Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Top 50 bai phan tich hinh anh ong tu trong thuong vo tran te xuong hay nhat (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.69 KB, 17 trang )

Dàn ý phân tích hình ảnh ơng Tú trong bài thơ Thương vợ
a) Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:
+ Trần Tế Xương - một ánh sao lạ vụt sáng trên bầu trời văn chương nước Việt với
những bài thơ mang tư tưởng li tâm Nho giáo.
+ Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu của Trần Tế Xương.
- Khái qt hình ảnh ơng Tú: khơng chỉ thể hiện thành cơng hình tượng trung tâm
là bà Tú mà bài thơ cũng đặc biệt thành cơng hình ảnh ông Tú với những phẩm
chất đáng quý.
b) Thân bài
* Ơng Tú là người có tấm lịng thương vợ sâu sắc
- Ông Tú cảm thương cho sự vất vả, lam lũ của bà Tú
- Ơng thương bà Tú vì phải mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom
sơng”:
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào
+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lịng sơng khơng ổn định.
=> Ơng Tú thương hồn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn
định, bà không những phải nuôi con mà phải nuôi chồng.
- Ông thương vợ phải lặn lội bươn chải khi làm việc:
+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian trn, lo lắng
+ Hình ảnh “thân cị”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn
+ "khi quãng vắng": thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy
hiểm lo âu.
+ “Eo sèo… buổi đị đơng”: cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc


+ Buổi đị đơng: Sự chen lấn, xơ đẩy trong hồn cảnh đơng đúc
-> Tấm lịng thương xót da diết của ông Tú trước thực cảnh mưu sinh của bà Tú
- Ông phát hiện và trân trọng, ngợi ca những đức tính tốt đẹp của vợ
+ Ơng cảm phục bởi tuy vất vả nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con:
“ni”: chăm sóc hồn tồn “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải


ni cả gia đình, khơng thiếu
+ Ơng Tú trân trọng sự chăm chỉ, tần tảo đảm đang của vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận”: chấp nhận, không than vãn
“dám quản công”: đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, sự tần tảo, đảm
đang, nhẫn nại.
=> Trần Tế Xương đã trân trọng đề cao phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính
chịu thương chịu khó, hết lịng vì chồng vì con của bà Tú.
* Ông ý thức được bản thân là gánh nặng của vợ và căm phẫn trước xã hội đẩy
người phụ nữ vào bất công
- Người đàn ông trong xã hội phong kiến đáng lẽ ra phải có sự nghiệp hiển hách để
lo cho vợ con, nhưng ở đây, ông Tú ý thức được bản thân là gánh nặng của vợ.
+ “Nuôi đủ năm con với một chồng” : Tú Xương ý thức được hồn cảnh của mình,
nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải ni con và mình, coi
mình là một đứa con đặc biệt.
+ “Một duyên hai nợ”: Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải
gánh chịu
+ “Có chồng hờ hững cũng như khơng”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình
cũng là một biểu hiện của thói đời
- Từ tấm lịng thương vợ, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc đẩy người phụ
nữ vào bất công


+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ
nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả
=> Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi, ông căm phẫn
xã hội đẩy người phụ nữ vào ngang trái bất công.
c) Kết bài
- Khẳng định lại những nét nghệ thuật tiêu biểu góp phần thể hiện thành cơng hình
ảnh ơng Tú
- Trình bày suy nghĩ bản thân

Phân tích hình ảnh ơng Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 1
Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ – bà Tú. Ở các
bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh
ơng Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhận ra hình dáng ơng trong đó
người đọc sẽ vơ cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân
trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ơng Tú cũng thấp thống hiện
lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.
Bài thơ nổi bật lên là chân dung bà Tú lam lũ, tần tảo “quanh năm buôn bán ở
mom sông” nuôi sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta cịn thấy
một bức tranh khác cũng khơng kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ơng Tú với
lịng u thương, quý trọng và tri ân vợ. Không chỉ vậy, ơng cịn là người có nhân
cách cao đẹp.
Trước hết, Tú Xương là người có tình u thương vợ sâu sắc:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Ơng tuy khơng bn bán cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ơng thì vẫn một lịng
hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất
vả, cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt tự trân quý, yêu thương đó được thể
hiện rõ nhất trong câu thơ: “Ni đủ năm con với một chồng”, đây là lời ông kể
công, tính cơng cho vợ. Xn Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con


cịn dại, phải ni. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – tại vì
phải ni như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”. Đặc biệt
chữ “đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đủ – đủ thành phần trong gia
đình: cả cha và con; đủ – đủ mọi thứ ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá kho rau
muống/ Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ông Tú cũng tự tách riêng
mình với năm đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân
sâu sắc dành cho bà Tú. Có lẽ phải là một người yêu thương, trân trọng vợ hết lịng
ơng mới có thể hạ cái tơi cao q của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với

vợ đến như vậy.
Không chỉ vậy, Tú Xương cịn là con người có nhân cách, điều đó được thể hiện rõ
nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông cái duyên,
nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Duyên đến với nhau thì ít mà nợ với
nhau thì nhiều. Ơng Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này phải đèo
bịng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách nhiệm nặng
nề nhưng người vợ không hề ca thán, kể cơng, như một lẽ thường tình của người
phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con. Câu nói “âu đành
phận” “dám quản cơng” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lịng vợ, đồng thời cũng
là lời kể công thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nề của người chồng
thương vợ và có nhân cách.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như khơng
Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất
đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện
tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những
quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào cơng cuộc
mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó cịn là thói vô cảm
của người đàn ông, không quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc
sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu
thương, trân trọng, lòng biết ơn Tú Xương dành cho vợ.
Bằng ngơn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc Tú Xương đã góp một cảm
xúc mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần, hi


sinh của bà Tú, mà cịn thấy được tình u thương, sự tri ân mà tác giả dành cho
vợ. Qua đó cịn làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Tú Xương.
Phân tích hình ảnh ơng Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 2
Thơ xưa viết về người vợ đã ít mà viết về vợ khi đang cịn sống lại càng hiếm hoi
hơn. Các thi nhân chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, kể cũng là điều

nghiệt ngã, khi người vợ đi vào thiên thư mới được đi vào địa hạt thi ca. Bà Tú có
thể đã chịu nghiệt ngã của cuộc đời nhưng lại có được niềm hạnh phúc mà bao
kiếp người vợ xưa khơng có được. Ngay lúc cịn sống, bà đã đi vào thơ ông với tất
cả niềm yêu thương, trân trọng của chồng. Ơng Tú phải thương vợ lắm thì mới
hiểu và viết được như thế. Trong thơ ông ta bắt gặp hình ảnh bà Tú hiện lên phía
trước, ơng Tú khuất lấp theo sau.
Trong bài thơ, hình ảnh bà tú hiện lên rõ nét qua những nét hoạ của Tú Xương,
nhưng để làm được điều đó hẳn ơng phải là một người chồng yêu thương và hiểu
vợ rất nhiều. Ông luôn dõi theo những bước đi đầy gian truân của bà Tú, thương
nhưng chẳng biết làm gì, chỉ biết thể hiện nó qua thơ ca. Bằng những lời thơ chân
chất, mộc mạc chân thành, tú Xương đã khắc họa rõ nét hình ảnh bà Tú với lịng
u thương da diết. Mỗi chữ trong thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, u
thương và lịng cảm phục sâu sắc:
“Ni đủ năm con với một chồng”
Từ “đủ” trong “nuôi đủ” vừa nói rõ số lượng, vừa nới chất lượng. Bà Tú nuôi cả
con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức: “Cơm hai bữa cá kho rau muống. Quà một
chiều: khoai lang, lúa ngơ”. Tuy chỉ ẩn hiện đằng sau hình ảnh bà Tú, khó thấy,
nhưng khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật sâu đậm, ở đây cũng vậy, ông Tú không
xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện qua từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi
hài, trào phúng là một tấm lịng khơng chỉ thương mà cịn là tri ân vợ. Có người
cho rằng, trong câu thơ trên, ơng Tú tự coi mình là một đứa con đặc biệt để bà Tú
phải ni. Tú Xương đã khơng gộp mình với con để nói mà tách riêng rạch rịi là
để ông tự riêng tri ân vợ. Nhà thơ không chỉ cảm phục biết ơn sự hi sinh rất mực
của vợ mà ơng cịn tự trách mình, tự lên án bản thân. Ơng khơng dựa vào dun số
để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên, nhưng duyên một mà nợ hai. Tú


Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đơi dun, dun ít,
nợ nhiều. Ơng chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến
bà Tú phải khổ, sự hờ hững của ông với vợ con cũng là một biểu hiện của thói đời

bạc bẽo.
Ở cái xã hội đã có luật bất thành văn đối với người phụ nữ: “Xuất giá tịng phu”,
đối với quan hệ vợ chồng thì “phu xướng, phụ tuỳ” thế mà có một nhà thơ dám
sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là qn ăn bám vợ,
khơng những đã biết nhận ra thiếu sót, mà cịn dám tự nhận khuyết điểm. Một con
người như thế chẳng đẹp lắm sao. Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc
trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện đầy đủ vẻ đẹp
nhân bản của tâm hồn Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ biết thương vợ
mà cịn biết ơn vợ, khơng chỉ để lên án thói đời mà cịn là để trách bản thân. Nhà
thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết, càng thương yêu, quý
trọng vợ hơn.
Tình yêu thương, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc
quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình
ảnh và ngơn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương
vừa mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm
thức dân tộc.
Phân tích hình ảnh ơng Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 3
Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam Tú Xương là nhà thơ viết về vợ nhiều
nhất. “Thương vợ” là bài thơ thành công nhất trong mảng đề tài này của ông. Bài
thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh bà Tú một người vợ, người mẹ, người phụ nữ
đảm đang, tháo vát, chịu thương chịu khó và giàu lòng hi sinh dành cho chồng con.
Nhưng ẩn đằng sau đó là hình ảnh ơng Tú mang trong mình nét đẹp nhân cách và
tâm hồn. Một người chồng thương yêu, cảm thông và tri ân sâu sắc với vợ dám cất
lên tiếng chửi đời, chửi mình và nhận khuyết điểm bản thân.
Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú
Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ơng là một nhà trí thức phong


kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ
của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu.

Trong sáu câu thơ đầu hiện lên là chân dung và nét đẹp phẩm chất của bà Tú. Công
việc vất vả, gian truân “Quanh năm” buôn bán ở trên mảnh đất cheo leo, bốn bề
bao quanh là nước đầy rẫy những hiểm nguy chốn “mom sông” để kiếm ăn “Ni
đủ năm con với một chồng” gánh nặng gia đình đặt lên đôi vai người phụ nữ chân
yếu tay mềm mà tấm lòng son sắt, kiên cường, bền bỉ. Chỉ một từ “đủ” đã nói lên
được chất lượng và số lượng, đủ cơm ăn áo mặc cho cả một gia đình năm con, một
chồng khơng phải là điều dễ dàng. Tú Xương phải là một người chồng thương vợ
hết mực mới có thể dõi theo từng bước chân đi của vợ, quan sát được từng nét biểu
cảm trên gương mặt bà Tú khi “lặn lội thân cò”, khi “eo sèo mặt nước buổi đị
đơng” Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò và ý thơ trong ca dao “con cò lặn lội bờ
sông” mà đặc tả sự vất vả của bà Tú. Sự cực khổ ấy được nâng lên thành một thân
phận một kiếp người vì duyên nợ mà “Âu đành phận”, “năm nắng mười mưa dám
quản công”. Câu thơ khiến cho ta nhớ đến câu ca dao:
“Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”
Ngồi cái dun cái nợ cịn có cái tình cái nghĩa vợ chồng. Các số từ tăng tiến:
một, hai, năm, mười càng thể hiện sức dồn nén, chịu đựng của bà Tú càng làm
dâng lên nỗi lịng cảm thơng, thương xót của Tú Xương dành cho vợ.
Tú Xương tuy chỉ xuất hiện gián tiếp ẩn sau hình ảnh bà Tú, nhà thơ không chỉ
cảm phục, cảm thương và tri ân vợ mà cịn mượn lời bà Tú lên án thói đời bạc bẽo
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, chính quan niệm lễ giáo phong kiến khắt khe về “Tam
tòng tứ đức”, “Xuất giá tòng phu” là nguyên nhân sâu xa khiến cho bà Tú cùng với
biết bao người phụ nữ xưa phải khổ cực, chịu nhiều cay đắng. Ông cũng tự trách,
tự chửi bản thân mình “hờ hững cũng như khơng”, tự trách mình là kẻ ăn bám “Hỏi
ra quan ấy ăn lương vợ”. Ơng khơng dựa vào dun số để trút bỏ trách nhiệm mà
ơng coi mình là món nợ đời “một duyên hai nợ” mà bà Tú phải gánh vác, dun thì
ít mà nợ thì nhiều. Ơng tự trào bằng lối viết hóm hỉnh, độc đáo vừa là để ngợi ca
công lao vợ vừa là chê trách, nhận khuyết điểm về bản thân mình. Một con người
dũng cảm dám nhận ra sự thiếu sót, thiếu trách nhiệm của một người chồng đối với



vợ “thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, của người cha đối với con và trách nhiệm
của người đàn ông đối với gia đình. Ơng biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng những
câu thơ tha thiết yêu thương chân thành khiến cho người đời chẳng hề trách móc
mà cảm thơng cho Tú Xương.
Ơng khơng phải là một kẻ bất tài vô lương nhưng sống trong một xã hội chế độ
phong kiến thối nát không biết trọng dụng nhân tài, giá trị của đồng tiền, danh
vọng vùi lấp tài năng con người khiến cho Tú Xương lận đận khoa cử tám lần lều
chõng đi thi trong suốt quãng đời ngắn ngủi 37 năm gói gọn trong ba việc đi học,
đi thi và làm thơ.
Hình ảnh bà Tú trăm cơ nghìn cực cùng với tấm lòng yêu thương dành cho vợ đã
trở thành nguồn cảm hứng trữ tình phong phú và hấp dẫn trong thơ ông. Bằng tài
năng thi ca với sự cách tân mới mẻ trong ngôn ngữ, thi liệu và đề tài. Bài thơ
“Thương vợ” đã thể hiện được ân tình sâu đậm và chân thành của nhà thơ đối với
bậc hiền phụ đồng thời cho thấy tâm hồn nhân cách cao đẹp của Tú Xương luôn
cởi mở, nhân hậu với những người thân yêu của mình với tài năng của một thi sĩ
biết vận dụng sáng tạo lời ăn tiếng nói của dân gian kết hợp với ngơn ngữ bác học
làm nên một bài thơ hay và sâu sắc.
Phân tích hình ảnh ơng Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 4
Tú Xương có nhiều vần thơ, phú nói về vợ. Bà Tú vốn là “con gái nhà dòng, lấy
chồng kẻ chợ”. một người con dâu giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành được bà con xa
gần mến trọng. Nhờ thế mà ông Tú mới được sống cuộc đời phong lưu: “Tiền bạc
phó cho con mụ kiếm – Ngựa xe chẳng lúc nào ngơi”. “Thương vợ” là bài thơ cảm
động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng
thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của ông
Tú đối với người vợ hiền thảo của mình.
Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngồi cuộc đời – hình
ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.
Hai câu thơ trong phần đề giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu
thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay



làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đần trong
mọi việc” câu đối của Nguyễn Khuyến thì bà Tú là một người đàn bà.
“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác,
từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “Buôn bán
ở mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái
thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng, một
cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường
người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc… chứ ai “đếm” con, “đếm”
chồng(!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều
khó khăn: đơng con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.
Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần tảo,
đảm đang của mình.
Phần thực tơ đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm
ăn như “thân cị” nơi “qng vắng”. Ngơn ngữ thơ tăng cấp tô đậm thêm nỗi cực
nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và
gia tăng: đã “lặn lội” lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm
sống ở “mom sơng” tưởng như khơng thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cị”,
“cái cị” trong ca dao cổ: “Con cị lặn lội bờ sơng…”, “con cị đi đón cơn mưa…”,
“Cái cị, cái vạc, cái nơng…” được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân
cị” lầm lũi đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng
như thân phận vất vả, cực khổ… của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ
“Eo sèo” từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng;
gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đị đơng”. Một
cuộc đời “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm
nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi
đủ năm con với một chồng” phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo
sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!

“Duyên” là duyên số, duyên phận, “nợ” là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận,
chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả và khổ cực. Các số từ trong


câu thơ tăng dần lên: “một … hai… năm… mười…” làm nổi rõ đức hy sinh thầm
lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì sự ấm no hạnh phúc của
chồng con và gia đình. “ u đành phận”.. dám quản cơng”… giọng thơ nhiều xót xa
thương cảm.
Tóm lại, sáu câu thơ đầu, bằng tấm lịng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác
họa một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo
của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó,
thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện
trong sử dụng ngơn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo
ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh “thân cị”… đã tạo nên ấn tượng và
sức hấp dẫn của văn chương.
Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sơng”,
lúc “buổi đị đơng” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ơng tự trách mình “ăn lương
vợ” mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vơ tích
sự, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà chua xót thế!
Phân tích hình ảnh ơng Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 5
Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ - bà Tú. Ở các
bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh
ơng Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhận ra hình dáng ơng trong đó
người đọc sẽ vơ cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân
trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ơng Tú cũng thấp thoáng hiện
lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.
Bài thơ nổi bật lên là chân dung bà Tú lam lũ, tảo tần “quanh năm buôn bán ở
mom sơng” ni sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta còn thấy
một bức tranh khác cũng khơng kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ơng Tú với
lịng u thương, q trọng và tri ân vợ. Khơng chỉ vậy, ơng cịn là người có nhân

cách cao đẹp. Trước hết, Tú Xương là người có tình u thương vợ sâu sắc:
Quanh năm bn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.


Ông tuy không buôn bán cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ơng thì vẫn một lịng
hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất
vả, cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt sự trân quý, yêu thương đó được thể
hiện rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ơng kể
cơng, tính công cho vợ. Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con
cịn dại, phải ni. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – tại vì
phải ni như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”.
Đặc biệt chữ “đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đu - đủ thành phần
trong gia đình: cả cha và con; đủ - đủ mọi thứ ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá
kho rau muống/ Quà một chiều: khoai lang, lúa ngơ”. Đồng thời ơng Tú cũng tự
tách riêng mình với năm đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành
lời tri ân sâu sắc dành cho bà Tú. Có lẽ phải là một người yêu thương, trân trọng
vợ hết lịng ơng mới có thể hạ cái tơi cao q của mình để nói lời tri ân, cảm ơn
sâu sắc đối với vợ đến như vậy.
Không chỉ vậy, Tú Xương cịn là con người có nhân cách, điều đó được thể hiện rõ
nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông là cái
duyên, nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Dun đến với nhau thì ít mà
nợ với nhau thì nhiều. Ơng Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này
phải đèo bịng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách
nhiệm nặng nề nhưng người vợ không hề ca thán, kể công, như một lẽ thường tình
của người phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con.
Câu nói “âu đành phận”, “dám quản cơng” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lịng
vợ, đồng thời cũng là lời kể cơng thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nề
của người chồng thương vợ và có nhân cách.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như khơng
Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất
đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện
tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những
quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào công cuộc


mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó cịn là thói vơ cảm
của người đàn ông, không quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc
sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu
thương, trân trọng, lịng biết ơn Tú Xương dành cho vợ.
Bằng ngơn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc Tú Xương đã góp một cảm
xúc mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần, hi
sinh của bà Tú, mà còn thấy được tình yêu thương, sự tri ân mà tác giả dành cho
vợ. Qua đó cịn làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Tú Xương.
Phân tích hình ảnh ơng Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 6
Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ - bà Tú. Ở các
bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh
ơng Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhận ra hình dáng ơng trong đó
người đọc sẽ vơ cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân
trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ơng Tú cũng thấp thoáng hiện
lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.
Bài thơ nổi bật lên là chân dung bà Tú lam lũ, tảo tần “quanh năm buôn bán ở
mon sơng” ni sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta còn thấy
một bức tranh khác cũng khơng kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ơng Tú với
lịng u thương, q trọng và tri ân vợ. Khơng chỉ vậy, ơng cịn là người có nhân
cách cao đẹp.
Trước hết, Tú Xương là người có tình yêu thương vợ sâu sắc:
Quanh năm buôn bán ở mom sơng
Ni đủ năm con với một chồng.

Ơng tuy khơng bn bán cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ơng thì vẫn một lòng
hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất
vả, cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt tự trân quý, yêu thương đó được thể
hiện rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ơng kể
cơng, tính cơng cho vợ. Xn Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con
cịn dại, phải ni. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – tại vì phải


nuôi như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”. Đặc biệt chữ
“đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đủ - đủ thành phần trong gia đình:
cả cha và con; đủ - đủ mọi thú ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá kho rau muống/
Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ơng Tú cũng tự tách riêng mình
với năm đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân sâu sắc
dành cho bà Tú. Có lẽ phải là một người yêu thương, trân trọng vợ hết lịng ơng
mới có thể hạ cái tơi cao q của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với vợ
đến như vậy.
Không chỉ vậy, Tú Xương cịn là con người có nhân cách, điều đó được thể hiện rõ
nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông cái duyên,
nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Dun đến với nhau thì ít mà nợ với
nhau thì nhiều. Ơng Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này phải đèo
bòng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách nhiệm nặng
nề nhưng người vợ khơng hề ca thán, kể cơng, như một lẽ thường tình của người
phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con. Câu nói “âu đành
phận” “dám quản cơng” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lịng vợ, đồng thời cũng
là lời kể công thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nề của người chồng thương
vợ và có nhân cách.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như khơng
Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất
đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện

tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những
quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào cơng cuộc
mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó cịn là thói vơ cảm
của người đàn ơng, khơng quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc
sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu
thương, trân trọng, lòng biết ơn Tú Xương dành cho vợ.
Bằng ngơn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc Tú Xương đã góp một cảm
xúc mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần,
hinh sinh của bà Tú, mà cịn thấy được tình u thương, sự tri ân mà tác giả dành
cho vợ. Qua đó cịn làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Tú Xương.


Phân tích hình ảnh ơng Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 7
Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam Tú Xương là nhà thơ viết về vợ nhiều
nhất. “Thương vợ” là bài thơ thành công nhất trong mảng đề tài này của ông. Bài
thơ đã khắc họa chân thực hình ảnh bà Tú một người vợ, người mẹ, người phụ nữ
đảm đang, tháo vát, chịu thương chịu khó và giàu lịng hi sinh dành cho chồng con.
Nhưng ẩn đằng sau đó là hình ảnh ơng Tú mang trong mình nét đẹp nhân cách và
tâm hồn. Một người chồng thương yêu, cảm thông và tri ân sâu sắc với vợ dám cất
lên tiếng chửi đời, chửi mình và nhận khuyết điểm bản thân.
Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú
Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ nhưng trước hết ơng là một nhà trí thức phong
kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ
của mình. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu.
Trong sáu câu thơ đầu hiện lên là chân dung và nét đẹp phẩm chất của bà Tú. Công
việc vất vả, gian truân “Quanh năm” buôn bán ở trên mảnh đất cheo leo, bốn bề bao
quanh là nước đầy rẫy những hiểm nguy chốn “mom sông” để kiếm ăn “Nuôi đủ
năm con với một chồng” gánh nặng gia đình đặt lên đôi vai người phụ nữ chân yếu
tay mềm mà tấm lòng son sắt, kiên cường, bền bỉ. Chỉ một từ “đủ” đã nói lên được
chất lượng và số lượng, đủ cơm ăn áo mặc cho cả một gia đình năm con, một chồng

không phải là điều dễ dàng. Tú Xương phải là một người chồng thương vợ hết mực
mới có thể dõi theo từng bước chân đi của vợ, quan sát được từng nét biểu cảm trên
gương mặt bà Tú khi “lặn lội thân cò”, khi “eo sèo mặt nước buổi đị đơng” Tú
Xương đã mượn hình ảnh con cò và ý thơ trong ca dao “con cò lặn lội bờ sông” mà
đặc tả sự vất vả của bà Tú. Sự cực khổ ấy được nâng lên thành một thân phận một
kiếp người vì duyên nợ mà “Âu đành phận”, “năm nắng mười mưa dám quản công”.
Câu thơ khiến cho ta nhớ đến câu ca dao:
“Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”
Ngồi cái dun cái nợ cịn có cái tình cái nghĩa vợ chồng. Các số từ tăng tiến: một,
hai, năm, mười càng thể hiện sức dồn nén, chịu đựng của bà Tú càng làm dâng lên
nỗi lịng cảm thơng, thương xót của Tú Xương dành cho vợ.


Tú Xương tuy chỉ xuất hiện gián tiếp ẩn sau hình ảnh bà Tú, nhà thơ khơng chỉ
cảm phục, cảm thương và tri ân vợ mà còn mượn lời bà Tú lên án thói đời bạc bẽo
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, chính quan niệm lễ giáo phong kiến khắt khe về “Tam
tòng tứ đức”, “Xuất giá tòng phu” là nguyên nhân sâu xa khiến cho bà Tú cùng với
biết bao người phụ nữ xưa phải khổ cực, chịu nhiều cay đắng. Ông cũng tự trách,
tự chửi bản thân mình “hờ hững cũng như khơng”, tự trách mình là kẻ ăn bám “Hỏi
ra quan ấy ăn lương vợ”. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm mà
ơng coi mình là món nợ đời “một dun hai nợ” mà bà Tú phải gánh vác, dun thì
ít mà nợ thì nhiều. Ơng tự trào bằng lối viết hóm hỉnh, độc đáo vừa là để ngợi ca
công lao vợ vừa là chê trách, nhận khuyết điểm về bản thân mình. Một con người
dũng cảm dám nhận ra sự thiếu sót, thiếu trách nhiệm của một người chồng đối với
vợ “thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, của người cha đối với con và trách nhiệm
của người đàn ông đối với gia đình. Ơng biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng những
câu thơ tha thiết yêu thương chân thành khiến cho người đời chẳng hề trách móc
mà cảm thơng cho Tú Xương.
Ơng khơng phải là một kẻ bất tài vô lương nhưng sống trong một xã hội chế độ

phong kiến thối nát không biết trọng dụng nhân tài, giá trị của đồng tiền, danh vọng
vùi lấp tài năng con người khiến cho Tú Xương lận đận khoa cử tám lần lều chõng
đi thi trong suốt quãng đời ngắn ngủi 37 năm gói gọn trong ba việc đi học, đi thi và
làm thơ.
Hình ảnh bà Tú trăm cơ nghìn cực cùng với tấm lòng yêu thương dành cho vợ đã
trở thành nguồn cảm hứng trữ tình phong phú và hấp dẫn trong thơ ông. Bằng tài
năng thi ca với sự cách tân mới mẻ trong ngôn ngữ, thi liệu và đề tài. Bài thơ
“Thương vợ” đã thể hiện được ân tình sâu đậm và chân thành của nhà thơ đối với
bậc hiền phụ đồng thời cho thấy tâm hồn nhân cách cao đẹp của Tú Xương luôn cởi
mở, nhân hậu với những người thân yêu của mình với tài năng của một thi sĩ biết
vận dụng sáng tạo lời ăn tiếng nói của dân gian kết hợp với ngơn ngữ bác học làm
nên một bài thơ hay và sâu sắc.
Phân tích hình ảnh ơng Tú trong bài thơ Thương vợ - Mẫu 8


Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ - bà Tú. Ở các
bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh
ơng Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhận ra hình dáng ơng trong đó
người đọc sẽ vơ cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân
trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ơng Tú cũng thấp thống hiện
lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.
Bài thơ nổi bật lên là chân dung bà Tú lam lũ, tảo tần “quanh năm buôn bán ở
mon sông” nuôi sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta cịn thấy
một bức tranh khác cũng khơng kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ơng Tú với lịng
u thương, quý trọng và tri ân vợ. Không chỉ vậy, ông cịn là người có nhân cách
cao đẹp.
Trước hết, Tú Xương là người có tình u thương vợ sâu sắc:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Ơng tuy khơng bn bán cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ơng thì vẫn một lịng

hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất vả,
cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt tự trân quý, yêu thương đó được thể hiện
rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ơng kể cơng,
tính công cho vợ. Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con cịn dại,
phải ni. Đếm con, năm con chứ ai lại đếm chồng, một chồng – tại vì phải ni
như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”. Đặc biệt chữ “đủ”
gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đủ - đủ thành phần trong gia đình: cả cha
và con; đủ - đủ mọi thú ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá kho rau muống/ Quà
một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ông Tú cũng tự tách riêng mình với năm
đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân sâu sắc dành cho
bà Tú. Có lẽ phải là một người yêu thương, trân trọng vợ hết lịng ơng mới có thể hạ
cái tơi cao q của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với vợ đến như vậy.
Khơng chỉ vậy, Tú Xương cịn là con người có nhân cách, điều đó được thể hiện
rõ nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông cái duyên,
nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Dun đến với nhau thì ít mà nợ với
nhau thì nhiều. Ơng Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này phải đèo
bịng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách nhiệm nặng nề
nhưng người vợ không hề ca thán, kể công, như một lẽ thường tình của người phụ
nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con. Câu nói “âu đành
phận” “dám quản cơng” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lịng vợ, đồng thời cũng
là lời kể cơng thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nề của người chồng thương
vợ và có nhân cách.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như khơng


Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất
đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện
tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những
quy tắc nghiêm ngặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào công cuộc

mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó cịn là thói vơ cảm
của người đàn ông, không quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc
sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu
thương, trân trọng, lịng biết ơn Tú Xương dành cho vợ.
Bằng ngơn ngữ giản dị, tình cảm chân thành sâu sắc Tú Xương đã góp một cảm
xúc mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần, hinh
sinh của bà Tú, mà cịn thấy được tình yêu thương, sự tri ân mà tác giả dành cho vợ.
Qua đó cịn làm sáng lên nhân cách cao đẹp của Tú Xương.



×