Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Skkn tích hợp kiến thức liên môn nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.47 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. Lời giới thiệu

1

2. Tên sáng kiến

2

3. Tác giả sáng kiến

2

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến

2

6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu

3

7. Mô tả bản chất của sáng kiến

3

7.1. Về nội dung sáng kiến



3

7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến

31

3

8. Những thông tin cần được bảo mật

32

9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
9.1. Đối với giáo viên

32

9.2. Đối với học sinh
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng

32
33
33

sáng kiến
10.1. Lợi ích với giáo viên
10.2. Lợi ích với với học sinh

33


10.3. Lợi ích với thực tiễn đời sống - xã hội

34

34

11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đă tham gia áp dụng thử hoặc
35

áp dụng sáng kiến lần đầu

skkn


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Lịch sử cũng như các mơn học khác, có vai trị tác động đến con người khơng chỉ
về trí tuệ mà cịn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, cịn góp phần xây dựng con
người phát triển về "Đức - Trí - Thể - Mĩ" ở những mức độ khác nhau. Nếu Văn học
giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong thơ ca để càng u q hơn con
người, dân tộc Việt Nam thì thơng qua Lịch sử ở trường trung học phổ thông nhằm
giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch
sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng
yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực
tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Bởi “ Bắt
nguồn từ một sự thực là trong khoa học Lịch sử có những yếu tố nghệ thuật”.
Mặc dù có vai trị, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ,
nhưng hiện nay, việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thơng hiện cịn những

tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện nên chưa
tạo được hứng thú học lịch sử đối với học sinh và một thực tế đáng buồn là học sinh
khơng thích học mơn Lịch sử, xem nhẹ môn Lịch sử. Các em tiếp thu kiến thức một
cách hời hợt, rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ
hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên mơn… Vì
đa phần các em cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự kiện khô khan, Lịch
sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là cái đã qua không thể thay
đổi nên chỉ học cho qua chứ khơng có gì vận dụng vào thực tế.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do bản thân
môn Lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa đáp ứng
được 2 yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Lịch sử chưa phát huy được thế mạnh
của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ mơn khoa học, cần
phải só sự học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chưa thực hiện được khơng khí

skkn


của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình trạng thụ động, chưa phát huy
được tính tích cực của học sinh làm cho khơng khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học
trở nên khô khan, nặng nề.
Dạy học theo theo chủ đề tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng trong
dạy học học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Đây được coi là một quan niệm
dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất
lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học lịch sử nhận thức được sự phát
triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh
vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức.
Dạy học liên môn trong môn lịch sử là hình thức liên kết những kiến thức với mơn
lịch sử như Ngữ văn, Địa lí, Tin học, Giáo dục công dân......để học sinh tiếp thu kiến
thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để
giải quyết các vấn đề liên quan đến lịch sử.

Từ những lí do trên, tơi chọn giải pháp "Tích hợp kiến thức liên mơn nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử ở trường THPT" để nhằm trao đổi với đồng
nghiệp về việc vận dụng phương pháp trên để giải quyết một vấn đề lịch sử cụ thể.
Nhằm giúp giáo viên lịch sử có thể áp dụng vào giảng dạy môn lịch sử một cách
sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn lịch sử trong chương trình
lịch sử cấp THPT.
2. Tên sáng kiến: "Tích hợp kiến thức liên mơn nhằm nâng cao hiệu quả dạy
học Lịch sử ở trường THPT"
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Tuấn
- Địa chỉ: Trường THPT Nguyễn Viết Xuân
- Số điện thoại: 0354337379
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
- Nguyễn Thị Tuấn, giáo viên Lịch sử Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh
Tường – Vĩnh Phúc.

skkn


5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Nghiên cứu phương pháp tích hợp kiến thức liên
mơn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm học 2017 2018
7. Mô tả về bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
- Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói
chung và dạy học Lịch Sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện
đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo
dục.
- Dạy học liên môn là hình thức tìm tịi những nội dung giao thoa giữa các môn

học với môn Lịch Sử, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các mơn học, tức là
con đường tích hợp những nội dung từ một số mơn học có liên hệ với nhau “Từ
những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp trong
việc xây dựng chương 3 trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết hệ
thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái tồn thể, cũng như q
trình dẫn đến trạng thái này”
Hiện nay, Bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy
trong các trường phổ thơng. Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới, giáo viên
chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy việc vận dụng
kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn cịn gặp nhiều khó khăn lúng túng
Mơn lịch sử là bộ mơn có vai trị quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết về
lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hồn thiện và phát triển nhân cách con người. Tuy
nhiên, thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thơng hiện cịn
những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan với nhiều sự kiện
lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa
xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được sự hứng thú học sử đối với học
sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm được mối quan hệ hữu cơ giữa
các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn. Yêu cầu hiểu biết
lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho giáo viên lịch sử nhiệm vụ:

skkn


Làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử, kích thích sự hứng thú học lịch
sử cho học sinh. Để hồn thành nhiệm vụ này địi hỏi giáo viên dạy lịch sử khơng
chỉ có kiến thức vững vàng về bộ mơn lịch sử mà cịn phải có những hiểu biết vững
chắc về các bộ môn địa lý, văn học, nghệ thuật, khoa học…để vận dụng vào bài
giảng lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm bài giảng.
Trong chương trình phổ thơng, giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích hợp
trong hầu hết các bài dạy, từ đó làm tăng hứng thú cho học sinh.

Trong giảng dạy bộ mơn Lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng trong
việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức
trong sách giáo khoa thì khó có thể tạo dựng lại khơng khí lịch sử cần thiết để thu
hút các em đi sâu tìm hiểu, khám phá quá khứ của dân tộc, của thế giới. Để tạo nên
những cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức liên môn
vào giảng dạy lịch sử là điều cần thiết, nó góp phần làm cho bài giảng trở nên sinh
động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh.
Lịch Sử, Ngữ văn, Địa lí, GDCD... có liên hệ với nhau, kiến thức mơn này sẽ hỗ
trợ cho môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học
sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng, như khi học tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất
Tố, học sinh sẽ hiểu về những thuế, những sưu dịch mà nhân dân phải gánh chịu,
hiểu được những chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, đặc biệt hiểu và
thơng cảm sâu sắc cho tình cảnh người nơng dân Việt Nam, làm việc cực nhọc “bán
mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhưng vẫn không đủ sống, mà ta nghĩ là bằng ngơn
từ của mình giáo viên khó có thể khắc họa hết những tủi nhục, những đắng cay mà
người dân phải gánh chịu trong thời kỳ pháp thuộc. Và cũng khó tìm thấy một ngơn
từ nào để diễn tả cho hết sức mạnh như vũ bão của quân ta trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh xâm lược hơn những lời thơ của Nguyễn Trãi:
Đánh một trận sạch khơng kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim mng
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ

skkn


(Bình Ngơ đại cáo- Nguyễn Trãi)
Cũng bằng phương pháp trên ta áp dụng khi dạy về "Cuộc kháng chiến chống
Tống thời Lý" (bài 19 - lịch sử 10)
Năm 1077, 30 vạn quân Tống tràn sang nước ta đã bị đánh tan trên trận tuyến

sông như Nguyệt. Học đến đây giáo viên tích hợp kiến thức mơn Địa lý, sử dụng bản
đồ để học sinh hình dung được địa hình và vị trí của sơng Như Nguyệt (Bắc Ninh).

Ngồi ra, giáo viên có thể sử dụng thêm thơ ca bài “Thơ thần” mà Lý Thường Kiệt
cho người đọc bên đền Trương Hống, Trương Hát với tư cách là nghệ thuật chiến
tranh tâm lí của Lý Thường Kiệt:
“Sơng núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Bài thơ như một lời hiệu triệu, nức lịng tồn qn, tồn dân, khiến cho tinh thần, ý
chí quyết tâm của quân dân ta ngày càng tăng. Đồng thời cũng là lời cảnh cáo đanh
thép với kẻ thù về những hành động sai trái của chúng, khiến kẻ thù khiếp vía.

skkn


Hoặc khi dạy phần "Phong trào đấu tranh chống quân xâm lược Minh và khởi nghĩa
Lam Sơn" (bài 19 - lịch sử 10). Khi giảng diễn biến trận Chi Lăng –Xương Giang,
giáo viên có thể trích dẫn các câu thơ trong bài “Bình Ngơ Đại Cáo” của Nguyễn
Trãi:
“… Ngày 18 trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
Ngày 20 trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
Ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày 28 Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn
… Xương Giang Bình Than máu trơi đỏ nước…
Bị ta chặn ở Lê Hoa quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vở mật…”
Giặc rơi vào thế cùng quẫn, HS có thể vận dụng kiến thức mơn GDCD để nói về
việc nghĩa quân đã "thể đức hiếu sinh" cấp ngựa, thuyền cho chúng về nước thông
qua câu thơ:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo...
Những câu thơ đã thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo của quân ta “mở đường hiếu sinh” 
cho giặc. Việc làm đó vừa khiến cho giặc nể phục, coi trọng ta mà cũng không dám
sang xâm lược nước ta nữa. Mùa xuân năm 1428, khởi nghĩa thắng lợi, Nguyễn Trãi
viết “Cáo bình Ngơ” khẳng định:
“Xã tắc từ đây bền vững
Giang sơn từ đây đổi mới”
Trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa (bài 23 - lịch sử 10 - cơ bản), giáo viên tích hợp
mơn Địa lý để trình bày về diễn biến

skkn


Lược đồ trận Ngọc Hồi - Đống Đa
Đồng thời tích hợp kiến thức mơn Ngữ văn để nói về hình ảnh người anh hùng áo
vải Tây Sơn với ý chí quyết tâm đánh giặc bảo vệ nền độc lập dân tộc
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích ln bất phẩn
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Bên cạnh đó phần nào cũng vạch rõ bộ mặt phản dân bất tài của bè lũ Lê Chiêu
Thống….Với thắng lợi lẫy lừng đó khơng thể khơng nhắc đến cơng lao to lớn của
Quang Trung - Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải mà chính vợ ơng là cơng chúa
Ngọc Hân đã ghi lại sự nghiệp của chồng mình như sau :
“Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước, xiết bao cơng trình”
Khi dạy bài 19:“Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp
xâm lược (Từ năm 1858 đến trước năm 1873) (Lịch sử lớp 11- cơ

bản) về tình hình Việt Nam giữa thế kỷ XIX, trước khi Pháp xâm lược, Việt Nam là
nước độc lập có chủ quyền, kinh tế có những bước phát triển nhưng đã bộc lộ những

skkn


suy yếu.....Ở phần này giáo viên có thể sử dụng một số câu ca dao,
tục ngữ, một số câu thơ để làm nổi bật sự khủng hoảng của chế độ
phong kiến dưới triều Nguyễn vào giữa thế kỉ XIX như:
“Vạn niên là Vạn niên nào Thành xây xương lính, hào đào máu
dân”
      Hay câu ca dao:
“Con ơi mẹ bảo con này cướp đem là giặc, cướp ngày là quan”
Hay những câu thơ của nhà thơ Nguyễn Cơng Trứ:
“Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”…
Hay những câu thơ:
“ Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thơng”
Khi giảng về hành động của Pháp sau khi bị thất thủ ở Đà Nẵng, Pháp tấn cơng
vào Nam Kỳ thì học sinh có thể vận dụng kiến thức Địa Lí để trả lời câu
hỏi Vì sao thực dân Pháp sau khi thất thủ ở Đà Nẵng lại tấn công
Nam kỳ?  và để hiểu rõ hơn tâm trạng hốt hoảng, hoang mang khi
triều đình đã không chủ động đánh giặc khi thực dân Pháp tấn cơng
của người dân giáo viên có thể sử dụng bài thơ “Chạy giặc” của
Nguyễn Đình Chiểu.
Khi nhận xét về thái độ chống Pháp của triều đình và của nhân
dân ta, giáo viên có thể sử dụng những câu thơ trong bài thơ:“Văn tế

Nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. Cũng qua bài thơ này
cho học sinh hiểu rõ được tương quan so sánh lực lượng giữa ta và
Pháp (từ quân số, sự thiện chiến, vũ khí trang bị…).

skkn


Dạy phần "Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945" (lịch sử lớp 12), giáo viên có
thể nhấn mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghĩa đang lan rộng
khắp các địa phương trong toàn quốc bằng đoạn trích:
“ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay…”
Học sinh sẽ chú ý lắng nghe, khi được gọi nhận xét, các em có khả năng nhận
xét được khơng khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự kiện mình
đang học bằng hình ảnh miêu tả của bài thơ. Đồng thời còn giúp các em đánh giá
đúng vai trò của quần chúng nhân dân là những người làm nên lịch sử - Là động lực
chính đưa cách mạng đến thành cơng.
Hay khi dạy bài 20 “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp xâm
lược kết thúc” (Lịch sử 12), giáo viên dùng kiến thức môn Địa lý để xác định cho
học sinh thấy vị trí địa lý của Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía
tây rừng núi Tây Bắc, gần biên giới với Lào, có vị trí then chốt ở Đơng Dương và
Đơng Nam Á sau đó trình bày diễn biến trên bản đồ. Sau khi khái quát về kết quả
của chiến dịch Điện Biên phủ, giáo viên có thể trích dẫn mấy câu thơ của Tố Hữu
như sau:
“… 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí khơng mịn…”.
Khơng chỉ mơ tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm

hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng
các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều này có ý
nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công lao của các thế hệ
đi trước. Đồng thời cũng góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương đất nước trong
nhận thức của các em.
Khi nói về ý nghĩa “Chiến thắng của Điện Biên phủ” giáo viên trích câu thơ:

skkn


“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Khi dạy bài 9: "Vương quốc Campuchia và vương Lào" (lịch sử lớp 10 - cơ bản),
giáo viên tích hợp mơn Kiến trúc bằng cách cho học sinh xem các hình ảnh: Đền
Ăng-co-vát (Căm pu chia), tháp Thạt Luổng (Lào)... để học sinh thấy được trình độ
kiến trúc của con người thời phong kiến. Qua đó thấy được lịch sử phát triển của các
triều đại phong kiến thời đó.
Hoặc khi dạy bài 20: "Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X
- XV" (lịch sử lớp 10 - cơ bản), giáo viên có thể tích hợp kiến thức mơn Mĩ thuật,
kiến trúc, điêu khắc như cho học sinh xem hình ảnh chùa Một Cột, tháp chùa Phổ
Minh (Nam Định), lan can đá chạm rồng tại thềm điện Kính Thiên (Hà Nội)....để
học sinh thấy được nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của Đại Việt từ thế kỉ X - XV.

Chùa Một cột

skkn


Đơi rồng đá thềm trước Điện Kính Thiên


Bài 36: "sự hình thành và phát triển của phong trào cơng nhân" (lịch sử lớp
10- cơ bản): giáo viên tích hợp mơn GDCD bằng cách cho học sinh xem bức ảnh “
Lao động trẻ em trong hầm mỏ ở Anh”. Giáo viên đưa ra câu hỏi cho học sinh thảo
luận: Vì sao giới chủ lại thích sử dụng lao động trẻ em? Liên hệ với trẻ em ngày nay,
công ước về quyền trẻ em… Từ đó thấy được tính ưu việt của chế độ ta. Đồng thời
liên hệ ngay ở địa phương: Một số trẻ em chưa đến tuổi lao động cũng đã bỏ học đi
làm và bị bóc lột sức lao động mà không biết.
Hay trong bài 22: “ Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của thực dân Pháp" (lịch sử lớp 11- cơ bản), giáo viên cho học sinh xem các
bức tranh “Nông dân, công nhân Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc” Từ đó học
sinh thấy rõ chính sách khai thác, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp đối với nước ta.
Lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về Văn học, như phải hiểu hồn cảnh tác
phẩm đó ra đời như thế nào mới hiểu hết được dụng ý nghệ thuật cũng như nội dung
sâu sa mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì. Ngược lại Văn học, Địa lý, GDCD,
kiến trúc, Mĩ thuật... làm cho các sự kiện, các kiến thức của lịch sử dễ dàng thấm
vào tiềm thức của con người. Nói về sự hỗ trợ của Lịch sử đối với các môn học
khác, G. Elton đã nói “Nhà sử học cũng có thể dạy cho các khoa học khác rất nhiều

skkn


điều. Anh ta có thể giúp các khoa học này hiểu thế giới quan của nhiều phương án
xây dựng sơ đồ, vạch rõ những mối quan hệ tương hỗ mà một chun mơn hẹp khó
nhận thấy, giúp các khoa học xã hội hiểu rằng đối tượng mà chúng có quan hệ là
những con người. Trong khi tiếp nhận các khoa học khác tính chính xác và tầm rộng
của sự khái qt, đồng thời Lịch Sử có thể hồn thành nghĩa vụ của mình bằng cách
xây dựng một thái độ nghiêm túc đối với các tài liệu và tránh những khái qt khơng
có cơ sở vững chắc”.
- Minh họa thiết kế giáo án tích hợp kiến thức liên mơn vào một bài cụ thể


TIẾT 26 - BÀI 20
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC
TRONG CÁC THẾ KỈ X – XV
(Lịch sử 10 - chương trình cơ bản)
I. Mục đích yêu cầu
1. Về kiến thức
Giúp người học hiểu và nắm được những kiến thức cơ bản về nguồn gốc,
thành tựu và đặc điểm của văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV
- Gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta khơng ngừng nỗ
lực xây dựng một nền văn hóa dân tộc đặc sắc. Ở các thế kỉ X – XV, cơng cuộc xây
dựng văn hóa diễn ra đều đặn, nhất quán.
- Tích hợp kiến thức về Nho giáo, Phật giáo, môn văn học, môn mĩ thuật để giúp
học sinh hiểu sâu sắc về những thành tự văn hóa mà nhân dân ta sáng tạo trong các
thế kỉ X – XV là sự kế thừa và phát triển nền văn hóa Việt Cổ thời Hùng Vương
dựng nước (văn minh sông Hồng) đồng thời có sự giao thoa với các nền văn hóa
Trung Quốc, Ấn Độ, tạo ra một nền văn hóa đa dạng.
- Thơng qua tích hợp kiến thức văn học, mĩ thuật, âm nhạc, kiến trúc, khoa học quân
sự cùng những kiến thức thực tiễn, lịch sử địa phương để giúp học sinh hiểu được

skkn


đặc điểm của văn hóa Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV mang đậm tư tưởng yêu
nước, tự hào và độc lập dân tộc.
2. Về tư tưởng tình cảm
Qua tích hợp kiến thức về tơn giáo (Nho giáo, Phật giáo) văn học, nghệ thuật,
khoa học quân sự…giúp học sinh khắc sâu lòng yêu nước, bồi dưỡng niềm tự hào về
văn hóa dân tộc . Từ đó nâng cao ý thức trân trọng, bảo tồn và phát huy sáng tạo các
giá trị văn hóa – lịch sử của quê hương, đất nước.
3. Về kĩ năng:

- Rèn luyện kĩ năng quan sát, tư duy, phát hiện những nét đẹp trong văn hóa.
II. Thiết bị và tư liệu dạy học
- Tranh ảnh minh họa có liên quan đến bài học: Phật Tổ, Khổng Tử, Lão Tử, các
chùa tiêu biểu ở nước ta từ thế kỉ X – XV (chùa Dâu, chùa Phật tích, chùa Keo, chùa
Một Cột…), chân dung Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…
- Thơ văn: bài Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), trích đoạn trong “Hịch Tướng
sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Bình Ngô Đại Cáo” (Nguyễn Trãi)...
- Tư liệu về Nho giáo, Phật giáo, chùa Một Cột, tháp Bình Sơn, súng thần cơ…
- Phiếu học tập và phiếu kiểm tra đánh giá cuối giờ học.
III. Tiến trình tổ chức giờ dạy – học
1. Ổn định lớp 10 D2
2. Dẫn dắt vào bài mới
Các em thân mến! Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết về đất nước một cách
thật bình dị mà sâu sắc:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn….”
Đất nước có từ ngày xửa ngày xưa, đất nước là hình hài của q trình lao
động, chiến đấu khơng ngừng của bao thế hệ cha ơng. Q trình ấy đã kết tụ thành
những giá trị văn hóa bản địa vững chắc, khẳng định sự trường tồn của quốc gia dân
tộc.

skkn


Bài học hôm nay sẽ cho chúng ta hiểu sâu hơn về sự hình thành và phát triển
của văn hóa dân tộc từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
3. Hoạt động dạy và học
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Hoạt động 1- hoạt động nhóm:


Nội dung kiến thức cơ bản
I. Tư tưởng, tôn giáo

- Giáo viên: chia lớp học thành 03 nhóm học
tập, giao nhiệm vụ cho từng nhóm.
Nhóm 1: tìm hiểu về sự phát triển của Phật giáo
ở nước ta thời Lý, Trần.
Nhóm 2: Tìm hiểu sự phát triển của Nho giáo ở
nước ta từ thế kỉ X – XV.
Nhóm 3: Tìm hiểu sự phát triển của Đạo giáo ở
nước ta từ thế kỉ X – XV.
- Các nhóm: thảo luận và cử đại diện trình bày
phần nhiệm vụ được giao.
- Giáo viên: bổ sung, chốt kiến thức:
+ Về Phật giáo:

1. Phật giáo

Giáo viên sử dụng các hình ảnh minh họa:
Chùa Diên Hựu, chùa Phổ Minh, Tháp Báo
Thiên, tượng Phật Bà Quan Âm, chân dung sư
Vạn Hạnh, sư Đỗ Thuận, Ngô Chân Lưu.
Giáo viên nhấn mạnh sự phát triển của Phật
giáo ở nước ta thời Lý, Trần.
Phật giáo được du nhập vào nước ta từ rất sớm,
nhanh chóng được tiếp nhận rộng rãi ở nước ta
trong những thế kỉ đầu cơng ngun và đóng vị
trí quan trọng thời Lý – Trần.
Thời Lý, cả vua quan và dân đều sùng phật, sử - Thời Lý: cả vua quan và dân đều

cũ viết:

sùng bái đạo Phật, nhiều nhà sư

skkn


“Lý Thái Tổ lên ngơi mới được 2 đóng góp tích cực vào sự nghiệp
năm, tơn miếu chưa dựng, xã tắc chưa xây dựng đất nước.
lập mà trước đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên
Đức….cấp độ điệp cho hơn 1000 người ở
kinh sư làm tăng”
(Đại Việt sử kí tồn thư)
Các vua Lý đã nối tiếp nhau dựng chùa,
đúc chuông, tô tượng, in kinh phật. Thời kì này,
các sư tăng và tín đồ Phật giáo phát triển cả về
số lượng lẫn chất lượng. Theo nhà sử học Lê
Văn Hưu, đời Lý, nhân dân ta có quá một nửa
làm sư sãi, nơi nào có người ở nơi đó có chùa.
Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào sự nghiệp
dựng nước và giữ nước như nhà sư Ngô Chân
Lưu, sư Đỗ Thuận, sư Vạn Hạnh…

- Thời Trần, xuất hiện phái Thiền

Thời Trần: Vua Trần Nhân Tông khi lên làm Trúc Lâm Đại Việt. Chùa trở
Thái Thượng Hoàng đã xuất gia đầu Phật và lập thành trung tâm vă hóa ở các làng,
ra phái Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Trong nhiều xã.
năm, các kì thi tam giáo vẫn ngự trị trong thi
cử, sĩ tử đi thi phải thơng hiểu cả ba giáo lí Phật

giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Ở các làng, chùa là
trung trâm, vừa là nơi dạy chữ, vừa là nơi tổ
chức hội hè.
Có thể nói, Phật giáo tác động sâu sắc tới tư
tưởng, tâm lí, phong tục và nếp sống của nhân
dân, có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc, điêu khắc
và nghệ thuật nước ta trong các thế kỉ X – XIV.
Hoạt động 2 – cá nhân:
- Hỏi: Tại sao Phật giáo phát triển mạnh mẽ ở

skkn


nước ta thời Lý – Trần?
Giáo viên chốt đáp án (trên cơ sở tích
hợp kiến thức về nội dung giáo lý Phật giáo để
nhấn mạnh khả năng hòa nhập, bắt rễ sâu rộng
của đạo Phật trong nhân dân): Phật giáo vào
nước ta theo con đường truyền bá tự nhiên, giáo
lý Phật giáo đề cao tư tưởng từ bi, hỉ, xả, phù
hợp với đặc điểm tâm lí, lối sống của người
Việt nên nhanh chóng được tiếp thu; Thời Lý –
Trần, trong chặng đường đầu xây dựng nhà
nước độc lập, tính quân chủ chuyên chế chưa
sâu sắc, nhà nước tạo điều kiện cho Phật giáo
phát triển mạnh

2. Nho giáo

+ Về Nho giáo

Giáo viên tích hợp kiến thức về Nho giáo
để nhấn mạnh: Nho giáo vào nước ta theo con - Thời kì đầu còn xa lạ với nhân
đường quan phương cùng với sự thống trị và nô dân
dịch của các triều đại phong kiến phương Bắc.
Vì vậy, cho đến đầu thời kì quốc gia phong kiến
độc lập, nó mới chỉ dừng lại ở một bộ phận giai
cấp thống trị, còn xa lạ với nhân dân.

- Từng bước được giai cấp phong

Cùng với bước đường xây dựng nhà nước kiến nâng cao, trở thành nội dung
quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, hệ chi phối giáo dục, khoa cử, đến
tư tưởng Nho giáo từng bước được giai cấp thế kỉ XV, nho giáo chiếm vị trí
phong kiến nâng cao, được đặt thành những độc tôn.
nguyên tắc cơ bản trong quan hệ vua – tơi, cha
– con, chồng – vợ, trong đó người trên (vua,
cha, chồng) phải thương yêu, chăm sóc và bao - Khi du nhập vào nước ta, nho
dung người dưới, cịn người dưới (tơi, con, vợ) giáo ít nhiều bị điều chỉnh phù

skkn


phải thương yêu, kính trọng và phục tùng người hợp với văn hóa bản địa của người
trên. Nho giáo là nội dung chi phối giáo dục, thi Việt.
cử. Từ cuối thế kỉ XIII đến đâu thế kỉ XIV, Nho
giáo phát triển mạnh, đến thời Lê Sơ, nhà nước
hạn chế Phật giáo, Nho giáo chiếm vị trí độc
tơn. Sự phát triển của giáo dục Nho học cũng
góp phần củng cố vị trí của Nho giáo.
Tuy nhiên, Nho giáo khi du nhập vào

Việt Nam cũng ít nhiều bị điều chỉnh phù hợp
với văn hóa bản địa, tín ngưỡng, tâm lí của
người Việt.
Hoạt động 3 – cá nhân:
- Hỏi: Tại sao đến thời Lê Sơ, Nho giáo chiếm
địa vị độc tôn?

3. Đạo giáo

- Học sinh trả lời
- Giáo viên chốt đáp án, trên cơ sở tích hợp
kiến thức về nội dung giáo lý Nho giáo, nhấn - Hịa lẫn vào tín ngưỡng dân gian
mạnh vai trị của Nho giáo: Tư tưởng Nho giáo
góp phần duy trì tơn ti trật tự xã hội, củng cố
chế độ quân chủ chuyên chế, được giai cấp
phong kiến nâng lên vị trí độc tơn. Giáo dục
Nho học phát triển góp phần củng cố vị trí của
Nho giáo.
+ Về Đạo giáo:
Giáo viên sử dụng hình ảnh minh họa: ảnh
tượng Đạo Sĩ Yên Kì Sinh.
Đạo giáo được truyền bá vào nước ta từ rất
sớm cùng với Nho giáo và Phật giáo. Đạo sĩ
n Kì Sinh sang nước ta đặt lị luyện linh đan

skkn


ở Yên Tử (Đông Triều Quảng Ninh). Đạo giáo
ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân và hịa lẫn

với tín ngưỡng dân gian. Đạo giáo phù thủy rất
tương đồng với tín ngưỡng ma thuật nên sự hịa 4. Tín ngưỡng:
trộn xảy ra rất mãnh liệt.

- Tín ngưỡng truyền thống tiếp tục

Hoạt động 4 – cá nhân:

phát triển.

- Hỏi: Tại sao Đạo giáo du nhập vào nước ta
lại hịa lẫn với tín ngưỡng dân gian
- Học sinh trả lời:
- Giáo viên chốt đáp án: trên cơ sở tích hợp kiến
thức giáo lý Đạo giáo để nhấn mạnh: Đạo giáo
tương đồng với tín ngưỡng ma thuật nên khi du
nhập vào Việt Nam đã hịa lẫn vào tín ngưỡng
dân gian.
Hoạt động 5 – Giáo viên thuyết trình về tín
ngưỡng
Tín ngưỡng:
Giáo viên thuyết trình Những tín ngưỡng từ thời
Việt Cổ như: thờ cúng tổ tiên, thờ người có
cơng với làng với nước, thờ thần, thờ các hiện
vật tiêu biểu cho nguồn gốc dân tộc tiếp tục
phát triển và ngày càng phổ biến. Giáo viên sử
dụng hình ảnh minh họa, tích hợp kiến thức lịch
sử địa phương về đền thờ Đức Ông ở huyện
Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc: Đền thờ danh
tướng dưới thời Lý Cao Tông 1176 Nguyễn

Văn Nhượng, ông đã có cơng đánh giặc Ai Lao,
giữ gìn biên ải bình định non sơng được vua Lý
Cao Tơng ban cho nhiều ấn tín, lúc ơng mất

skkn


được vua cho xây lăng và lập đền thờ phong
Đông Kinh Thông Phán Đại Vương Thượng
Đẳng phúc thần hưởng theo nghi lễ quốc thể.
Hoạt động 1 – Giáo viên thuyết trình vê sự II. GIÁO DỤC, VĂN HỌC,
phát triển giáo dục Đại Việt từ thế kỉ X - XV

NGHỆ THUẬT, KHOA HỌC –

Giáo viên sử dụng hình ảnh Văn Miếu – Quốc KĨ THUẬT
Tử Giám, Văn bia Tiến sĩ, ban thờ Khổng Tử để
minh họa sự phát triển của giáo dục Đại Việt (X 1. Giáo dục
- XV):
Nhu cầu xây dựng đất nước và nâng cao
tri thức đã thúc đẩy các nhà nước đương thời
quan tâm đến giáo dục.

a. Sự phát triển giáo dục

Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn
Miếu ở kinh đô Thăng Long, đắp tượng Khổng
Tử, Chu Cơng, vẽ tượng 72 học trị xuất sắc của
Khổng Tử, bốn mùa cúng tế. Hoàng Thái tử đến - Thời Lý: Năm 1070, nhà Lý cho
học ở đây. Năm 1075, nhà Lý tổ chức kì thi xây dựng Văn Miếu; năm 1075,

Minh kinh bác học và Nho học tam trường.

nhà Lý tổ chức khoa thi đầu tiên

Thời Trần, các khoa thi được tổ chức đều
đặn hơn. Năm 1247, đặt lệ lấy “tam khôi”, (ba
người đỗ đầu), quy định rõ nội dung học tập,mở
rộng quốc tử giám cho con em quí tộc và quan - Nhà Trần: tổ chức các khoa thi
lại đến học.

đều đặn.

Thời Lê sơ, qui chế thi cử được qui định
rõ ràng: cứ 3 năm có một kì thi hội, chọn tiến sĩ,
riêng thời vua Lê Thánh Tông tổ chức được 12 - Thời Lê Sơ: qui định rõ qui chế
khoa thi Hội. Năm 1484, nhà nước quyết định thi cử, năm 1484 cho dựng bia tiến
dựng bia ghi tên tiến sĩ.

sĩ.

skkn



×