Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Top 50 bai phan tich hinh anh ba tu trong thuong vo tran te xuong hay nhat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.68 KB, 31 trang )

Dàn ý phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ
I. Mở bài
- Trình bày khái quát về hình tượng người phụ nữ trong thơ ca trung đại: Được
nhiều tác giả nhắc đến với tấm lòng trân trọng và niềm cảm thương sâu sắc cho số
phận như Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du…
- Thương vợ của Trần Tế Xương là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về hình
tượng người phụ nữ. Bài thơ đã thể hiện thành cơng hình tượng bà Tú
II. Thân bài
1. Hình tượng bà Tú nổi lên là một người phụ nữ vất vả lam lũ
- Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sơng”
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua
năm khác
+ Địa điểm “mom sông”:phần đất nhơ ra phía lịng sơng khơng ổn định.
⇒ Cơng việc và hồn cảnh làm ăn vất vả, ngược xi, không vững vàng, ổn định,
bà không những phải nuôi con mà phải nuôi chồng
- Sự vất vả, lam lũ được thể hiện trong sự bươn chải khi làm việc:
+”Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng
+ Hình ảnh “thân cị”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân
phận và mang tính khái qt
+ “khi qng vắng”: thời gian, khơng gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy
hiểm lo âu
⇒ Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn
dụ
+ Eo sèo… buổi đị đơng: gợi cảnh chen lấn, xơ đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc


+ Buổi đị đơng: Sự chen lấn, xơ đẩy trong hồn cảnh đơng đúc cũng chứa đầy
những sự nguy hiểm, lo âu
- Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn
mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.
⇒ Thực cảnh mưu sinh của bà Tú : Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm


đồng thời thể hiện lịng xót thương da diết của ông Tú.
- Năm nắng mười mưa: số từ phiếm chỉ số nhiều
⇒ Sự vất vả lam lũ, cực nhọc của Bà Tú
2. Hình tượng bà Tú với những nét đẹp và phẩm chất đáng quý, đáng trọng
- Tuy hoàn cảnh éo le vất vả, nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con :
+ “ni”: chăm sóc hồn tồn
+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải ni cả gia đình, khơng thiếu
⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.
- Phẩm chất tốt đẹp của Bà Tú còn được thể hiện trong sự chăm chỉ, tần tảo đảm
đang
+ “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành
phận”, không than vãn
+ “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự
tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.
⇒ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà
Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lịng vì chồng vì con của bà Tú
⇒ Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến
3. Nghệ thuật thể hiện thành cơng hình tượng bà Tú
- Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm.


- Vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngơn ngữ của văn học dân gian.
- Hình tượng nghệ thuật độc đáo.
- Việt hóa thơ Đường
III. Kết bài
- Khẳng định lại những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú
- Trình bày suy nghĩ bản thân
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 1
Nói đến nhà thơ Tú Xương, chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm "Thương
vợ". Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, “Thương vợ”

được xem là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện một cách thấm
thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của Tú Xương đối với sự hi sinh, tảo tần
của vợ, để ông được học hành, thi cử như vậy. Quan trọng hơn qua hình ảnh bà Tú
trong tác phẩm “Thương vợ”, người ta thấy hiện lên một bức chân dung về người
phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất tốt đẹp điển hình.
Bà Tú có tên thật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân từ gia đình dịng dõi nho gia. Bà
nhẫn nại, cam chịu phận làm người vợ thảo hiền, tảo tần sớm hôm nuôi chồng,
nuôi con, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đời Tú Xương – Một trí thức khơng gặp
thời, long đong, lận đận trên con đường sự nghiệp.
Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong các tác phẩm
thơ của Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về đề tài người vợ thường mang
nhiều âm điệu: có khi là lời thủ thỉ tâm tình, có khi chỉ là lời bơng đùa hóm hỉnh,
hoặc cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả các tác phẩm
vẫn là thái độ trân trọng cảm thơng, sự hàm ơn chân thành từ phía một người
chồng trước sự hi sinh của một người vợ.
Khi nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến một không gian gia đình, mà ở
đó người vợ có vai trị trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của người
chồng. Bà Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào cái thời buổi Tây, Tàu lẫn


lộn, nhốn nháo, khơng cịn đâu cảnh thơ mộng “bên anh đọc sách, bên nàng quay
tơ” như ngày xưa, bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay của cuộc đời, cũng phải
dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua để mong đảm bảo cuộc sống tối
thiểu của gia đình:
“Quanh năm bn bán ở mom sơng
Ni đủ năm con với một chồng”
Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” hiện lên khơng phải từ dáng vóc,
hình hài mà từ không gian và thời gian của công việc. “Quanh năm” khơng chỉ là
độ dài có thời lượng mà cịn gợi ra cho chúng ta một cái vịng vơ kì hạn của thời
gian, nó cho thấy cuộc mưu sinh vất vả này khơng có hồi kết thúc. Khơng gian

“mom sơng” vừa có giá trị tả thực – là phần đất nhơ hẳn ra lịng sơng, vừa gợi lên
khơng gian sinh tồn bấp bênh và chông chênh.
Bà Tú phải hàng ngày bươn chải với đời bởi trên vai bà là cả một gánh nặng gia
đình: “Ni đủ năm con với một chồng”. Biết bao hàm ý tốt lên trong cụm từ
“ni đủ”, nó thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm ý sự
chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị “năm con với một chồng”. Nhà thơ đã tự
hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là
một trong những gánh nặng của vợ.
Câu ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh
con cị:
“Con cị lặn lội bờ sơng
Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ non”
Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”
Nhà thơ đã vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo từ đó.
Với việc dùng từ “thân cị”, tác giả đã thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm
nổi rõ hơn số kiếp lận đận của bà Tú. Nói về cấu trúc cú pháp của câu thơ, tác giả
đã sử dụng biện pháp đảo ngữ nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm, nhọc
nhằn trong cơng việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh “đị đơng” thể hiện tính chất


bấp bênh trong cuộc mưu sinh của bà thì từ láy “eo sèo” đã diễn tả sinh động sự ồn
ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hàng ngày mà bà Tú phải chịu
đựng.
Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương, chịu khó, mà hình ảnh bà Tú trong tác
phẩm “Thương vợ” của Tú Xương còn thể hiện một con người với bổn phận vị tha,
lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của đời mình.
Hóa thân vào nhân vật người vợ, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là
thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước hoàn cảnh gia đình. Khi đọc

bài thơ hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an
phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, khơng phiền lịng phẫn chí.
Việc vận dụng thành ngữ số từ “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm
cho lời thơ trở nên cô đúc. Những câu thơ như lời kể công, kể khổ của Tú Xương
dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà
Tú như càng được nhấn mạnh và nổi bật hơn.
Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần một
phần nào, thể hiện ở hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất
chứa của nhà thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như khơng”
“Thói đời” ở đây được nhà thơ nói đến phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời
đã tạo ra những người chồng hờ hững? để rồi những người phụ nữ như bà Tú phải
mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi lịng dằn vặt, thái độ chân
thành, tự trách mình của nhà thơ, đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch
tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa trong xã hội và ngay cả trong
chính gia đình của mình.
Có thể nói hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ”, được Tú Xương khắc họa
rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình
của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và
lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lịng tri ân trân trọng, sụ cảm thơng đồng
thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.


Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 2
Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt
Nam. Ơng đã dùng ngịi bút sắc bén của mình để đả kích, trào lộng một cách chua
cay, sâu sắc về xã hội nửa tây nửa ta, về nạn tham nhũng, thi cử. Nét đặc biệt nhất
là ơng cịn viết những vần thơ trào lộng chính mình. Trong bài thơ “Thương vợ”,
Tú Xương khơng chỉ thể hiện tình thương sâu nặng với vợ thông qua sự thấu hiểu

nỗi vất vả, gian lao của bà Tú mà cịn châm biếm chính mình vì làm thân nam nhi
nhưng lại làm gánh nặng cho vợ con.
Đọc thơ Trần Tế Xương ta có thể dễ dàng bắt gặp những vần thơ trào lộng, châm
biếm về chính bản thân nhà thơ. Bài thơ “Thương vợ” cũng là một tác phẩm như
vậy. Đọc thơ, ta đồng cảm sâu sắc với tình thương mà Tú Xương dành cho vợ,
cũng cảm nhận được cái “tôi” đầy ý thức, tình nghĩa của Trần Tế Xương. Mở đầu
bài thơ, nhà thơ đã vẽ ra không gian lao động đầy lam lũ, vất vả của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
“Quanh năm” gợi ra cái dằng dặc của thời gian sống cũng gợi ra cái đều đặn của
hành động, mang theo được cả những nỗi gian truân, vất vả mà bà Tú phải gánh
vác “buôn bán ở mom sông”. “Buôn bán ở mom sông” gợi ra cái không gian nhỏ
hẹp nhưng đầy bát nháo, xô bồ của những người buôn, kẻ bán. Trong cái khơng
gian xơ bồ, chật hẹp ấy, hình ảnh bà Tú hiện lên thật khiến cho người đọc phải xót
xa. Trong quan niệm của người Phương Đông, người phụ nữ ở trong nhà là “an”,
ra ngoài là bất an, người phụ nữ được sống trong sự chở che, yêu thương của người
chồng là an, phải sống trong sự xô bồ của cuộc sống “con buôn” là vô cùng gian
nan, khổ cực.
Bà Tú quanh năm vất vả với công việc buôn bán bởi trách nhiệm cơm áo gạo tiền
để duy trì cuộc sống hàng ngày, cũng là bởi trên vai gánh nặng trách nhiệm chồng
con: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Ở đây, Tế Xương đã gộp mình vào những
đứa con, là một trong những gánh nặng mà bà Tú phải gánh vác, nhà thơ tự trách
mình vì sống là thân nam nhi, không những không làm chỗ dựa được cho vợ mà
còn chất chồng thêm những gian khổ nên người phụ nữ ấy.


Hình ảnh bà Tú tiếp tục được Tế Xương khắc họa bằng những gian khổ, bằng tình
thương sâu sắc dành cho vợ nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của bản thân
khi khơng thể làm gì hơn để giúp vợ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đị đơng”
“Lặn lội”, “eo sèo” thể hiện được cuộc sống nổi trôi, những thăng trầm trong công
việc bán bn. Hình ảnh con cị thường là hình ảnh biểu tượng cho những người
phụ nữ. Ở đây, nhà thơ dùng từ “thân cị” để nói về hình dáng mỏng manh, đầy khổ
cực của bà Tú trong công việc, vừa thể hiện được sự xót xa, đau đớn khi chứng
kiến sự cực nhọc của người vợ, nhất là khi công việc bn bán khơng thuận lợi,
nhiều khó khăn “qng vắng”, “buổi đị đơng”.
“Một dun hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Nếu những câu thơ trên, Trần Tế Xương nói về cơng việc bn bán đầy cực nhọc
cũng như nỗi gian truân, vất vả của bà Tú thì đến câu thơ này, nhà văn nhấn mạnh
đến những phẩm chất tốt đẹp của vợ mình. Đó chính là sự hi sinh vơ điều kiện vì
chồng con. Vất vả là thế, cực nhọc là thế nhưng bà Tú vẫn không hề “quản cơng”,
khơng một lời than trách mà coi nó là trách nhiệm của mình “âu đành phận” vì con,
vì chồng “một duyên, hai nợ”. Nhấn mạnh đến sự hi sinh, tấm lòng vĩ đại của bà
Tú, Tế Xương đã sử dụng đến hình ảnh “năm nắng mười mưa” để làm nổi bật lên
vẻ đẹp đức hạnh ấy.
Càng thương vợ bao nhiêu thì Tế Xương càng tự trách mình bấy nhiêu, vì làm
chồng mà khơng giúp được gì cho vợ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Tế Xương đã dùng những ngôn ngữ thông tục để nói về sự bạc bẽo của cuộc đời,
về sự trớ trêu của hồn cảnh “cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. Cất tiếng “chửi” đời cũng
là điểm nhấn để Tế Xương tự giễu chính bản thân mình “Có chồng hờ hững cũng
như khơng”. Hận thói bạc bẽo của cuộc đời bao nhiêu thì ơng hận chính mình bấy
nhiêu. Câu thơ thể hiện sự thương vợ song cũng tự ý thức về trách nhiệm của chính


mình, Tế Xương cho rằng ơng đã khơng hồn thành được trách nhiệm, bổn phận
của một người chồng, không những vậy cịn làm tăng thêm gánh nặng cho vợ. Ơng

trào lộng mình như cách nói tiếng thương cảm chân thành với người vợ của mình
“có chồng cũng như khơng”.
Như vậy, qua bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương, hình ảnh bà Tú hiện lên
với bao vẻ cực nhọc, đáng thương song cũng mang đầy vẻ đẹp của phẩm chất, đạo
đức. Khơng thể khơng nhắc tới ở đây chính là hình ảnh tự họa của chính nhà thơ,
tuy Tế Xương trách mình, hận mình song độc giả cũng cảm nhận được tấm lòng
thương vợ sâu sắc, ở sự nghiêm khắc với bản thân. Đây là điều mà không phải ai
cũng làm được. Nên vậy, hình ảnh Tú Xương hiện lên vẫn rất đáng trân trọng.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 3
Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình
tượng lớn của văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là
một người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm. Thương vợ
của Tú Xương nằm trong số những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung
bà Tú, người bạn đời của Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành
của một người chồng dành cho vợ.
Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân
đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng bn bán, một
mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để kiếm sống ni gia đình. Cái gian
trn khó nhọc được cụ thể hố bằng thời gian quanh năm, bằng khơng gian ven
sơng, qng vắng, buổi đị đơng. Nghĩa là triền miên suốt năm suốt tháng không
ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Đặt trong những không gian, thời
gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, tội nghiệp
hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong gánh nặng mà bà Tú phải gánh
trên vai: Một gia đình với năm con và một chồng. Năm đứa con với biết bao nhu
cầu, bao địi hỏi hàng ngày, bên cạnh đó đức ông chồng giàu chữ nghĩa đã không
giúp vợ được gì lại cịn trở thành một mối bận tâm lo lắng của vợ, mà nhu cầu của
ông chồng ấy nào có ít ỏi gì, nó đủ làm thành một phía để cân bằng với phía năm
đứa con.



Thế mới biết cuộc sống hằng ngày của bà Tú là như thế nào. Lo cho con, lo cho
chồng, mà phải lo làm sao cho đủ tức là không thừa nhưng cũng không được thiếu.
Bằng chừng ấy nỗi lo trĩu nặng trên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ ấy. Chính
vì vậy mà phải bươn chải nắng mưa khuya sớm, bất kể hiểm nguy hay đơn độc.
Nói sao cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt cuộc đời
của mình. Hình ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà
đảm đang, lam lũ, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong
cuộc sống dân tộc.
Cuộc đời nhiều gian truân vất vả đó là sự thiệt thịi của bà Tú. Thế nhưng cũng
chính cuộc đời đó đã làm nổi bật bao vẻ đẹp đáng quý ở người phụ nữ này, vẻ đẹp
đầu tiên là vẻ đẹp của sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Gánh cả một gánh nặng gia
đình trên vai với bao khó khăn cơ cực, lại cơ đơn thui thủi một mình, khơng người
sẻ chia giúp đỡ, ấy vậy mà vẫn cần mẫn, không một chút chểnh mảng, bỏ bê công
việc. Bà Tú cứ vậy, chăm chỉ, miệt mài, chịu thương, chịu khó, khơng nề hà khó
khăn nguy hiểm, khơng quản ngại nắng mưa khuya sớm. Hình ảnh thơ khơng chỉ
diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm sống chu tất
cho chồng, cho con của bà Tú. Diễn tả đầy đủ nhất điều này có lẽ khơng câu thơ
nào hơn hai câu:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng."
Con cị, thân cị là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng
cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình
ảnh "lặn lội thân cị", Tú Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của
người phụ nữ Việt Nam truyền thống mà đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu
thương chịu khó.
Bà Tú cịn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm
ăn kiếm sống của bà Tú thật khơng dễ dàng gì, nhưng khơng lúc nào ta thấy bà Tú
bó tay chùn bước, lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành
giật chốn đị đơng. Tất cả đều để chu tất cho gia đình: ni đủ năm con với một
chồng. Sức vóc một người đàn bà giữa thời buổi cơm cao gạo kém mà vẫn đảm

bảo cho chồng cho con một cuộc sống dẫu chưa phải là sung túc nhưng không đến


nỗi thiếu thốn như vậy thì quả là giỏi giang hiếm có. Đó là minh chứng cho cái
tháo vát đảm đang ở bà Tú, cũng là biểu hiện thuyết phục về tấm lòng hết mực
dành cho con cho chồng của người phụ nữ này.
Khơng chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi
sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn
nàn, khơng một lời ốn trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng
gia đình. Ngay cả khi ý thức một thực tế cay đắng trong quan hệ vợ chồng, một
duyên hai nợ thì bà Tú vẫn chấp nhận tất cả sự vất vả nhọc nhằn về phía mình Năm nắng mười mưa dám quản cơng. Đó là sự hi sinh qn mình, là tấm lịng vị
tha hết mực của bà Tú dành cho ông Tú và những đứa con.
Được tái hiện bằng tấm lòng thương vợ chân thành, sâu sắc của Tú Xương, hình
ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành một hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho
những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 4
Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, "Thương vợ" được
đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất. Cái hay của bài thơ là đã thể hiện
được một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự
hi sinh, tảo tần của vợ. Quan trọng hơn từ tác phẩm này người ta thấy hiện lên bức
chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất điển hình.
Bà Tú tên thật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia "con gái nhà dòng, lấy
chồng kẻ chợ". Bà nhẫn nại, cam phận làm người vợ thảo hiền, làm chỗ dựa tinh
thần cho cuộc đời Tú Xương - một trí thức khơng gặp thời, long đong trên con
đường sự nghiệp.
Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ của Tú
Xương. Những bài thơ của ông viết về vợ thường mang nhiều sắc điệu: có khi là
lời thủ thỉ tâm tình, lời bơng đùa hóm hỉnh, cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót
xa nhưng bao trùm tất cả vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân
thành.



Nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến khơng gian gia đình, ở đó người vợ
có vai trị quan trọng trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của chồng. Bà
Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào buổi Tây, Tàu nhốn nháo, khơng cịn
đâu cái cảnh thơ mộng "bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ", bà Tú cũng phải
cuốn theo guồng quay của cuộc đời phiền toái, dạt theo cuộc bươn chải với đổi
chác, bán mua:
"Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng"
Chân dung của bà Tú hiện lên khơng phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian
và thời gian công việc. "Quanh năm" không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra
cái vòng vơ kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh khơng có hồi kết thúc.
Khơng gian "mom sơng" vừa có giá trị tả thực - là doi đất nhơ hẳn ra lịng sơng,
vừa gợi lên khơng gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh.
Bà Tú phải hằng ngày xuất gia chường mặt ra với đời bởi trên vai bà là cả một
gánh nặng gia đình: "Ni đủ năm con với một chồng". Biết bao hàm ý toát lên
trong cụm từ "ni đủ", nó vừa thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc
lại vừa hàm chỉ sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị "năm con với một
chồng". Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa
nhận ra mình cũng là một thứ con trong gánh nặng của vợ.
Ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con
cị:
"Con cị lặn lội bờ sơng
Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ non"
Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:
"Lặn lội thân cị khi qng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng"
Nhà thơ vừa tiếp thu, vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc
đáo. Với việc dùng từ "thân cò", tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường vừa

làm nổi rõ số kiếp lận đận của bà Tú. Trong cấu trúc cú pháp của câu thơ, biện
pháp đảo ngữ đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm nhọc


nhằn trong cơng việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh "đị đơng" thể hiện tính chất
bấp bênh trong cuộc mưu sinh thì từ láy "eo sèo" đã diễn tả sinh động sự ồn ào,
nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hằng ngày mà bà Tú phải chịu
đựng.
Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương chịu khó, bà Tú trong "Thương vợ" của
Tú Xương còn là con người bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống
của mình.
Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái
độ chín chắn trước dun phận, độ lượng trước gia cảnh. Hiện lên trong tâm trí
người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không
trách phận than thân, không phiền lịng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ
"một duyên hai nợ", "năm nắng mười mưa" làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Lời kể
công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự
cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng nổi bật hơn.
Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần, hai câu
kết của bài thơ là tiếng lịng mang nặng nỗi niềm chất chứa:
"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như khơng"
"Thói đời" ở đây phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người
chồng hờ hững? để rồi người phụ nữ phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu
thơ thể hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách mình của nhà thơ đồng thời
bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người
thừa ngay trong chính gia đình của mình.
Có thể nói với "Thương vợ", Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh
người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam:
đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lịng vị tha. Đằng sau tiếng

thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi
của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 5


Tú Xương là người có tố chất thơng minh từ nhỏ, ông từng tám lần đi thi nhưng chỉ
đậu đến Tú tài vì phạm. Cuộc đời ơng đầy những chua chát, đắng cay và tất cả
những điều đó đã được thể hiện đầy đủ trong các bài thơ của ông. Thơ của Tú
Xương dành một dung lượng khá lớn viết về vợ của mình, một điều hiếm thấy xưa
nay. Và trong chùm đề tài ấy bài thơ Thương vợ là bài hay nhất, chỉ với bài thơ này
nhưng hình ảnh bà Tú đã hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp cũng như số phận của người
phụ nữ.
Mở đầu bài thơ, Tú Xương giới thiệu về công việc của bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Câu thơ đã giúp người đọc đã hình dung được cơng việc của bà Tú đó là làm nghề
bn bán gạo, cơng việc đó kéo dài triền miên, mang tính tuần hồn hết tuần này
nối tiếp đến tuần khác, dường như trong cuộc đời bà khơng có lấy một giây phút
được nghỉ ngơi, thư giãn. Hơn nữa nơi bà làm ăn buôn bán lại chứa đựng đầy sự
nguy hiểm – mom sơng – phần đất nhơ ra phía lịng sơng, đây là phần đất chênh
vênh và có thể bị ngã bất cứ lúc nào. Bà Tú đã phải chịu đựng biết bao vất vả, cực
nhọc, cuộc sống mưu sinh đầy gian truân khiến cho bà dù biết những nguy hiểm
nhưng vẫn không thể bỏ bởi phải: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Trong xã hội
phong kiến, người đàn ông vốn được mặc định coi là trụ cột gia đình, lo toan về
kinh tế cho cả nhà, nhưng ở đây trong gia đình Tú Xương trụ cột ấy lại chính là bà
Tú. Bà khơng chỉ ni con mà ni cả chồng, như vậy là sáu miệng ăn chưa tính
đến bà. Chữ “đủ” chứa đựng nhiều ý nghĩa, đủ là ni cả gia đình; đủ cịn có thể
hiểu là đủ ăn đủ mặc, và đủ cả những thú vui thanh cao, tao nhã của ông Tú. Đặc
biệt trong cách đếm “năm con với một chồng” là cách đếm lạ, Tú Xương tự tách
mình riêng, đặt sau con cho thấy nỗi hổ thẹn trong ơng khi khơng giúp được gì cho

bà Tú, và sự trách sự vơ tích sự của bản thân. Câu thơ như một lời tự trào chính
mình của tác giả. Hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã khắc họa thành công sự tảo tần,
tháo vát mà cũng đầy vất vả, cơ cực của bà Tú.
Không dừng lại ở đó, hai câu thơ tiếp theo càng tơ đậm hơn nữa sự vất vả của bà
Tú trong công cuộc mưu sinh: “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước
buổi đị đơng”. Hai từ “lặn lội” “eo sèo” được đảo lên đầu câu câu tô đậm nỗi vất


vả, nhọc nhằn của bà Tú. Đồng thời từ lặn lội kết hợp với hình ảnh thân cị đầy ám
ảnh đã khắc đậm nỗi truân chuyên của bà Tú. Hình ảnh con cò trong ca dao vốn để
chỉ những người nơng dân nhọc nhằn, vất vả:
Cái cị mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ơng ơi ơng vớt tơi nao
Tơi có lịng nào ơng hãy xáo măng ….
Và bà Tú cũng chẳng khác những thân cò kia, một mình lặn lội kiếm ăn, chịu đựng
để ni chồng, nuôi con. Công việc ấy lại vô vàn nguy hiểm “khi qng vắng”
“buổi đị đơng” phải chen lấn, xơ đẩy, đầy cực nhọc, vất vả. Với hai câu thơ ba và
bốn, đã khắc sâu hơn nữa nỗi nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh của bà Tú. Đằng sau
đó, ta cịn thấy tiếng uất nghẹn của một người chồng nhìn thấy nỗi cơ cực của vợ
mà không thể đỡ đần. Và hơn cả là nỗi niềm thương xót, cảm phục và biết ơn vợ
sâu sắc của Tú Xương.
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Trong hai câu thơ tác giả sử dùng thành ngữ và cách nói tăng cấp: “một duyên hai
nợ” “năm nắng mười mưa” đã khắc họa cuộc đời cơ cực, tủi nhục của bà Tú. Bà
với ơng Tú, dun thì ít mà nợ thì nhiều. Ơng Tú tự thấy mình là một gánh nợ
trong suốt cuộc đời người vợ. Nhưng người mẹ, người vợ đó khơng hề ý thức rằng
đó là sự hi sinh. Như bao người phụ nữ Việt Nam khác, bà làm mọi việc một cách
tự nhiên, âm thầm, không hề địi hỏi, ốn trách. Bà Tú coi đó như một lẽ thường

tình, nào có kể cơng. Cách nói cam chịu “âu đành phận” “dám quản công” là ông
Tú ngao ngán về chính mình, xót xa cho thân phận bà Tú mà thốt lên, mà kể cơng
thay cho bà.
Khắc họa hình ảnh bà Tú, Tú Xương đã vận dụng tài tình nghệ thuật đảo ngữ (lặn
lội, eo sèo), sử dụng thành ngữ (một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa). Giọng
điệu đan xen hài hịa giữa trữ tình và trào phúng trong đó giọng trữ tình là chủ đạo
để làm nổi bật lên vẻ đẹp nhân cách, phẩm chất của bà Tú.


Bài thơ khắc họa một cách chân thực, xúc động hình ảnh bà Tú đảm đang, tháo vát,
giàu đức hi sinh và lịng vị tha. Bà Tú là điển hình cho đức hi sinh, sự tảo tần của
người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời tác phẩm cũng cho ta thấy bức chân dung tinh
thần của chính nhà thơ – một con người bất đắc chí nhưng nhân cách cao đẹp.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 6
Phụ nữ là một đề tài lớn trong văn học Việt Nam. Từ các tác phẩm văn chương
hiện lên với vẻ đẹp chân dung, đức hạnh trên nhiều bình diện. Tuy nhiên hiếm có
thi nhân nào viết về người phụ nữ với tư cách là người vợ bằng tình cảm chân
thành của một người chồng như trong thơ Trần Tế Xương. “Thương vợ” là một bài
thơ tiêu biểu khắc họa sinh động hình ảnh bà Tú cùng với những phẩm chất tốt đẹp
giàu đức hi sinh, chịu thương chịu khó và nhẫn nại, kiên cường vì chồng con. Hình
ảnh ấy đã trở thành điển hình cho nét đẹp của người phụ nữ Việt.
Hình ảnh bà Tú xuất hiện với công việc vất vả và gian truân, gánh nặng trách
nhiệm gia đình đè lơi vai người vợ hiện lên thật sinh động, giàu giá trị nhân văn
qua bốn câu thơ đầu:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo nước mặt buổi đị đơng”
Nghề nghiệp của bà Tú là buôn bán. Nhắc đến nghề buôn là người ta thường nghĩ
ngay đến sự an nhan và giàu có “Phi thương bất phú” nhưng với bà Tú lại đối lập

hoàn tồn với điều đó. Khơng gian bn bán ở đây là “mom sơng” - nơi “đầu sóng
ngọn gió” với bao nguy hiểm, là “cái địa điểm cheo leo chênh vênh, chứ khơng
phải ở cái bến ngang sơng tấp nập bình thường”. Thời gian làm việc là “quanh
năm” thời gian đằng đẵng hết ngày này, tháng khác lại năm nọ chẳng bao giờ được
nghỉ ngơi dù là ngày nắng hay ngày mưa. Vì miếng cơm manh áo để “Ni đủ năm
con với một chồng” không cho phép bà được an nhàn một giờ khắc. “Đủ” ở đây là
đủ không chỉ về cơm ăn mà cịn áo mặc, mọi thứ khơng thừa nhưng cũng khơng
thể thiếu. Nào có phải là một chồng hai con như xã hội hiện đại mà là “năm con”
rất đông, con số nhiều được đặt ngang hàng để đối với “một chồng” số ít tạo nên


một địn gánh cân bằng trên đơi vai của bà Tú. Chi phí cho ơng Tú_ nhà Nho “dài
lưng tốn vải” ngang bằng với cơm ăn áo mặc của năm đứa con gộp lại. Điều đó
cho thấy trách nhiệm lo kinh tế gia đình thật chẳng hề dễ dàng đối với một người
phụ nữ sống trong thời buổi khó khăn con người ta bon chen nhau kiếm từng xu
từng hào.
Hình ảnh “Thân cò” lặn lội càng gợi thêm sự cơ cực và cô độc của người đàn bà
tảo tần. Thân cò trong văn học truyền thống là biểu tượng cho người nơng dân nói
chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Hình ảnh “Thân cị” với nghệ thuật
đảo ngữ “lặn lội thân cò” gợi lên một thân phận, số phận cụ thể, nhỏ bé, mong
manh giữa cuộc đời. Tú Xương đã vận dụng thành công ngôn ngữ của dân gian vào
trong ý thơ của mình để đặc tả sự gian truân mà bà Tú phải chịu. Khi thì “lặn lội”
lúc “qng vắng”, khi thì “eo sèo” lúc “buổi đị đông”. Tú Xương phả là một người
chồng hết mực yêu thương và cảm thơng với vợ mới có thể viết được những câu
thơ hay và đặc sắc khi nói về cái vất vả mà vợ mình phải gánh chịu.
Bấy nhiêu cực khổ ấy nhưng bà Tú chẳng nề hà, kêu than lấy một lời. Bà giàu đức
hi sinh và rộng lượng để âm thầm cam chịu, chấp nhận tất cả những gian nan, cực
khổ một lịng vì chồng vì con vì mái ấm gia đình.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”

Là như vậy, dù cho “ Cha mẹ thói đời ăn ở bạc” và “Có chồng hờ hững cũng như
khơng” nhưng bà vẫn khơng một lời ốn trách. Bà coi đó là cái dun phận, tình
nghĩa vợ chồng và là trách nhiệm của một người vợ có chồng là thi sĩ. Bốn câu thơ
cuối là lời của Tú Xương thác ra giọng của bà Tú để bày tỏ, để nói hộ lịng vợ. Ơng
cũng tự trách bản thân mình là một người chồng “hờ hững” khơng giúp gì được
cho vợ mà ngược lại cịn là gánh nặng trên đôi vai của bậc hiền phụ. Trách mình
trách đời cũng là cách gián tiếp để ơng Tú ca ngợi, đề cao công lao và phẩm chất
của vợ theo cái cách chưa từng có trong thơ văn trung đại:
“Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”.


Bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương với những bút pháp nghệ thuật đặc sắc
kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ đời thường với ngôn ngữ bác học trong tám câu thơ
Đường luật giải quy phạm đã khắc họa thành cơng hình ảnh bà Tú - người vợ,
người phụ nữ đảm đang, tháo vát giàu lòng yêu thương, rộng đức hi sinh vì gia
đình. Con người ấy xuất hiện trong những câu thơ trữ tình sâu lắng trở thành một
biểu tượng đẹp cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam.
Trong xã hội ngày nay với những xô bồ của cuộc sống khơng ít những phẩm chất
tốt đẹp của người phụ nữ bị vùi lấp đi bởi giá trị của đồng tiền, của danh vọng và
địa vị. Bài thơ “Thương vợ” được đưa vào chương trình phổ thơng là một bài học
giàu giá trị nhân văn để các em học tập và là tấm gương để những người phụ nữ
hiện đại phần nào soi mình vào đó gìn giữ nét đẹp truyền thống mà vẫn phù hợp
với thời đại.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 7
Viết về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đã từng có rất nhiều những áng
thơ văn nói lên nỗi khổ hạnh, buồn tủi của số phận nữ nhi bất hạnh, khổ đau. Nhà
thơ Trần Tế Xương cũng vậy, người phụ nữ trong thơ ông không phải ai khác mà
chính là người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh của mình. Với những tình cảm chân
thành, mộc mạc, ơng đã khắc họa lại hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ"

một cách rất chân thực và giàu cảm xúc.
Bà vừa là một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh, vừa là một người mẹ giàu lịng
u thương. Mọi khó khăn, khổ cực trên cuộc đời này chẳng là gì so với người phụ
nữ can đảm, chịu thương chịu khó ấy.
"Quanh năm bn bán ở mom sơng
Ni đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cị khi qng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng."
Hình ảnh một người phụ nữ tảo tần, vất vả ở mom sông - nơi ẩn chứa rất nhiều mối
hiểm nguy, thậm chí có thể mất mạng bất cứ lúc nào - đã gợi lên bao cảm xúc cho
người đọc. Trong thời buổi khó khăn, kiếm được đồng tiền rất cực khổ, ni được
thân mình thơi đã là vất vả lắm rồi. Vậy mà bà Tú của Tế Xương cịn phải "Ni


đủ năm con với một chồng". "Đủ" không những đủ ăn mà cịn đủ mặc, dù khơng
dư giả hay cao sang nhưng cũng khơng thiếu thứ gì. Mặt khác, hai vế của câu thơ
"năm con với một chồng" giống như một chiếc địn gánh vơ hình nhưng rất dài
đang đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương. Nhưng bà không hề
than vãn hay kêu ca nửa lời. Bà cam chịu, hi sinh bằng tất cả tấm lịng nhân ái và
u thương của mình. Tế Xương đã tự ví bà với "thân cị" - một hình ảnh rất đẹp,
rất nhân văn và quen thuộc khi nói về những người nông dân lam lũ, vất vả. Bà lặn
lội khi quãng vắng, rồi lại "eo sèo mặt nước buổi đị đơng". Trong hai câu thơ này,
tác giả đã cố tình dùng phép đảo ngữ đẩy hai từ "lặn lội", "eo sèo" lên đầu câu để
nhấn mạnh thêm nữa sự vất vả, bon chen của bà Tú. Người phụ nữ ấy khơng những
u chồng, thương cịn mà cịn rất sắc sảo, nhanh nhẹn. Vì thế bà mới có thể vững
chân làm nghề buôn bán quanh năm được. Nhất là trong lúc khó khăn, ai ai cũng
cố gắng hết mình để giành giật lấy từng đồng từng xu, bà Tú cũng vậy, bà cũng
phải bon chen lắm, nỗ lực lắm mới có thể "ni đủ năm con với một chồng", cộng
thêm cả bản thân bà nữa bẩy người. Một mình bà ni cả bẩy miệng ăn.
Nhưng dù có khổ cực đến đâu đi nữa, người phụ nữ ấy vẫn luôn đứng vững và cam

chịu tất cả:
"Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản cơng
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như khơng."
Dun nợ long đong lận đận, kiếp sống khổ cực, nhọc nhằn nhưng xun suốt cả
bài thơ, khơng có một từ nào nói lên sự than thở, kêu than của bà Tú. Người phụ
nữ ấy có tấm lịng u thương q lớn. Bà đã hi sinh tất cả cho chồng cho con, hi
sinh cả tuổi thanh xuân đầy khát vọng của mình. Dù "năm nắng" hay "mười mưa"
bà nào có "quản cơng". Một mình bà sẵn sàng gánh vác cả gia đình. Cũng may,
trong thời ấy, dù nhiều người phụ nữ khác cũng lam lũ, cũng vất vả nhưng chẳng
mấy ai được chồng cảm thơng và thương xót như Bà Tú. Chỉ tiếng rằng ngồi tình
thương, Tế Xương cũng khơng thể làm gì giúp vợ được. Thế nên, ơng mới tự nhận
"Có chồng hờ hững cũng như khơng". Bà khơng cần nói nhưng những việc bà làm
đã khiến Tế Xương chồng bà phải khâm phục và nể trọng.


Bà là đại diện cho những người phụ nữ truyền thống của Việt Nam với đức tính
chịu thương chịu khó, hi sinh vất vả và giàu lòng yêu thương. Tuy nhiên, trong
cuộc sống hiện đại, do có quá nhiều thứ bon chen, chi phối, một số người đã khơng
cịn gìn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, cao quý ấy nữa. Họ sống vì lợi danh,
sống ganh đua, chua chát. Khơng ít kẻ đã trà đạp lên nhau, giẫm chân lên nhau mà
sống. Ai cũng vì lợi ích riêng của bản thân mình mà quên đi mất những phẩm giá
tốt đẹp vốn có của con người. Chưa kể đến có những bà lười biếng, thích ăn khơng
ngồi rồi, thích hưởng thụ, thích sai khiến người khác phải phục tùng mọi ý muốn
của mình. Khơng mấy ai cịn phải vất vả như bà Tú nhưng cũng cũng chẳng có
nhiều tấm lịng giàu tình yêu thương và vị tha như vậy nữa.
Giữa thời thế xơ bồ hỗn độn, hình ảnh bà Tú lại xuất hiện với những câu thơ chân
thành, mộc mạc của Tế Xương như một lời động viên, khích lệ và khuyên nhủ
những người phụ nữ hãy nhìn nhận lại bản thân mình, hãy cố gắng vươn lên trong

mọi hồn cảnh. Đừng vì đồng tiền hay vì bất kỳ một điều gì khác mà làm mất đi
danh dự và phẩm giá cao quý của mình. Mặt khác, những người chồng, người đàn
ông cũng hãy cảm thông, thương yêu và quý trọng người phụ nữ của đời mình, hãy
cùng nhau sẻ chia và gánh vác mọi chuyện trong gia đình, cũng như trong cuộc
sống. Tế Xương thương vợ, nhưng ông không bắt tay làm cùng vợ được. Bởi đó là
do thời thế lúc bấy giờ như vậy. Hơn nữa, nghề của ông là viết văn, làm thơ nên
ông cũng không có thời gian để làm cùng vợ. Chỉ tiếc rằng, cái nghề của ông
không mang lại nhiều tiền bạc, của cải để gánh vác gia đình, để bà Tú bớt vất vả,
để thân cị ấy khơng phải lặn lội hay eo sèo trong những buổi đị đơng.
Bài thơ đã khép lại với hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh.
Bà là một tấm gương sáng cho những người phụ nữ hiện đại soi lại chính mình.
Phân tích hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 8
Trong văn học Việt Nam thời kì trước, hình ảnh người phụ nữ đã trở nên quen
thuộc trong những bài ca dao, những vần thơ bay bổng. Những người nghệ sĩ nhìn
họ với sự đồng cảm, xót thương và yêu mến. Nhưng hiếm khi ca ngợi họ bằng
giọng điệu của một người chồng như nhà thơ Tú Xương đã khắc họa hình ảnh vợ
mình trong Thương Vợ:


Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đầu đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản cơng
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như khơng
Tú Xương là một nhà thơ hào hoa phong nhã, có một chút ngông nhưng khi là một
người chồng, ông luôn hết mực yêu thương và ca ngợi vợ của mình. Mở đầu bài
thơ, ơng khắc họa hình ảnh tảo tần của bà Tú với công việc hàng ngày:

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Một người vợ đảm đang tảo tần, với nghề buôn bán, người vợ ấy "quanh năm" ở
ven sông chăm chỉ với công việc của mình. Hai từ "quanh năm" diễn tả thời gian
dài đằng đẵng, lặp đi lặp lại như một vòng tuần hồn, cứ năm này qua năm khác,
bà bn bán ở bờ sơng, địa thế trắc trở, đó là một mô đất nhô ra sông, nơi những
con thuyền dừng lại và diễn ra các hoạt động trao đổi buôn qua bán lại đông đúc và
tạp nham. Một người phụ nữ có lẽ phải ở nhà dệt vải thuê thùa chăm sóc gia đình
nhưng ngược lại bà Tú hàng ngày phải kiếm kế sinh nhai ni cả gia đình: "Ni
đủ năm con với một chồng". Bà Tú không những vất vả đảm đang mà cịn hết mực
chăm sóc cho chồng con. Đặc biệt "năm đứa con" và "một chồng", nghe có vẻ
khập khiễng nhưng đây là lối so sánh rất độc đáo và sáng tạo của tác giả khi nói về
gánh nặng đang đè nặng lên đôi vai gầy của bà Tú. Vả lại, ơng đặt mình bằng năm
đứa con thơ là cách ơng tự chế giễu chính mình, là đấng nam nhi nhưng lại là
người tạo ra gánh nặng cho gia đình, cho vợ con. Bà Tú cần mẫn là thế, chỉ làm ra
"nuôi đủ" chứ không thừa cũng không thiếu, sự khéo léo trong tính tốn cuộc sống
của người mẹ hiền ấy đã ni sống cả gia đình bảy người. Có lẽ "đủ" với ơng Tú
khơng phải là chăn ấm đệm êm mà cịn ni đủ những thú vui cao sang, những lần
nghe hát ả đào, uống rượu ngâm thơ,.. Chính sự hy sinh ấy khiến ơng Tú vừa hổ
thẹn vừa tự hào và thương xót vợ mình. Thương bà gầy gò vất vả:



×