bắt buộc khác bất kể các bên tranh chấp có
đồng ý hay không.
VN ta bảo lưu những điều khỏan của diều ước quốc tế không phù hợp với
những quan điểm mang tính chất chỉ đạo của nhà nước ta.
Ví dụ: Nguyên tắc mang tính chất của VN là bình đẳng nam nữ mà công ước về
người phụ nữ khi lấy chồng nước ngoài mặc nhiên mất đi quốc tịch của mình điều
này đi ngược lại với nguyên tắc nam nữ bình đẳng cho nên VN đã bảo lưu công
ước trên.
VN bảo lưu những điều khoản hạn chế sự tham gia của một số quốc gia & phong
trào giải phóng dân tộc.
Ví dụ: Điều 48, 50 tại Công ước viên 1961 về quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại
giao Chỉ những quốc gia nào không phải là thành viên của Liên hiệp quốc thì
được Liên hiệp quốc cho phép tham gia thì mới trở thành thành viên của điều ước
trên.
Câu 15 So sánh giữa người hai quốc tịch & không quốc tịch
16
Người có hai quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người xét cùng một lúc mang
quốc tịch của hai quốc gia khác nhau.
Người không quốc tịch là tình trạng pháp lý của người không là công dân của
quốc gia nào.
Giống nhau
Do pháp luật của các nước có qui định khác nhau về cách thức hưởng & mất quốc
tịch. Do kết hôn, li hôn nhận làm con nuôi mà có yếu tố nước ngoài. Người 2 quốc
tịch là họ được hưởng quốc tịch một nước nhưng chưa mất quốc tịch, còn người
không quốc tịch là do họ thôi quốc tịch cũ nhưng chưa được nhập quốc tịch mới.
Khác nhau
Đối với người có hai quốc tịch: cả hai nước mà họ mang quốc tịch đều coi người
đó là công dân nước mình dẫn đến hậu quả bất lợi cho đương sự, khó khăn trong
việc yêu cầu được bảo hộ ngoại giao, các quốc gia đều coi họ là công dân dẫn đến
tranh chấp quyền bảo hộ ngoại giao đối với đương sự.
Đối với người không quốc tịch: không được hưởng quyền & nghĩa vụ công dân
của bất kỳ quốc gia nào. Không được hưởng quyền & nghĩa vụ theo những điều
ước quốc tế mà quốc gia sở tại dành cho người nước ngoài. Không được hưởng
bảo hộ ngoai giao của bất kỳ nước nào, do vậy địa vị pháp lí của người không
quốc tịch rất thấp kém.
Đối với người hai quốc tịch thì những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư
pháp quốc tế thì áp dụng nguyên tắc quốc tịch hữu hiệu , cụ thể coi người hai quốc
tịch là công dân một trong hai nước & cho phép nước đó bảo hộ ngoại giao cho
người đó.
Đối với người không quốc tịch thì pháp luật quốc gia phải qui định về những điều
kiện thuận lợi hơn đơn giản hơn về mặt thủ tục để người đó có thể gia nhập quốc
tịch vào nước mình.
Câu 16: Thế nào là điều ước quốc tế? văn bản nào của quốc tế và Việt Nam
điều chỉnh về ký kết điều ước quốc tế? cho biết sự khác biệt giữa trình tự thủ
tục ký kết điều ước quốc tế song phương và đa phương?
- Điều 2 Công ước Vienna 1969 hoặc trình bày như sau: điều ước quốc tế là thỏa
thuận pháp lý giữa các quốc gia và một số chủ thể khác của luật quốc tế trên cơ sở
tự nguyện và bình đẳng nhằm ấn định, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa
17
vụ đối với nhau trong bang giao quốc tế phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế hiện đại;
- Công ước Vienna 1969 về Luật điều ước quốc tế; Luật Ký kết, thực hiện và gia
nhập Điều ước quốc tế của Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006-
Sự khác biệt giữa trình tự thủ tục ký kết điều ước quốc tế song phương và đa
phương chủ yếu là thủ tục bảo lưu và gia nhập.
Câu 17:Anh/chị cho biết cách xác định nội thuỷ và lãnh hải của quốc gia ven
biển? Trong điều kiện bình thường, tàu biển có được quyền “qua lại không
gây hại” trên phần nội thuỷ và lãnh hải của quốc gia ven biển không? (1điểm)
- Nội thủy là vùng nước phía bên trong đường cơ sở, phía ngoài giáp với lãnh hải
và phía trong giáp bờ biển, do quốc gia tự tuyên bố trên cở sở thông lệ quốc tế.
Luật biển quốc tế và pháp luật của các quốc gia đều xác định tính chất chủ quyền
hoàn toàn và tuyệt đối cho vùng nước nội thủy, đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển, cũng như không phận phía trên vùng nước nội thủy. Trong mọi trường hợp
tàu biển muốn qua lại phải được phép của quốc gia ven biển mới có thể được
quyền qua lại ở vùng này.
- Lãnh hải là vùng biển rộng không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở, việc xác
định bề rộng thực tế và ranh giới ngoài của lảnh hải phụ thuộc vào việc vạch
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Lãnh hải thuộc chủ quyền hoàn toàn
và đầy đủ của quốc gia ven biển, chủ quyền cũng bao trùm vùng trời phía trên,
phần đáy và vùng đất dưới đáy của phần lãnh hải. Luật quốc tế quy định trong
điều kiện bình thường tàu biển được quyền qua lại không gây hại ở vùng này mà
không cần xin phép quốc gia ven biển (Công ước Luật biển 1982).
Câu 18: Theo Luật quốc tế hiện đại, anh/chị cho biết văn bản nào của quốc tế
và Việt Nam điều chỉnh về ký kết điều ước quốc tế? cho biết sự khác biệt giữa
trình tự thủ tục ký kết điều ước quốc tế song phương và đa phương? Nếu điều
ước quốc tế quy định không cho rút khỏi, thì thành viên chính thức của văn
kiện có đựơc quyền rút khỏi hay không? tại sao? (1điểm)- Công ước Vienna
1969 về Luật điều ước quốc tế; Luật Ký kết, thực hiện và gia nhập Điều ước quốc
tế của Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006;
- Sự khác biệt giữa trình tự thủ tục ký kết điều ước quốc tế song phương và đa
phương chủ yếu là thủ tục bảo lưu và gia nhập;
- Thành viên chính thức của văn kiện có đựơc quyền rút khỏi với điều kiện xảy ra
như sau:
18
+ Khi một bên nào đó chỉ hưởng quyền, nhưng không thực hiện nghĩa vụ của
mình; hoặc
+ Khi một hay nhiều bên vi phạm nghiêm trọng những điều khoản trong điều ước;
hoặc
+ Do sự thay đổi của hoàn cảnh, có biến cố bất thường dẫn đến việc không thể
thực hiện được điều ước.
19