Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Skkn một số giải pháp nhằm hình thành và phát triển các nhóm năng lực cho học sinh lớp 5 theo tt 22 đạt hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.16 KB, 22 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
“Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển... Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá
và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa
học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư
phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội
hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc... ” - Trích trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, Tiểu học là bậc học nền tảng. Sự thành
cơng của giáo dục Tiểu học có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển và chất lượng
của các bậc học tiếp theo. Đây là bậc học cơ sở đặt nền móng cho sự phát triển của
một quốc gia. Mục tiêu giáo dục của tiểu học là hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các
kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở, góp phần vào việc hình
thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng của nhân cách con người
Việt Nam.
Năm học 2014 - 2015 là năm học thực hiện Chương trình hành động của
Chính phủ, Kế hoạch hành động của ngành Giáo dục triển khai Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trong năm học này, Bộ GD&ĐT đã ban hành thông
tư 30/2014/TT-BGDĐT quy định đánh giá học sinh Tiểu học và Thông tư
22/2016/TT - BGDĐT sửa đổi bổ sung được ban hành ngày 22/9/2016 kèm theo
Thông tư 30. Theo đó, học sinh được đánh giá một cách tồn diện về kiến thức kĩ
năng các môn học và hoạt động giáo dục, năng lực, phẩm chất. Vì thế, giáo viên

skkn




2

Tiểu học có một vị trí vơ cùng quan trọng trong việc đánh giá học sinh. Trong
những năm học trước, thực hiện đánh giá học sinh theo TT 32 giáo viên chỉ quan
tâm đến đánh giá kiến thức và kĩ năng của học sinh mà chưa chú ý đến việc đánh
giá một cách toàn diện sự phát triển của học sinh về cả kiến thức kĩ năng, về sự
hình thành và phát triển một số năng lực như: năng lực tự phục vụ, tự quản; hợp
tác; tự học và giải quyết vấn đề; sự hình thành và phát triển một số phẩm chất:
chăm học, chăm làm; tự tin, trách nhiệm; trung thực, kỉ luật; đồn kết, u thương.
Thơng tư 22 sửa đổi bổ sung ban hành kèm theo Thông tư 30/2014/TTBGDĐT Quy định đánh giá học sinh tiểu học là sự thay đổi mạnh mẽ về tư duy và
cách thức đánh giá học sinh - một khâu quan trọng của q trình giáo dục. Theo
đó, hoạt động đánh giá là một chuỗi các hoạt động: quan sát, theo dõi, trao đổi,
phỏng vấn, kiểm tra, nhận xét, tư vấn hướng dẫn, động viên… Nghĩa là, hoạt động
đánh giá rất cụ thể, tỉ mỉ, chứ không chỉ là hoạt động kiểm tra cho điểm như trước
đây. Nội dung đánh giá học sinh cũng tồn diện hơn, bao gồm: Đánh giá q trình
học tập theo chuẩn kiến thức kĩ năng và đánh giá sự hình thành, phát triển phẩm
chất, năng lực của học sinh.
Như vậy, ngồi việc dạy học các mơn theo phân công giảng dạy, tổ chức,
hướng dẫn các hoạt động học tập ở lớp, khả năng hợp tác nhóm, tự học, giao
tiếp,... giáo viên còn phải thường xuyên theo dõi các hoạt động của học sinh ngoài
giờ lên lớp. Việc đánh giá học sinh tiểu học không đơn giản chút nào. Giáo viên
không đơn thuần chỉ là dạy học mà phải có những hoạt động quan sát, theo dõi,
trao đổi, kiểm tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn,
hướng dẫn, động viên học sinh; nhận xét định tính hoặc định lượng về kết quả học
tập, rèn luyện, sự hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất của học sinh
tiểu học... Không chỉ đánh giá cá mặt năng lực của học sinh ở lớp ở trường mà cịn
thơng qua các hoạt động ở nhà. Đó là việc tự học của các em trong dịp nghỉ hè,
nghỉ lễ, tết; năng lực tự phục vụ bản thân trong sinh hoạt hằng ngày, ăn uống, giúp

đỡ bố mẹ việc nhà, hợp tác với các bạn trong lớp, trong tổ để hoàn thành một số
nhiệm vụ mà lớp, trường giao cho. Điển hình là trong dịp nghỉ lễ, tết và gần đây
nhất là kì nghỉ dài ngày do dịch bệnh Covid-19 gây ra.

skkn


3

Nhận thức được tầm quan trọng của việc đánh giá học sinh tiểu học theo TT
22 sửa đổi bổ sung ban hành kèm theo TT 30, đặc biệt là vấn đề hình thành và phát
triển các nhóm năng lực cho học sinh trong thời đại mới, tôi đã mạnh dạn chọn
sáng kiến Một số giải pháp nhằm hình thành và phát triển các nhóm năng lực
cho học sinh lớp 5 theo TT 22 đạt hiệu quả.
II. Điểm mới của đề tài
Sáng kiến Một số giải pháp nhằm hình thành và phát triển các nhóm năng
lực cho học sinh lớp 5 theo TT 22 đạt hiệu quả đáp ứng việc đổi mới đánh giá
học sinh tiểu học. Sáng kiến đưa ra những giải pháp nhằm hình thành và phát triển
các nhóm năng lực cho học sinh mà lâu nay giáo viên chưa chú trọng hay chỉ chú
trọng một cách chung chung, chỉ đánh giá về kiến thức kĩ năng. Đồng thời đề cao
tính tự chủ, tự lập của chủ thể của học sinh, người thầy chỉ làm vai trò hướng đạo,
áp dụng tính ưu việt của mơ hình VNEN trong quá trình dạy học phát huy tối đa
tính tích cực, sáng tạo, chủ động của người học. Vận dụng nhiều nhất các phương
tiện liên lạc, dạy học thơng qua truyền hình, trực tuyến để đánh giá học sinh trong
thời gian nghỉ Tết, lễ, dịch bệnh,... Học sinh được giáo dục và phát triển kĩ năng
sống để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước một cách năng động, sáng tạo,
tự tin...

skkn



4

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Thực trạng của việc hình thành và phát triển các nhóm năng lực cho học
sinh lớp 5 theo Thông tư 22
1. Thực trạng của giáo viên
Năm học 2014-2015 là năm học đầu tiên thực hiện đánh giá học sinh tiểu
học theo Thông tư 30 và năm 2016 là Thông tư 22 sửa đổi bổ sung một số điều của
TT 30. Giáo viên đánh giá học sinh ở cả 3 mặt: kiến thức và các hoạt động giáo
dục; năng lực; phẩm chất. Tuy nhiên, không phải giáo viên nào cũng thực hiện
được ngay việc đánh giá thường xuyên các môn học và các hoạt động giáo dục của
học sinh trên lớp hằng ngày. Bởi khó khăn trước mắt là thay đổi tư duy của các bậc
phụ huynh, tư duy của học sinh và ngay cả nhận thức của của bản thân giáo viên.
Từ việc đánh giá bằng điểm số được thay bằng những lời nhận xét của giáo viên,
từ cách suy nghĩ học vì điểm được thay bằng học để có kiến thức, để phát triển
năng lực, phẩm chất thực sự không dễ thay đổi mà phải kiên trì từng bước mới có
hiệu quả.
Việc nhận xét, đánh giá học sinh tưởng như đơn giản nhưng thực tế là vô
cùng quan trọng, bởi những lời nhận xét của cô giáo sẽ tác động đến tâm tư, tình
cảm của các em. Vì vậy, mỡi giáo viên tiểu học nói chung và bản thân tơi nói riêng
đều gặp khơng ít khó khăn khi lựa chọn ngôn ngữ để đánh giá từng học sinh. Thực
hiện đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư 22 ban hành kèm theo TT 30 có
nhiều thuận lợi cho học sinh, nhưng giáo viên cũng vất vả hơn; bởi giáo viên sẽ
phải lựa chọn đánh giá, nhận xét sao cho học sinh biết được các ưu điểm, cái làm
được của bản thân; nhận ra được cái hạn chế, cái chưa tốt một cách tế nhị và đưa ra
các biện pháp khắc phục đồng thời khuyến khích các em cố gắng để tiến bộ hơn.
Bên cạnh đó, trong q trình dạy học, có thể nói rằng người giáo viên cịn
chưa có sự chú ý đúng mức đến từng đối tượng học sinh, đặc biệt là về các năng
lực của học sinh. Việc dạy học còn mang tính đồng loạt, tồn lớp, chỉ chú trọng

dạy kiến thức mà chưa chú trọng dạy năng lực, kĩ năng sống và phẩm chất cho học
sinh. Giáo viên đã tạo cơ hội cho học sinh khả năng điều hành, tự học, tự quản,
mạnh dạn, tự tin, biết chia sẻ, bày tỏ ý kiến, hợp tác... nhưng chưa thực sự chú

skkn


5

trọng; chưa thực sự tạo được mối quan hệ gần gũi giữa giáo viên - học sinh, học
sinh - học sinh, phụ huynh - giáo viên...
Hơn nữa, do quen với cách đánh giá cũ, giáo viên chỉ chú trọng đánh giá về
kiến thức mà ít quan tâm việc đánh giá năng lực và phẩm chất cho học sinh. Một
số giáo viên chưa nhận thức đầy đủ quan điểm đánh giá của TT22. Việc đánh giá
mới chỉ quan tâm đến kiến thức, các kĩ năng như đọc, viết, tính tốn song lại lơ là,
qua loa, ít quan tâm đến việc đánh giá về mặt năng lực, phẩm chất. Một số giáo
viên khi thực hiện nhận xét, đánh giá học sinh theo Thơng tư 22 cịn mang tính
hình thức, chung chung do chưa nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nhận
xét, đánh giá học sinh cũng như lợi ích mà nó mang lại.
2. Thực trạng của học sinh
Trường tơi đang cơng tác đóng trên địa bàn của một xã thuộc vùng giữa
nhưng nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp, đời sống kinh tế xã hội tuy
đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn cịn khó khăn, trình độ văn hóa nhận thức của
nhân dân khơng đồng đều. Một số học sinh phải sống với ông bà do bố mẹ đi làm
xa, một số em thì hồn cảnh gia đình q khó khăn.
Do thời gian thực hiện Thơng tư 22 chưa đủ dài. Các thuật ngữ, các hình
thức đánh giá theo TT32 vẫn được các em thỉnh thoảng sử dụng từ thế hệ học sinh
này truyền sang thế hệ học sinh khác. Các em chưa nhận thức được một cách rõ
ràng rằng việc đánh giá, nhận xét của cô giáo là nhằm giúp các em ngày một tiến
bộ hơn; qua đó các em thấy được mặt tốt, mặt cịn hạn chế của mình để vươn lên

trong học tập, trong cuộc sống.
Lớp tơi đang chủ nhiệm và giảng dạy có trình độ hơi thấp hơn so với các lớp
khác trong trường và mặt bằng đời sống cũng thấp hơn nên việc hình thành và phát
triển một số năng lực của các em như năng lực “tự phục vụ, tự quản; hợp tác, tự
học và giải quyết vấn đề” cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Các em cịn
thiếu thốn, phải dành thời gian làm việc nhà để giúp đỡ gia đình, khơng có sự giám
sát của bố mẹ nên cịn chưa tự học, tự ti về hoàn cảnh và đặc biệt là rụt rè, chưa

skkn


6

mạnh dạn hợp tác với bạn, với thầy cô và mọi người để giải quyết một số vấn đề
trong học tập và trong cuộc sống.
Qua khảo sát tình hình đầu năm về các nhóm năng lực ở lớp tơi phụ trách, kết
quả đạt được như sau:

Tổng số HS

Năng lực

Đạt tốt

Đạt

Cần cố gắng

26


Tự phục vụ, tự quản

14

9

3

26

Hợp tác

15

7

4

17

5

4

26

Tự học và giải quyết
vấn đề

Từ bảng số liệu cho thấy một số năng lực cần thiết của các em trong xã hội

hiện đại này đang hạn chế: học sinh thiếu tính tự lập. tự phục vụ bản thân, còn ngại
ngùng, chưa biết hợp tác với bạn bè, thầy cơ để tìm kiếm sự giúp đỡ. Đặc biệt, các
em chưa có tính tự giác trong học tập, còn ham chơi và dánh nhiều thời gian xem ti
vi và chơi điện thoại. Các em còn khá thụ động, chưa mạnh dạn và quyết đoán để
giải quyết một vấn đề bất kì ở trường hay ở nhà, còn ỉ lại vào bố mẹ,…
3. Thực trạng của cha mẹ học sinh
Trình độ văn hóa, nhận thức của một số phụ huynh vẫn còn hạn chế. Điều
kiện kinh tế của địa phương còn khó khăn. Một số gia đình thu nhập còn thấp, chủ
́u dựa vào nơng nghiệp. Phụ huynh phải bươn chải với cuộc sống nên ít có thời
gian quan tâm đến con em và giao phó hết trách nhiệm cho nhà trường. Nhiều gia
đình con cái phải ở với ông bà để bố mẹ đi làm xa,...
Đánh giá, nhận xét học sinh vẫn còn là điều mới lạ với giáo viên, học sinh
và đặc biệt là phụ huynh học sinh bởi thời gian thực hiện chưa dài. Với phương
pháp đánh giá mới này đòi hỏi phụ huynh phải luôn quan tâm, trao đổi, kiểm tra
quá trình học tập của học sinh, cùng nhà trường giáo dục các em, phải tập trung
dạy cho các em kĩ năng sống. Đây cũng là một khó khăn khơng nhỏ mà chúng tôi
gặp phải khi thực hiện đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư 22.

skkn


7

Cha mẹ học sinh mới chỉ quan tâm con cái học hành thế nào, kết quả ra sao
chứ hầu như ít quan tâm đến việc hình thành và phát triển năng lực và phẩm chất
cho các em, do nhận thức chưa đúng về giáo dục, chưa nắm được cách đánh giá
học sinh theo hướng đởi mới… Nhiều gia đình vẫn còn tồn tại lối suy nghĩ lệch lạc
là việc dạy chữ, dạy người là việc của các thấy cô giáo ở trường, chưa thực sự quan
tâm đến việc hình thành và phát triển các phẩm chất của con em, không nắm được
con mình có mạnh dạn hay khơng, có được những năng lực gì, phẩm chất gì để thể

hiện trong đời sống hằng ngày. Một số phụ huynh cịn khơng hợp tác với nhà
trường để giáo dục các em để hoàn thiện nhân cách cho các em.
II. Các giải pháp nhằm hình thành và phát triển các nhóm năng lực cho học
sinh lớp 5 theo Thông tư 22 đạt hiệu quả
1. Tìm hiểu, nắm bắt hồn cảnh học sinh
Điều kiện và hồn cảnh của học sinh có ảnh hưởng lớn đến việc học tập của
học sinh và chất lượng giáo dục của từng lớp. Vì vậy, là một giáo viên vừa nhận
nhiệm vụ giảng dạy, vừa chủ nhiệm lớp, ngay từ đầu năm học, tơi đã tìm cách nắm
bắt hồn cảnh sống của học sinh. Cụ thể, tơi tìm hiểu và thu thập thơng tin những
điểm chính sau:
Điều kiện kinh tế, văn hóa của từng học sinh.
Những đặc điểm về thể chất, sinh lí của từng học sinh: Thể lực (cân nặng,
chiều cao, ...), sức khỏe (khỏe mạnh hay bệnh tật, vóc dáng bình thường hay bị
khuyết tật, ...)
Những đặc điểm về tâm lí của mỗi học sinh như khả năng nhận thức, tư duy:
thông minh, nhanh nhẹn hay chậm chạp... trong các hoạt động học tập, vui chơi,
giải trí, giao tiếp...
Nắm vững tính cách và những phẩm chất của từng học sinh: chăm học hay
lười học, khiêm tốn hay ba hoa, trung thực hay giả dối, mạnh dạn hay nhút nhát, ...
Từ những đặc điểm của từng học sinh mà đã tìm hiểu, nắm bắt được ngay từ
đầu năm học, tơi đã phân tích để biết rõ ngun nhân dẫn đến tình trạng học sinh

skkn


8

học yếu để có biện pháp giúp đỡ, khắc phục; nắm được sở trường của học sinh
giỏi, học sinh năng khiếu để có hướng bồi dưỡng, để giáo dục và hình thành các
mặt năng lực cho các em.

Việc tìm hiểu, nắm bắt hồn cảnh học sinh có thể được thực hiện bằng nhiều
hình thức khác nhau. Ngồi tìm hiểu trực tiếp thơng qua học sinh trong các tiết học
chính khóa, tiết sinh hoạt tập thể hay tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp, học sinh
trực tiếp giới thiệu về bản thân mình, về bố mẹ mình với cơ giáo cũng như các bạn
trong lớp; tơi cịn tìm hiểu thơng qua những giáo viên dạy các em trong những năm
học trước và thơng qua cha mẹ của chính các em và cha mẹ của các bạn trong lớp.
Gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh về vấn đề học tập, năng lực, phẩm chất của học
sinh cũng như nâng cao chất lượng giáo dục là việc làm cần thiết và không thể
thiếu của một giáo viên chủ nhiệm lớp. Từ đó có những nhận xét, đánh giá khách
quan, đầy đủ và chính xác hơn đối với học sinh. Tơi đã đề ra nhiệm vụ đối với bản
thân mình là đến thăm gia đình của một số học sinh cá biệt, động viên khích lệ các
em đi học đầy đủ, tìm hiểu ngun nhân một số em vì sao đến trường khơng hồn
thành nhiệm vụ giáo viên giao, vì sao lại nói cơ giáo về một vấn đề nào đó, ... Nhờ
việc làm đó, học sinh của tơi đã đi học đầy đủ, tỉ lệ chuyên cần ngày càng cao, các
em cảm thấy được cô giáo gần gũi, yêu thương và đặc biệt, các em tự tin hơn khi
trao đổi với cô giáo những vấn đề vướng mắc trong học tập cũng như trong đời
sống hàng ngày của mình.
2. Đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng mơ hình trường học mới
2.1 Đổi mới không gian lớp học
Thay đổi trong sắp xếp bàn ghế phù hợp dạy học theo nhóm tạo ra môi
trường sư phạm thuận lợi cho việc dạy học của thầy và trị. HS được bố trí ngồi
theo nhóm (4 - 5 em) đã có được khơng gian thơng thống dễ dàng cho việc đi lại
giữa thầy và trò trong lớp học; GV đến với các nhóm một cách thuận lợi để kiểm
tra việc học của từng HS và giúp đỡ điều chỉnh việc làm của các em trong nhóm.
Thầy và trò trao đổi với nhau nhiều hơn, sát hơn. Học sinh có cơ hội bộc lộ khả
năng trao đổi, chia sẻ, biết hợp tác với các bạn để giải quyết vấn đề học tập mà

skkn



9

giáo viên nêu ra. Mặt khác, khi làm việc theo nhóm, mỗi học sinh tự đảm nhiệm, tự
học, tự quản cơng việc của mình mà nhóm trưởng giao. Từ đó, ý thức, trách nhiệm
của các em càng ngày càng tiến bộ, năng lực của mỗi bạn học sinh được bộc lộ.
2.2 Đổi mới phương pháp dạy học
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được đặt ra đối với tất cả các cấp
học trong hệ thống giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng. GV chú trọng
hoạt động học của HS, đến với từng em và nhóm học tập nhiều hơn làm việc chung
cho cả lớp, giải đáp ý kiến và vướng mắc của HS thay vì thuyết giảng. GV và HS
giao tiếp, chia sẻ, tự học, hợp tác với bạn, với cô giáo để khám phá kiến thức. Học
theo nhóm là một đặc trưng trong đổi mới cách dạy và học. Hầu hết các tiết học,
HS đã có gần ba phần tư thời gian để làm việc nhóm, cặp và cá nhân một cách khá
vui, sinh động và hiệu quả. Các em được thực sự cùng nhau trao đổi, tìm tịi để tìm
ra lời giải hoặc để hiểu bài thông qua các hoạt động học tập; chỗ nào chưa rõ thì
hỏi cơ giáo hoặc bạn trong nhóm để có thêm gợi ý giải thích… HS tiến bộ rõ về sự
tự tin cũng như mạnh dạn hơn trong giao tiếp; các em có sự chia sẻ giúp đỡ nhau
trong học tập; các đối tượng HS còn chậm có cơ hội phát biểu, để thắc mắc và hiểu
được bài học. Việc luân phiên nhóm trưởng, chỗ ngồi hay thay đổi các thành viên
trong Hội đồng tự quản cũng một việc làm thiết thực cho học sinh giúp các em
tăng cường kĩ năng “nói” trước đám đơng, từ đó các em tự tin lên rất nhiều. Tôi
chú trọng việc “Học mà chơi - chơi mà học”, vừa học vừa chơi một cách có kỉ luật,
có quy định, có luật chơi. Tham gia trò chơi giúp các em rèn luyện thể chất, sự
khéo kéo, nhanh nhẹn, hoạt bát, tạo sự hịa đồng, thân thiện, đồn kết,... Những
phút vui chơi thỏa mái, lành mạnh sẽ giúp các em thêm hào hứng để học tập và
sống hồn nhiên hơn. Hơn nữa, việc vui chơi lành mạnh cịn tạo ra nhiều đức tính
tốt đẹp, hạn chế những tật xấu, đồng thời rèn luyện thể chất và tâm hồn các em
theo chiều hướng tốt hơn.
Trong dạy học, tôi linh hoạt lựa chọn biện pháp phù hợp sao cho đạt hiệu quả
cao nhất. “Học trò khơng phải là một chiếc bình cẩn đổ đầy kiến thức, các em là

những ngọn đuốc cần được thắp lên”.

skkn


10

Tôi tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú như trang trí trường
lớp học; tìm hiểu lịch sử địa phương; hướng dẫn viên nhỏ tuổi, hoạt động trải
nghiệm thực tế ở địa phương,…Trong mỗi hoạt động, tôi tạo điều kiện và khuyến
khích các em chủ động trong việc tổ chức điều khiển và tự quản các hoạt động,
tích cực tham gia vào các khâu lập kế hoạch, phân công nhiệm vụ, tổ chức thực
hiện và đánh giá các hoạt động của mình. Và đặc biệt là khơng làm thay, làm hộ
học sinh. Q trình đó giúp các em hình thành năng lực tự giải quyết vấn đề một
cách có hiệu quả nhất, trách nhiệm với những nhiệm vụ mà mình được giao. Cứ
giao nhiệm cho các em làm việc theo nhóm, theo cộng đồng, các em sẽ hợp tác, tự
quản tốt hơn. Chơi trong học tập giúp các em bộc lộ năng lực của mình thơng qua
các trị chơi.
2.3 Đổi mới hình thức sinh hoạt tập thể nhằm phát huy vai trị của Hội đồng tự
quản
Tở chức có chất lượng tiết sinh hoạt tập thể, giao cho chủ tịch Hội đồng tự
quản điều hành tiết sinh hoạt lớp, học sinh phát biểu dân chủ, mạnh dạn nhận
khuyết điểm của mình và chỉ ra thiếu sót của bạn, bình bầu các bạn được khen
trong các mặt kiến thức kĩ năng; năng lực; phẩm chất trong tuần, trong tháng và
trong học kì…Nhờ vậy rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, trình bày trước đám
đơng, tự quản, tự tổ chức một hoạt động tập thể… Bên cạnh đó, việc làm này còn
rèn cho học sinh tính tự tin, trung thực, trách nhiệm…
3. Xây dựng lớp học thân thiện
3.1.Tạo môi trường lớp học thân thiện
Giáo viên sử dụng lời nói, ánh mắt và cử chỉ thân thiện: Lời nói là phương

tiện giao tiếp quan trọng nhất của thầy cô giáo với học sinh. Bởi vậy, giáo viên cần
sử dụng lời nói sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Lời nói của giáo viên phải chuẩn
mực, sẵn sàng nhận lỗi khi phát ngơn sai. Điều này làm tăng thêm uy tín của giáo
viên đối với học sinh. Những lời nhận xét của tôi dành cho các em luôn chứa đựng
những tâm tư, tình cảm và cả sự tâm huyết sâu sắc về mỗi học sinh. Khi giao tiếp
với học sinh, tôi luôn sử dụng ngôn ngữ sao cho các em dễ hiểu nhất, giàu hình ảnh

skkn


11

và đạt giá trị biểu cảm cao. Lời nói nhẹ nhàng cùng với ánh mắt thân thiện sẽ tạo ra
những xúc cảm tâm lí, giúp các em thoải mái và tự tin hơn trong mọi hoạt động.
Cần khen ngợi, đừng chê bai. Khen ngợi là việc làm không thể thiếu trong giáo
dục, đặc biệt là giáo dục học sinh tiểu học. Khi học sinh làm được việc tốt là phải
khen ngợi ngay để khích lệ, động viên. Một lời khen có hiệu quả giáo dục gấp
nhiều lần so với những lời chỉ trích, chê bai. Đặc biệt với học sinh cá biệt thì lời
động viên, khen ngợi như là liều thuốc tinh thần giúp các em thay đổi hành vi theo
chiều hướng tích cực, cịn là động cơ thúc đẩy quá trình học tập và rèn luyện của
các em, giúp học sinh mạnh dạn khi giao tiếp, tự tin, sẵn sàng chia sẻ với bạn và
thầy cô giáo. Mỗi lời nhận xét phải là thông điệp của người thầy đối với học sinh
và phải đảm bảo được hai yếu tố đó là: Khẳng định trên cơ sở thực tiễn và tư vấn,
động viên các em học sinh.
Trong nhận xét học sinh, tôi luôn dùng từ “tiến bộ” để bao hàm đầy đủ sự
phát triển của các em trong các mặt học tập, các hoạt động liên quan đến phát triển
năng lực cá nhân. Ví dụ: Cơ thấy em có nhiều tiến bộ khi giải quyết vấn đề cô giao,
cần tiếp tục phát huy em nhé!”. Hoặc nếu em A làm tốt việc này, em B làm chưa
tốt việc kia thì tơi nhận xét ngay tức thì và truyền tải được những thơng điệp nhắn
nhủ ở trong đó.

Giáo viên là người rất gần gũi với học sinh, vì vậy hãy cố gắng để các em
luôn cởi mở với thầy cô. Hãy lắng nghe học sinh để hiểu được tâm tư nguyện vọng
của các em. Giáo viên vừa là bạn vừa là thầy của các em. Giáo viên không cần
phải che giấu tình cảm của mình với các em, nhưng cần tuyệt đối tránh sự ưu ái
đặc biệt với một vài em nào đó. Cơng bằng, khách quan và trung thực là nguyên
tắc trong đánh giá.
Tự phục vụ, tự quản; tự học và giải quyết vấn đề là các nhóm năng lực mà
tôi thường xuyên hướng tới giáo dục các em. Học sinh lớp 5 là khối lớp lớn nhất
trường. Tôi luôn giáo dục các em các năng lực tự phục vụ, tự học để các em có thể
chủ động, tự khẳng định mình trong mọi cơng việc được giao. Các em bộc lộ hết
khả năng, ý thức của mình trong mọi hoạt động, Từ đó sẽ hình thành cho các em
tính độc lập tự chủ trong các hoạt động ở nhà và ngồi xã hội. Các em ln tự giác,

skkn


12

không ỉ lại vào bạn bè, bố mẹ, anh chị trong bất cứ hồn cảnh nào. Các em sẽ ln
tự tin với các em học sinh ở các khối lớp dưới, sẽ làm gương cho các em. Đây cũng
sẽ là tiền đề để giúp các em khẳng định mình, tự họcm tự chủ trong các cấp học
cao hơn sau này.
3.2 Tăng cường sự tham gia của học sinh trong mọi hoạt động
Xây dựng nội quy lớp học. Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa, bởi học sinh
tham gia được cung cấp thông tin, được bày tỏ ý kiến của mình, ý kiến của các em
được lắng nghe và tơn trọng. Từ đó giúp học sinh hiểu, tơn trọng và thực hiện tốt
nội quy do chính các em đề ra. Ngồi ra, học sinh cịn được rèn luyện kĩ năng giao
tiếp, bày tỏ ý kiến và tham gia quá trình ra quyết định, biết hợp tác, phát huy tinh
thần tập thể, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho mỗi HS.
Chia sẻ “Điều em muốn nói”. Chúng ta biết rằng, khơng phải lúc nào học

sinh cũng có thể trực tiếp nói thẳng mong muốn, suy nghĩ của các em với thầy cơ
giáo, với nhà trường. Vì vậy, thơng qua hịm thư “Điều em muốn nói”, học sinh
được tự do bày tỏ những khúc mắc, băn khoăn của mình về cuộc sống xung quanh
các em, về trường, lớp, bạn bè và thầy cơ. Giáo viên có thể rút ngắn khoảng cách
giữa thầy và trò, được lắng nghe những chia sẻ, mong muốn của các em để kịp thời
có những điều chỉnh hợp lý, nhằm ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục, tạo
mơi trường thân thiện trong lớp học. Ví dụ: khi một học sinh làm một điều có lỗi
hoặc khơng trung thực, em chưa thể mạnh dạn để nhận lỗi với cơ giáo thì hịm thư
“Điều em muốn nói” sẽ giúp các em thực hiện điều đó.
Xây dựng “Đơi bạn cùng tiến”: Trong lớp bao giờ cũng có nhiều đối tượng
học sinh, ngồi những học sinh hoàn thành tớt các mơn học cịn có những học sinh
chưa hoàn thành, tiếp thu chậm. Vậy việc xây dựng “Đôi bạn cùng tiến” là để học
sinh học tốt kèm cặp học sinh còn chậm tiến, giúp các em học sinh này không bị tự
ti, mặc cảm và thụ động trong học tập. Tôi phân các đôi sao cho các em ở gần nhau
nhất để dễ kèm cặp nhau. Qua nắm được sức học của từng em, tôi lưu ý nhiều đến
những em thuộc đối tượng đặc biệt. Các em giúp nhau trong mọi lĩnh vực như:
Nhắc nhở bạn học bài, xem lại bài; trao đổi kinh nghiệm học tập; cách học bài dễ
thuộc; cách vận dụng kiến thức đã học vào làm bài tập; hướng dẫn bạn làm bài tập

skkn


13

hoặc củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu, hướng dẫn cho bạn cách trình bày ý kiến
trước lớp. Qua kiểm tra định kì, nhóm bạn nào tiến bộ tơi thường trao một món quà
để động viên các em có sự cố gắng. Đồng thời, qua đó khuyến khích nhóm bạn
khác thi đua nhau. Qua việc làm này, các em biết quan tâm bạn mình, bạn học tốt
“giám sát” bạn mình kĩ hơn, bạn học chậm thì tự giác hơn, chăm học hơn để cùng
thi đua với các bạn của các đôi khác.

Tổ chức các trò chơi, các hoạt động trong giờ giải lao là một hoạt động vô
cùng thú vị. Học sinh là người tự khởi xướng, tự tổ chức, tự quản các bạn và giáo
viên cùng tham gia chơi với học sinh. Trước khi chơi, tôi đưa ra những giải thưởng
thú vị như gói bánh, cái kẹo, hay hợp phấn, quyển vở, quyển sách truyện… để
khích lệ tinh thần chơi của các em. Qua trò chơi, giáo viên giúp học sinh rèn luyện
kĩ năng điều hành lớp vui chơi, văn nghệ, vừa giúp các em thể hiện sự đoàn kết,
hợp tác, giúp đỡ nhau để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thông qua những giờ
giải trí thú vị ấy, học sinh càng thân thiết, quý mến nhau hơn và chắc chắn rằng các
em sẽ sẵn sàng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc
sống, hợp tác với nhau để giải quyết các vấn đề.
Nhờ thế, tơi thấy tình cảm giữa thầy trị đã gắn bó nhau hơn và những học
sinh hay nhút nhát, rụt rè nay khơng cịn nữa mà trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Từ
đó các em càng ham thích đến lớp để hịa nhập với bạn bè, các em biết hợp tác,
chia sẻ kết quả học tập với bạn, việc học của các em ngày càng tiến bộ hơn.
4. Tuyên truyền, phối hợp tốt các lực lượng tham gia đánh giá
4.1. Tạo điều kiện để học sinh tham gia đánh giá
Ba lực lượng tham gia đánh giá, nhận xét học sinh là giáo viên, học sinh và
phụ huynh. Đây là điểm thuận lợi để giúp các em phát triển tớt hơn, toàn diện hơn.
Trong q trình thực hiện, tôi đã cố gắng tổ chức cho học sinh tự đánh giá mình và
đánh giá bạn qua các hoạt động trong từng bài học, tuần học. Đây cũng chính là
những thơng tin bổ ích, góp phần làm căn cứ cho giáo viên trong việc thực hiện
đánh giá học sinh. Có những hoạt động học sinh tự đánh giá trong cặp, trong nhóm
bằng cách đổi bài cho nhau để cùng rà soát xem kết quả nào đúng và đủ, kết quả

skkn


14

nào chưa đúng và còn thiếu. Có những hoạt động học sinh tự đánh giá chéo giữa

các nhóm. Có những hoạt động học sinh cùng giáo viên đánh giá theo những tiêu
chí giáo viên đã nêu. Từ đó các em thấy được những việc làm đúng và việc làm
sai, những điều mình cần phải học tập bạn để phát huy và khắc phục. Các em
không chỉ đánh giá các bạn về các mặt kiến thức trên lớp mà còn các hoạt động ở
nhà. Những bạn cùng thơn, cùng xóm có thể nhận xét bạn mình xem về nhà có tự
túc làm những việc để tự phục vụ bản thân như tự nấu cơm, giặt quần áo của mình,
tự hồn thành bài tập, kiểm soát việc học và chơi ở nhà,… Có thể thấy trong đợt
nghỉ dịch Covid 19 dài ngày vừa rồi, việc tự học của các em hoặc học trực tuyến
được các cặp “đôi bạn cùng tiến” nắm và chia sẻ, đánh giá với cô giáo khá cởi mở.
Các em biết tiếp nhận thông tin từ nhà trường, GVCN, thầy giáo TPT, thơn xóm để
phân chia giờ học bài, chơi thể thao, giúp đỡ gia đình, … một cách hiệu quả và báo
cáo tình hình với GVCN khá đầy đủ. Các em tham gia làm bài tập cô giáo giao
đăng trên trang Website của trường, biết phô tô bài tham gia cuộc thi An tồn giao
thơng cho nụ cười trẻ thơ, Vẽ tranh, … với số lượng đầy đủ và chất lượng khá tốt.
4.2 Thường xuyên trao đổi, chia sẻ với phụ huynh học sinh
Nhà trường đã tổ chức tuyên truyền nội dung của Thông tư 30 và Thông tư
22 sửa đổi bổ sung tới phụ huynh học sinh qua các buổi họp lớp, qua trao đổi hàng
ngày giúp phụ huynh học sinh hiểu được về ý nghĩa của việc đánh giá học sinh
theo Thông tư mới. Để học sinh phát triển toàn diện cần sự quan tâm của cả nhà
trường và gia đình. Bản thân tôi đã tăng cường tuyên truyền đến phụ huynh để phụ
huynh nhận thức được tầm quan trọng của việc tham gia đánh giá, nhận xét học
sinh. Hình thành ý thức phụ huynh cần chủ động gặp giáo viên cũng là một việc
làm thiết thực mà tơi đã thực hiện có hiệu quả. Giáo viên phối hợp chặt chẽ với gia
đình trong việc giáo dục học sinh. Qua đó giáo viên sẽ có cái nhìn tồn diện về học
sinh của mình.
Thường xun liên hệ, trao đổi với phụ huynh cùng phối hợp với giáo viên
chủ nhiệm trong việc giáo dục các em, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh
nhất là đối với những học sinh cần nâng cao chất lượng học tập, phát triển phẩm

skkn



15

chất, năng lực. Tôi yêu cầu phụ huynh chú trọng đến các mặt năng lực của các em
như tự phục vụ, tự học, hợp tác giao tiếp với các thành viên trong gia đình, xóm
thơn. Tơi cần phụ huynh giúp học sinh rèn luyện chăm làm, giúp đỡ gia đình các
cơng việc vừa sức; tự học, bố trí thời gian học tập, sinh hoạt ở nhà; cố gắng tự
hoàn thành công việc; … phù hợp với lứa tuổi và khả năng đồng thời hoàn thành
các bài vận dụng thực hành ở nhà và ngồi xã hội.
Tơi trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức như: có thể gặp trực tiếp
hoặc trao đổi qua điện thoại mỗi khi có sự việc cần trao đổi ngay, đôi khi chỉ là
những thăm hỏi việc học tập sinh hoạt của học sinh ở nhà để tìm nguyên nhân học
sa sút hay cùng nhau phối hợp để giúp học sinh tiến bộ về phẩm chất và năng lực.
Tôi không thông báo trước lớp và trong cuộc họp cha mẹ học sinh những điểm
chưa tốt của học sinh. Đồng thời tôi cũng lắng nghe để hiểu những tâm tư, nguyện
vọng của phụ huynh cùng nhau bàn bạc thống nhất cách giáo dục con em mình cho
phù hợp. Để thực hiện tốt việc phối hợp giáo viên nên tạo được sự thay đổi trong
suy nghĩ và hành động của phụ huynh, ngoài việc chủ động đến thăm gia đình học
sinh để phối hợp giáo dục thì tơi cịn hình thành ý thức từ phụ huynh cần phải chủ
động gặp giáo viên để phối hợp giáo dục. Trong đợt nghỉ dịch Covid dài ngày vừa
rồi, tôi thấy sự phối kết hợp của phụ huynh và thầy cô được thể hiện một cách rõ
nét để cùng giáo dục học sinh. Bằng các phương tiện thông tin như điện thoại,
mạng Internet, giáo viên có thể truyền đạt các thơng báo của Phịng giáo dục, Nhà
trường, thầy cơ giáo,… về việc thực hiện cơng tác phịng dịch bệnh, về việc tự học
ở nhà, học qua truyền hình, …Phụ huynh rất hăng hái và nhiệt tình tạo điều kiện
cho các em ôn tập kiến thức một cách tốt nhất. Ngoài việc học, phụ huynh cịn chia
sẻ, trao đổi với cơ giáo về hoạt động giúp đỡ gia đình bằng các bức ảnh như học
chế biến các món ăn, nhặt rau, chùi nhà,…Các em hưởng ứng Ngày sách Việt
Nam bằng các hình ảnh và video phong phú, đa dạng. Mối quan hệ giữa giáo viên

và phụ huynh được cải thiện theo chiều hướng tích cực, gần gũi hơn, cởi mở hơn
và chân tình hơn. Thơng qua đó giáo viên sẽ đánh giá HS một cách tồn diện hơn
và chính xác hơn.

skkn


16

4.3 Phối hợp giữa giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm để có biện pháp giáo
dục học sinh
Giáo viên bộ môn (GVBM) chịu trách nhiệm đánh giá quá trình học tập, rèn
luyện và kết quả học tập của học sinh đối với môn học, hoạt động giáo dục mà
mình đảm nhận theo quy định. Theo cách đánh giá học sinh ở TT 22, học sinh
được đánh giá ở cả 3 mặt nên rất thuận lợi trong việc giúp học sinh phát triển phẩm
chất, năng lực; nắm được những hạn chế của học sinh và đã có các biện pháp giúp
đỡ. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) phối hợp với GVBM, lập kế hoạch, thực hiện kế
hoạch bồi dưỡng, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện đối với môn học, hoạt động
giáo dục. Phối hợp với GVBM đánh giá quá trình hình thành và phát triển phẩm
chất của học sinh. VD: Em A cần giúp đỡ để học sinh tự tin hơn trong học tập và
các hoạt động; em B có biểu hiện thiếu trung thực trong học tập, hay ăn cắp đồ
dùng các bạn, em C chưa đoàn kết, hay đánh bạn và cịn chưa đồn kết, phân biệt
đối xử với các bạn, …
Giáo viên bộ môn cũng là người thầy, là người anh, người chị nắm đặc điểm
tình hình mỗi em trong mỗi tiết học và ngoài giờ học để kịp thời trao đổi với giáo
viên chủ nhiệm tìm các biện pháp giúp đỡ, giáo dục để các em hoàn thiện hơn.
Thời gian để trao đổi ý kiến của tôi thường là vào các giờ ra chơi, các buổi
sinh hoạt đầu giờ, sinh hoạt lớp, Đội; cũng có khi tơi mời các thầy cơ tham gia hoạt
động học tập, vui chơi cùng các em. Bằng cách làm này, học sinh của tôi càng
mạnh dạn hơn khi giao tiếp với thầy cô hay những người lớn tuổi, các em tự tin

hơn khi trao đổi những vấn đề các em thường gặp trong học tập, trong cuộc sống.
Nếu do điều kiện khách quan mà không trực tiếp trao đổi được, chúng tơi có thể
tạo lập các nhóm bao gồm GVCN và GVBM trên Internet để trao đổi trực tuyến
cho tiện. Ngoài ra, sau khi kết thúc một tháng và kết thúc học kì, tơi cịn tìm cách
gặp gỡ, trao đổi, thống nhất ý kiến với đồng nghiệp rồi mới nhận xét vào sổ theo
dõi chất lượng giáo dục hay sổ học bạ, hay có thể gặp gỡ với các phụ huynh có học
sinh cần trao đổi.
4.4. Phối hợp với Đội TNTP Hồ Chí Minh tổ chức có hiệu quả các hoạt động

skkn


17

Tôi động viên, nhắc nhở học sinh tham gia một cách tích cực các hoạt động
ngoài giờ lên lớp như: thi văn nghệ nhân ngày 20/11; thi em viết, vẽ về mẹ và cô
nhân ngày 20/10; Thi chúng em kể chuyện Bác Hồ, thăm mẹ liệt sĩ, gia đình có
công, thăm bia tưởng niệm các liệt sĩ nhân dịp 22/12, chương trình Đàn gà khăn
quàng đỏ…trò chơi dân gian, tìm hiểu lễ hội quê em, em hát dân ca, vệ sinh trường
lớp... Đây là cơ hội để học sinh phát triển năng lực giao tiếp, mạnh dạn, tự tin, tích
cực hoạt động, giao lưu học hỏi bạn bè… biết tự hào về quê hương mình, biết
chăm học, phấn đấu học tập để xứng đáng với các thế hệ cha anh đi trước.
Ngoài ra tôi còn chủ động lựa chọn các hình thức, nội dung phù hợp chủ
điểm hoạt động của Liên đội hoặc đặc điểm của lớp để tổ chức các hoạt động cho
các em tham gia: Thi Rung chuông vàng, vẽ tranh Em yêu biển đảo quê hương, Em
làm hướng dẫn viên du lịch,…Trong dịp hè, dịp tết, TPT Đội có thể phổ biến
những nội quy quy định, các hội thi nhỏ thông qua Internet,…
III. Kết quả đạt được
Qua thời gian thực hiện các giải pháp về thực hiện đánh giá học sinh tiểu học
theo TT 22 đã cho thấy kết quả đạt được đến thời điểm giữa học kì 2 như sau:

Tổng số HS

Năng lực

Đạt tốt

Đạt

Cần cố gắng

26

Tự phục vụ, tự quản

21

5

0

26

Hợp tác

20

6

0


Tự học và giải quyết

23

3

0

26

vấn đề

So sánh với kết quả đầu năm học cho thấy: So với đầu năm thì năng lực của
học sinh được hình thành và phát triển tốt hơn. Ở 3 nhóm năng lực, các học sinh
đạt tốt tăng lên rất nhiều.
Biểu hiện:
Các phụ huynh đã quan tâm và có nhận thức đúng đắn về việc học tập của
con em mình.

skkn


18

Học sinh đều có ý thức tự học và học theo nhóm có hiệu quả cao, đặc biệt
hầu hết các em đều có ý thức tự quản và tự giác trong mọi hoạt động ở trường cũng
như ở nhà. Chất lượng học tập học sinh được tăng lên rõ rệt.
Kỹ năng giao tiếp của các em trơi chảy, lưu lốt hơn; các em tự tin hơn trong
giao tiếp, học tập…
Nề nếp lớp học ngày một tốt hơn, có quy củ hơn. Học sinh tự giác trong việc

tự học, trình bày bài trong vở, học sinh biết chịu trách nhiệm hơn về những việc
mình làm, về những nhiệm vụ được giao.
Học sinh ý thức được tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động, phong trào
thi đua của lớp; tinh thần đoàn kết, kĩ năng hợp tác và khả năng làm việc theo
nhóm hiệu quả cao hơn, biết u thương cảm thơng cho những người có hồn cảnh
khó khăn, u thương những người xung quanh.
Đặc biệt, học sinh hầu như khơng cịn biểu hiện không trung thực trong học
học tập, biết mạnh dạn nhận lỗi với cô giáo và trước lớp.
Đến thời điểm giữa học kì 2 năm học 2019 - 2020, kết quả đánh giá phẩm
chất học sinh của lớp tôi đạt và đạt tốt 26/26 em, tỉ lệ: 100%, không có em nào cần
cố gắng.

skkn


19

C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của sáng kiến
Qua một năm học vận dụng các giải pháp về đánh giá, nhận xét học sinh
theo Thơng tư 22 nói trên, bản thân tôi nhận thấy: việc thực hiện đổi mới cách
đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư mới là rất cần thiết. Qua quá trình thực
hiện đã mang lại những kết quả tốt đẹp.
Thực hiện cách đánh giá học sinh theo Thông tư 22 giúp cho giáo viên thay
đổi phương pháp dạy học - yếu tố hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng giáo
dục. Hơn nữa, thông tư đặt niềm tin và trao quyền chủ động rất lớn cho giáo viên,
cho nhà trường. Ban đầu, có thể gặp khó khăn, nhưng nếu xác định được: đánh giá
là để giúp HS học tốt hơn, thì thơng qua các đợt tập huấn hiểu được cách đánh giá,
cùng nhau trao đổi sinh hoạt chuyên môn, qua thực tiễn GV sẽ biết được mình phải
đánh giá như thế nào, nhận xét ra sao đối với từng HS. Chẳng hạn, về đánh giá

thường xuyên bằng nhận xét. Nhận xét đó có thể bằng “lời nói”, hoặc “viết” hồn
tồn do giáo viên quyết định và vận dụng một cách linh hoạt, điều quan trọng là
nhận xét đó phải chính xác, kịp thời, khích lệ được HS, làm cho các em thấy hứng
thú học tập, đồng thời nhận xét còn tư vấn, hướng dẫn giúp các em biết được
những hạn chế và biết tự mình khắc phục. Cách đánh giá mới khơng chỉ ghi nhận
kiến thức HS đạt được, mà còn đánh giá quá trình học sinh có được kiến thức và
vận dụng kiến thức ấy như thế nào. Cách đánh giá trước đây không làm được điều
này, GV chủ yếu cho điểm số xác nhận kết quả cuối cùng của HS là xong.
Mỗi GV chúng ta tiếp tục phải nghiên cứu kỹ thông tư, bằng sự trải nghiệm
thực tế của mình, hãy phân tích, so sánh giữa cách đánh giá cho điểm trước đây,
với đánh giá kết hợp cho điểm định kỳ với đánh giá thường xuyên bằng nhận xét,
để hiểu sâu sắc ý nghĩa, tính ưu việt của sự thay đổi. Đặc biệt, lý giải cho được vì
sao phải đổi mới đánh giá, nội dung cốt lõi của đánh giá mới là gì và điều quan
trọng là nó mang lại lợi ích gì cho học trị? Bởi việc gì có lợi cho học trị, sẽ được

skkn


20

sự ủng hộ của phụ huynh HS và xã hội. Ban đầu triển khai khơng tránh khỏi khó
khăn, nhưng khó khăn mà giúp học sinh tiến bộ, có hứng thú học tập, học tốt hơn,
thì khó mấy cũng quyết tâm làm. Đây cũng là tinh thần của Nghị quyết 29 về đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo mà toàn ngành đang triển khai thực hiện.
Bậc Tiểu học là bậc học đặt nền móng trong q trình hồn thiện nhân cách
học sinh. Những gì đạt được ở bậc học này là cơ sở vững chắc để các em tiếp
bước. Bên cạnh giúp hoàn thành kiến thức kĩ năng các môn học thì việc giúp các
em phát triển năng lực và phẩm chất vô cùng cần thiết. Giáo dục học sinh có tài, có
đức, năng động, sáng tạo, tự tin để đáp ứng với yêu cầu của xã hội là nhiệm vụ cao
cả của mỗi chúng ta. Giáo dục là cả một quá trình rất cần sự nỗ lực và kiên trì của

mỗi người thầy cơ giáo. Giáo viên biết lựa chọn và kết hợp sử dụng các biện pháp
phù hợp với từng đối tượng học sinh. Bằng lòng yêu nghề mến trẻ, bằng sự vị tha,
bao dung, độ lượng, bằng tâm hồn của nhà giáo… chắc chắn giáo viên chủ nhiệm
sẽ thành công trong việc giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực. Giáo viên
chủ ngiệm có vai trò như là người cha, người mẹ thứ hai của các em, luôn gần gũi,
quan tâm, chia sẻ với tất cả học sinh bởi mỗi em có một hoàn cảnh khác nhau.
Kết thúc năm học, hầu hết các bậc phụ huynh cũng như các em học sinh đều
rất vui và tin tưởng vào cách đánh giá theo TT 22. Điều quan trọng là, thông qua
cách đánh giá, nhận xét và khen thưởng như hiện nay đã tạo động lực để các em
tiếp tục phấn đấu trong học tập. Cái hay của Thông tư mới là, học sinh được khen
thưởng và khuyến khích ở nhiều mặt khác nhau, chứ không nhất thiết riêng mặt
kiến thức môn học.
II. Phạm vi áp dụng
Sáng kiến chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu giải pháp nhằm hình thành
và phát triển các nhóm năng lực cho học sinh lớp 5 theo Thông tư 22. Sáng kiến
mở rộng đối với các khối lớp 1, 2, 3, 4 áp dụng ở đơn vị tôi đang cơng tác. Tơi
nghiên cứu đề tài nhằm mục đích đóng góp một phần cơng sức của mình vào cơng
tác giáo dục học sinh, giúp các em phát triển toàn diện theo hướng đổi mới đánh
giá học sinh tiểu học. Qua nghiên cứu đề tài, tơi mong muốn sẽ có được những giải
pháp hữu hiệu, bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn làm tốt công

skkn



×