Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Top 50 bai phan tich hinh tuong nguoi lai do song da trong nguoi lai do song da

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.86 KB, 44 trang )

Phân tích hình tượng người lái đị sơng Đà trong Người lái đị
sơng Đà
Dàn ý Phân tích hình tượng người lái đị sơng Đà trong Người lái
đị sơng Đà
1. Mở bài
- Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, ln kiếm tìm cái đẹp. Trước
cách mạng ơng tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành cơng ơng
tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Người lái đị sơng Đà là tùy bút
tiêu biểu cho những sáng tác sau cách mạng của ơng.
- Ơng lái đị chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm
kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình
ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao
– Chữ người tử tù)
2. Thân bài
- Công việc: lái đị trên sơng Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.
- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca
những con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào.
Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, ... chất mun”, đó là ngoại hình khỏe
khoắn của con người lao động ln gắn bó với nghề
- Là người có lịng dũng cảm, tình u nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương,
hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”
- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm
của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ơng lái đị.
- Cơng việc: lái đị trên sơng Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung
bạo.
- Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đị: “trên sơng Đà
ơng xi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, “sông Đà


đối với ơng lái đị ấy như một thiên anh hùng mà ơng đã thuộc ... xuống dịng”,
...


- Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
+ Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn
chèo ...” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,
+ Ơng lái đị “khơng chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá ln vịng vây thứ hai và
đổi chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sơng thần đá, ơng đã thuộc
quy luận phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng
ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”
+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sơng nhiều ghềnh thác, khơng
thích lái đị trên khúc sơng bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là
chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn
về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, ...
- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên
bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, ln khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm
mĩ, ln miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
3. Kết bài
- Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ơng lái đị: là đại diện cho con người
lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa
có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã
qua thử lửa.
- Người lái đị sơng Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹo vừa hung
bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật lên là
vẻ đẹp của những người lao động bình dị.


Phân tích hình tượng người lái đị sơng Đà trong Người lái đị
sơng Đà - mẫu 1
Nguyễn Tn được mệnh danh là nhà văn của cái tuyệt mĩ. Cả cuộc đời
ơng là hành trình tìm kiếm vẻ đẹp tồn bích của cuộc đời và thiên nhiên. Đó
chính là sợi dây chỉ đỏ xuyên suốt chi phối toàn bộ sáng tác của ông. Mặc dù
vậy trước và sau cách mạng ta cũng có thể thấy sự chuyển biến lớn trong

quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Sau cách mạng nhân
vật đánh dấu sự đổi mình ấy chính là người lái đò Lai Châu trong tùy bút Người
lái đò sơng Đà.
Người lái đị khơng được nêu rõ tên mà chỉ được Nguyễn Tuân gọi bằng
cái tên chung ông lái đị Lai Châu, tuổi đã ngồi 70 cả cuộc đời gắn liền với
con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình. Ngoại hình của người lái đị chỉ được
Nguyễn Tn phác họa bằng những nét hết sức ngắn gọn “Tay ông lêu nghêu
như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái
cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sơng,
nhỡn giới ơng vịi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong
sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng
chất mun”.. Chỉ với những lời giới thiệu hết sức ngắn gọn, nhưng ta cũng có
thể thấy được chân dung của một con người cả đời gắn bó với thiên nhiên,
con người nơi đây.
Sau những nét vẽ phác họa, Nguyễn Tuân đi sâu vào sự từng trải, tay
nghề điều luyện tài ba của ông trong một lần vượt thác sông Đà. Sông Đà là
con sông đầy hiểm ác, với những cái bẫy chết người dụ những người lái đị
sập bẫy. Nhưng dù sơng Đà có thâm hiểm, xảo quyệt bao nhiêu thì bằng sự
nhanh nhẹn, dũng cảm của mình, ơng lái đị vẫn bình tĩnh đưa mình và những
người khác vượt qua sông Đà thành công. Cả cuộc đời gắn bó với sơng Đà,
nên số lần ơng vượt qua con sơng này đã nhiều vơ số kể. Ơng đi trên sông
Đà, lái lướt chẳng khác nào người ta đi bộ trên đất. Với ngòi bút miêu tả sinh
động, Nguyễn Tn đã tái hiện hồn chỉnh một lần ơng lái đị vượt thác. Sơng
Đà bày binh bố trận với những cửa tử, cửa sinh khác nhau, mà cửa tử nhiều
hơn cửa sinh. Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò đều biến đổi linh hoạt
phương thức tác chiến, khi đè sấn lên thác mà đi, khi lại chặt đơi sóng mà
tiến,… Dưới sự điều khiển của ơng lái đị, con thuyền vun vút lao đi, lấn lên
phía trước. Nhưng không phải lúc nào ông cũng dành thế chủ động, đôi khi



những địn đánh tỉa thâm hiểm cũng làm ơng lái đị bệch mặt. Nhưng điều đó
vẫn khơng làm ơng nao núng tinh thần, bình tĩnh, chủ động linh hoạt , ông biến
hóa đường đi, tay lái để tiếp chiêu của chúng, vượt qua cửa tử làm cho thạch
trận tiu ngỉu ở phía sau.
Người lái đị khơng chỉ thơng thạo, tài năng lái đò xuất chúng mà con
hết sức hiên ngang, bình thản đối đầu với sơng Đà. Ơng coi đó như một niềm
vui sống trong cuộc đời mình. Ơng tâm sự, ơng khơng thích chèo đị ở những
nơi bằng phẳng, những nơi đó khiến chân tay ơng dại đi, cơ thể ủ rũ và buồn
ngủ. Đối với ông gềnh thác vừa là bạn, vừa là thử thách ông luôn khao khát
muốn vượt qua. Cũng chỉnh bởi vậy nên khi phải đối mặt với con sông vô cùng
hung bạo, một sống một chết những ông không hề lo lắng, sợ hãi, mà ln
bình tĩnh, chủ động, tinh thần sảng khối tỉnh táo để chỉ huy con tàu vượt qua
khỏi dòng thác dữ.
Vẻ đẹp nổi bật nhất ở ơng lái đó chính là mang phong thái của người
nghệ sĩ tài hoa. Đối với ơng lái đị tài hoa khơng giống như Huấn Cao với
những nét chữ đẹp mà bất cứ ai cũng muốn được để trong nhà mà tài hoa ở
đây chính là trong nghệ thuật lái đị của ơng – “tay lái ra hoa”. Sông Đà là con
thủy quái vô cùng ghê gớm, ở bất cứ trùng vi thạch trận nào cũng phơ trương
sức mạnh nhằm đoạt lấy tính mạng của người lái đị. Trong trùng vi thứ nhất,
chúng phơ diễn sức mạnh đá, sóng, nước, nhằm dồn ơng vào thế yếu. Tiếp
đến trùng vi thạch trận thứ hai chúng biến hóa khơn lường, cửa tử nhiều mà
chỉ có duy nhất cửa sinh một lần nữa muốn đoạt mạng người lái đò. Trùng vi
thạch trận cuối cùng chúng lại càng tỏ ra hung hãn hơn, sóng, đá, nước lăm
le tiến cơng, nước cuồn cuộn, kêu ùng ục chỉ chờ ông lái đò lơ đễnh là dồn
đến. Nhưng bằng kinh nghiệm dạn dày, bằng kĩ thuận lái điêu luyện như một
người nghệ sĩ ơng lái đị đã bình tĩnh , mọi giác quan được phối hợp linh hoạt,
nhịp nhàng đã giúp ông vượt qua mọi chướng ngại, mọi cửa tử để về bến an
tồn.
Cuối tác phẩm hình ảnh ơng lái đị hiện lên ở vẻ đẹp của bề sâu nhân
cách, thể hiện một tấm lòng thiết tha sâu nặng với quê hương. Nhưng năm

tháng chiến tranh ác liệt, ông sống ở rừng nhưng cũng không một ngày xa
cách con sông đà. Cho đến những ngày hịa bình lập lại, tình u ấy vẫn khơng
hề thay đổi. Ơng tự hào kể với mọi người về việc trở một đoàn chuyên gia Nga


đi khảo sát tình hình. Ơng tự hào vì đã góp một phần sức lực nhỏ bé cho quê
hương, đất nước.
Từ Huấn Cao cho đến người lái đị sơng Đà ta không chỉ thấy những
đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà hơn nữa còn thấy được
sử chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người của ơng. Nguyễn Tn
khơng cịn đi tìm vẻ đẹp của những con người của một thời vang bóng, mà
phát hiện vẻ đẹp đó ngay tại đây, ngày trong cuộc sống bình dị này. Đây chính
là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của
ông. Họ - những con người lao động bình dị, thậm chí vơ danh chính là những
người đã góp phần vào cơng cuộc xây dựng đất nước.

Phân tích hình tượng người lái đị sơng Đà trong Người lái đị
sơng Đà - mẫu 2
Với "Sông Đà" Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông núi Tây Bắc. Và "Người
lái đị Sơng Đà", một trong 15 bài tùy bút của kiệt tác "Sông Đà" ngào ngạt
hương sắc như một cành hoa lan giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai hình tượng
đầy chất thơ đồng hiện trong bài tùy bút là hình tượng con sơng Đà và hình
ảnh người lái đị, đúng là "mười phân vẹn mười".
Từ "Vang bóng một thời" đến "Sơng Đà", một hành trình 20 năm có lẻ,
cụ Nguyễn đã "xê dịch" để đi tìm thứ "vàng mười" cịn tiềm ẩn trong lịng người
đó đây. Và một trong hàng triệu độc giả, ta càng cảm thấy sâu sắc hơn bao
giờ hết "một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là con
người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ". Ấn tượng ấy càng rõ nét khi ta tiếp cận
tùy bút "Người lái đị Sơng Đà".
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô

cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thống giữa vườn lan
"nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm
cỏ quý" (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái
"một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian". Trong ấm trà pha ngon, cụ đã
"nhận thấy có mùi và một vị triết lí" (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân
vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như
rồng bay phượng múa, thể hiện "những cái hoài bão tung hoành của một đời
con người"( Chữ người tử tù)... Và hình ảnh ơng lái đò người Thái (Tây Bấc)


có "tay lái ra hoa". Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ
sĩ.
Dưới ngịi bút của Nguyễn Tn, ơng lái đị sơng Đà hiện lên trong tầm
vóc một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang
cốt cách tài hoa nghệ sĩ. Cũng như trăm nghìn người lái đị khác, ơng lái đị
sơng Đà này có "tay lái ra hoa"đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao
phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đị và chỉ huy
một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da
trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái
ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sơng, thần đá. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc
bạc trắng, thân hình ơng lái đị vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm
thạch. Nước da ánh lẽn chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng. Cặp
mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ơng nổi lên một số
thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là
"thứ Huân chương lao động siêu hạng".
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ồng lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị
thuyền trưởng dày dạn thủy chiến. Chất tài hoa nghộ sĩ của ơng lái đị là ở bản
lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ơng lái
đị đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ớ trùng vây thứ nhất, ơng lái đị xung
trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì

thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá "bệ vệ oai phong
lẫm liệt" được nước thác "reo hị làm thanh viện" liều mạng xơng vào "đá trái
mà thúc gối vào bụng và hơng thuyền". Ơng đã bình tĩnh "hai tay giữ mái chèo
khỏi bị hất lên khỏi sóng". Lúc bị sóng thác đánh miếng địn hiểm độc "bóp
chặt lấy hạ bộ" đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng "hai chân vẫn kẹp chặt lấy
cuống lái", tiếng chỉ huy của ông vẫn "gọn ngắn tỉnh táo" đưa con thuyền thoát
hiểm. Thật là cao cường biết bao!
Trùng vây thứ hai vơ cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: "Dóng thác hùm
beo đang hồng hộc tế mạnh trên sơng đá". Ơng lái đị tấn cơng ngay "nắm
chặt được bờm sóng" cho con thuyền "phóng nhanh vào cửa sinh". Bọn tướng
đá, đứa thì "ơng tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị "ông đè sấn lên mà chặt
đôi ra để mở đường tiến". Thằng đá tướng thất bại thảm hại "tiu nghỉu cái mặt
xanh lè thất vọng".


Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết". Thần sơng cịn
bố trí "bọn đá hậu vệ" của con thác hịng "bắt chết" cái thuyền. Ơng lái đị mưu
trí "phóng thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút qua cổng đá cánh
mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh qua
hơi nước. Thế là hết thác. Sơng nước lại thanh bình.
Qua đó, ta thấy ơng lái đị oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí
dũng song tồn, quyết đốn và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của
ơng lái đị được Nguyễn Tn khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh,
nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn
tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Vói niềm hào hứng bốc
cao, cụ Nguyễn đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của ơng lái đị với thần sơng,
thần đá nơi thác ghềnh Đà Giang cả cái kho ngơn từ giàu có của mình, và vận
dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là
hội hoạ, điện ảnh, âm nhạc, và cả khoa học quân sự, kiến thức võ thuật v.v...
Câu văn co duỗi, dài ngắn, biến hóa... hấp dẫn lạ thường.

Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò còn được thể hiện trong những lúc
ngừng chèo nghỉ ngơi. Sau một ngày giao tranh dữ dội với thần sơng, thần đá,
ơng lái đị cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chco, họ chẳng
bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi "cửa ải nước tướng dữ
quân tợn" vừa rồi. Rất ung dung và thanh thản, ơng lái đị vừa nướng ống cơm
lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, về cá dầm xanh, về những hang cá mùa
khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Những
câu chuyện rất đời thường nhưng phản ánh một đời sống tâm hồn gắn liền với
sông nước rất dung dị mà tài hoa, cần lao mà nghệ sĩ.
Tùy bút "Người lái đị Sơng Đà" đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyên
Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và con người, đã
nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở phương diện
tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do theo dịng cảm xúc lai láng. Ơng lái đò trong
bài tùy bút là một sáng tạo nghệ thuật sáng bừng lên vẻ đẹp nhân vãn. Trên
cái mênh mang của "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh", và giữa lớp lớp trùng
vây thạch trận "nước xô đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuộn luồng gió gùn ghè",
ta thấy ơng lái đị người Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng
mãnh băng băng lướt qua. Ông lái đò là một bài ca về lao động và sự sống.


Hình ảnh ơng đẹp q; một vẻ đẹp Tây Bắc như đang "đề thơ vào sơng nước"
Đà Giang.

Phân tích hình tượng người lái đị sơng Đà trong Người lái đị
sơng Đà - mẫu 3
Người lái đị sơng Đà ra đời trong những năm tồn dân ta bước vào
cơng cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động, khẩn trường, khi đó cảm
hứng ngợi ca, tơn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác
phẩm văn học. Khơng nằm ngồi xu thế chung đó, Người lái đị sơng Đà với
hình tượng người lái đị là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân ca

ngợi người lao động bình dị, vơ danh nhưng hàng ngày, hàng giờ đang cống
hiến, dựng xây đất nước.
Hình tượng người lái đị sông Đà được đặt trong quan hệ với sông Đà,
để qua đó tơ đậm, làm nổi bật hình tượng người lái đị. Bởi vậy sơng Đà hung
dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, chiến thắng sức mạnh của nó
người lái đị càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.
Người lái đị q ở Lai Châu, đã từng xi ngược dịng sơng Đà hơn
một trăm lần trong đó có tới sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn
tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đầy áp lực và thử thách.
Mỗi lần vượt sông Đà là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông
Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nghề nghiệp của ơng
lái đị.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân
dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ơng lúc nào cũng
khuỳnh khuỳnh gị lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông
ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc
nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc
thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của
ơng lái đị chỉ có một điểm duy nhất chứng tỏ tuổi ơng đã cao đó là mái tóc
bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng “mình đang đứng
trước một chàng trai đang ngồi ngồi bến chính bờ sơng”. Diện mạo, ngoại
hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, bởi nó trái ngược hồn
tồn với cái tuổi bảy mươi của ơng, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng


thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ơng lái đị
in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với sông nước nên cần phải
có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định đến sự thành cơng của ông
lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ

bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách chính xác luồng lạch trên sông. Để
ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo,
giàu chất thơ “Sơng Đà đối với ơng lái đị ấy, như một trường thiên anh hùng
ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, chấm câu và những đoạn xuống
dịng”. Khơng chỉ dày dặn kinh nghiệm, ơng lái đị cịn nâng nghề nghiệp của
mình – cơng cụ mưa sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối
mặt với thác dữ, tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm
thấy đó là sự thú vị trong nghề nghiệp của mình. Với ơng lái đị thì sơng Đà chỉ
thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, nếu phải chèo đò ở những đoạn
bằng phẳng thì ơng thấy chân mình như dại đi và buồn ngủ như người mèo đi
bộ ở đồng bằng.
Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất là trong cuộc thủy chiến với sông Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một khơng hai trong
lịch sử văn học, giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm,
tâm địa xảo trá và một bên là ơng lái đị tuy dẻo dai, cường tráng nhưng đơn
độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng,
ơng lái đị đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, sơng Đà đã phơ ra sức mạnh thể chất
của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa
tung địn đánh tỉa, để dồn ơng lái đị vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là
cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm song cái nhìn và cách miêu tả của Nguyễn
Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, ông ghi lại thời điểm mà
tưởng như ơng lái đị ngã gục trước những địn đánh chí mạng của sông Đà.
Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai, cường tráng vẫn cố
gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, dứt
khốt. Và bằng lịng dũng ảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ơng lái đị đã
vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với
sự thay đổi bất ngờ, biến hóa khơn lường trong việc bố trí các cửa sinh, cửa
tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã nhanh



chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn qn sóng nước, cách đánh
của ơng cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận
khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song
vẫn làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đị của ơng lão. Bằng sức khỏe và
sự dẻo dai, sức chịu đựng, đặc biệt là lịng dũng cảm, chủ động, quyết đoạn,
ơng đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến
không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với một bên là ông lão đơn
độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về con
người.
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở
bề nổi của sơng Đà thì sau cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, chiến
thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn, nhân cách.
Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều khơng
phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến cơng phi thường.
Song với ông lão và tất cả những người lao động nơi đây là là một điều hết
sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những
điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây
càng trở nên trân trọng, đáng q.
Hình tượng ơng lái đị in đậm dấu ấn phong cách Nguyễn Tn. Bởi ơng
chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức
nghệ thuật. Song ở hình tượng ơng lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong tư
tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, nghệ sĩ được miêu tả không
phải là những con người phi thường mà là những con người bình dị, thậm chí
vơ danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh nững người lao
động thầm lặng trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Phân tích hình tượng người lái đị sơng Đà trong Người lái đị
sơng Đà - mẫu 4
Nguyễn Tn là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại.

Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người,
với tư tưởng, tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được
người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo
của ông. Người lái đị Sơng Đà, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng
văn xuôi đã thể hiện được những nét tiêu biểu về phong cách đó.


Người lái đị Sơng Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người
và một con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi
cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều
trở thành những nghệ sĩ điêu luyện. Bằng sự tiếp cận quan sát và khả năng
mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng giàu có, chuẩn xác, Nguyễn Tuân
đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu
sức hấp dẫn trong thiên tùy bút độc đáo này.
Người lái đị trên sơng Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già bảy
mươi tuổi, đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đị dọc trên sơng Đà.
Đó là một người lái đị lão luyện: “Trên dịng sông Đà, ông xuôi, ông ngược
hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần..." trong thời gian hơn
chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người
từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ
“bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lịng tất cả những luồng
nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự
khâm phục đối với con người này. "Sơng Đà, đối với ơng lái đị ấy, như một
trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than,
chấm câu và cả những đoạn xuống dòng". Thật là một cách so sánh “rất văn
chương" đầy thú vị và cũng "rất Nguyễn Tuân".
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một
thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn" và những cánh tay
vẫn là cánh tay của một "chàng trai', "trẻ trắng quá", Nguyễn Tuân đã gọi đó
là một thứ “Vàng mười”, ơng đã đứng trước những thách thức của con sông

Đà với những thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh
hồng: “Ngoặt khúc sơng lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời
đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lịng sơng, hình như mỗi lần
có chiếc nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc
thuyền nào nhơ vào đường ngoặt sóng là một số hịn bèn nhổm cả dậy để vồ
lấy thuyền". Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: hai
tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt
nước hị la vang dậy quanh minh, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, vũ khí trên
cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hơng thuyền. Có lúc chúng
đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đị, địi
lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Có lúc tưởng như


ơng lái đị bị nhấn chìm dưới dịng sơng... Cách miêu tả chân thực và táo bạo
này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ, con người chỉ cần
lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ
của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả so
sánh người lái đị sơng Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy
hiểm nhưng người lái xe cịn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại, "cịn
như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi
chứ khơng lùi lại, khơng lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang, chứ
khơng có mùi gì cả..”, vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình
ảnh táo bạo, khơi gợi lạ lùng, tác giả đã tả sông Đả thiên biến vạn hóa, mỗi
chỗ như có một bầy nguy hiểm riêng, địi hỏi người lái đị phải có một cách
ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sơng "reo lên như đun sơi lên một trăm độ
muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm nước
đang sơi khổng lồ". “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay". Lại có những
“hút nước" xốy sâu như lịng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi".

Thật là một dịng sơng Đà đầy hiểm trở, đầy nguy nan cho con người.
Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cải cuống
lái..." Mặc dù mặt “méo bệch đi" vì những địn hiểm, nhưng trên cái thuyền sáu
bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn
Tuân nhằm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người,
ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ơng lái đị, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to
gió cả đưa con đị về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm
lần, suốt mười lăm năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa
con người và thiên nhiên thật ghê gớm, căng thẳng, đầy sáng tạo và con người
đã chiến thắng, trở về cuộc sống thanh bình: "Thế là hết thác. Dịng sơng vặn
mình vào một cái bến cát có hàng lạnh (...). Sơng nước lại thanh bình. Đêm
ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...".
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả
thực, tạo cho đoạn văn một sức lơi cuốn khơng thể cưỡng nổi. Đó là một bài
ca về lao động, về con người lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau


khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn "bầm tụ” một
“củ khoai nâu", với Nguyễn Tn, “đó cũng là cái hình ảnh q giá của một thứ
huân chương lao động siêu hạng".
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một cơng
trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngồi việc cung cấp cho chúng ta những kiến
thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngơn ngữ..., tác
phẩm cịn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp
một cách sâu sắc, cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động Người
lái đị Sơng Đà. Nguyễn Tn đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong
việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh
quang.


Phân tích hình tượng người lái đị sơng Đà trong Người lái đị
sơng Đà - mẫu 5
Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho
rằng: “Nguyễn Tn là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Nguyễn Tn ln
tìm mọi cách để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng
có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút “Người lái đị Sơng Đà” là kết quả của
hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người
Tây Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn
không thể mờ phai về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình và
nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp của một chiến binh sông nước với “tay lái ra hoa”
đã vượt bao trùng vi thạch trận như một người nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác
leo ghềnh. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng mang cảm giác thật mãnh
liệt qua cảnh vượt thác “có một khơng hai”.
“Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch
trận với bao tướng dữ quân tợn. “Xưa nay chưa từng có” cảnh tượng hiếm
gặp, trước sau chưa có. Thực chất của ý kiến là bàn đến tài nghệ vượt thác
của ông lái đò và tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân.
Bằng ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mỹ về cái đẹp - Nguyễn Tuân
đã xây dựng thành cơng hình tượng người lái đị sơng Đà - một hình tượng
nghệ thuật độc đáo hấp dẫn. Ơng khách sơng Đà tuổi ngồi bảy mươi tuổi
nhưng thân hình rắn chắc như một bức tượng cẩm thạch: ngực ông đầy những


củ nâu - thương tích trên chiến trường Sơng Đà mà Nguyễn Tuân gọi đó là
“huân chương lao động siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông
khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước
ghềnh. Miêu tả người lái đò như vậy - Nguyễn Tuân đã phần nào khắc họa
được vẻ đẹp của con người lao động gắn bó với chiến trường sơng nước.
Hình tượng người lao động khơng chỉ khắc họa qua ngoại hình mà cịn
được khắc họa qua tính cách và trí thơng minh. Ơng xem sơng Đà như một

thiên anh hùng ca và thuộc lịng sơng Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được
binh pháp của thần sơng thần đá. Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh
hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn thuộc về con người trí dũng và tài hoa. Trí
và dũng của ơng khách Sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa một cách đậm
nét với ba trùng vi thạch trận. Trận thủy chiến này là một cảnh tượng “xưa nay
chưa từng có”.
Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi
thạch trận đầu tiên. Ở trùng vi thạch trận này - thác đá sông Đà đã chuẩn bị
dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối
hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một
hịn ấy trơng như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi
giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ:
“reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức…”, người đọc cảm
nhận được khơng khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó
chính là biệt tài phù thuỷ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận
giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã
dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Cịn giờ đây
chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như
một lồi thủy qi, sơng Đà đã đánh phủ đầu người lái đị với những địn thế
vơ cùng hiểm hóc. Sơng Đà cậy thế qn đơng tướng mạnh nên đã “ùa vào
mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng
và hơng thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được
Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc
không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: “ùa vào, bẻ gãy, đá
trái, thúc gối, độ…”


Bị tấn cơng bất ngờ nhưng người lái đị vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật
phịng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ơng đị hai tay giữ mái

chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sơng Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền
và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ơng lái đị địi lật ngửa mình ra”. Khơng
để cho ơng đị có cơ hội xoay xở, sơng Đà lại chuyển thể đánh miếng địn
hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vơ sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người
lái đị”. Dính miếng địn hiểm, mắt ơng hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom
đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Địn đau khiến ơng đị “mặt méo
bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm
miếng địn đau làm ơng khách sơng Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp
động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn
đau dồn dập, hành hạ người lái đị. Nhưng ơng đị nén đau, giọng ơng vẫn
bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa
sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một
chiều từ sơng Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận
của ông khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng
mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ơng lái đị chuyển thế chủ
động tấn cơng. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập
đồn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi một thì
trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng khơng vì thế mà ơng đị nao núng. Với kinh
nghiệm mười năm chiến trường sơng nước, người lái đị đã “nắm chắc binh
pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ơng
đị cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sơng Đà là cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ”, vì thế “khơng một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá ln vịng vây thứ
hai và đổi ln chiến thuật”. Ở trận này ơng đị đánh phủ đầu với kế hoạch
đánh nhanh thắng nhanh.
Như một vận động viên đua ngựa, ơng đị “nắm chắc được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ơng đị ghì cương lái”, ơng “phóng nhanh”, “lái miết”…
tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng
xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đồn cửa tử. Ơng đị đã cảnh giác sẵn nên
“đứa thì ơng tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đơi ra để mở

đường tiến”. Hàng loạt động từ được huy động như một đội qn ngơn ngữ
hùng hậu hị reo theo từng nhịp tiến của ơng đị: “nắm, ghì, phóng, lái, tránh,


rảo, đè, chặt…”. Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ơng đị vượt qua hết các
cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón địn ơng lái đị
đã đánh sập vịng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với
bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sơng Đà
quả thật là trí dũng song tồn.
Ở trùng vi thứ ba, sơng Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái
đò. Trùng vi này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng
sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà
đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến
thối lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khơn” - ơng lái đị đã biến chiếc
thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên cịn ơng giống như một cung thủ đã
“phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở,
cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng: “Thuyền như một
mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn
được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động
để miêu tả cách đánh của ơng đị: “phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên
nhanh, lái được, lượn được…” cho thấy sự thần tốc trong cách đánh và cách
đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường.
Quả là “Đọc Người lái đị sơng Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một
tài năng, của một đấng hóa cơng thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy
Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục,
khẩu phục. Đúng là ơng lái đị đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của
mình. Đoạn trích vì thế đã xây dựng được một “cảnh tượng xưa nay chưa từng
có”.
Ơng lái đò là người lao động nhưng lại mang cốt cách của một tâm hồn
nghệ sĩ. Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh ông là một con người phi

thường, tài hoa. Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn.
Ơng chính là hình tượng con người lao động là biểu tượng cho trí dũng song
tồn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Nguyễn Tn đích thực là
một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động
trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông
lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ
sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác của người khách sông Đà quả thật là phi
thường, xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.


Phân tích hình tượng người lái đị sơng Đà trong Người lái đị
sơng Đà - mẫu 6
Tuỳ bút “Người lái đị sơng Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của
Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tùy bút này, Nguyễn Tuân
tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc
và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người
ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với cơng cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm
sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là
người lái đị sơng Đà. Dưới ngịi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, người lái đò
vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sĩ tài hoa trong nghề của mình.
Ơng lái đị sinh ra và lớn lên bên bờ sơng Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con
sông là máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ơng lái gắn
bó, u thương và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dịng sơng.
Khi Nguyễn Tn có dịp kiến diện với người lái đị thì cũng là lúc người lái đò
đã 70 tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ơng làm nghề lái đị dọc sơng Đà mười
năm liền và đã nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt
«ơng có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng
quá ». Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, phải chăng mười năm trong
nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên ngoại hình ơng lão: Tay ơng lêu
nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy

một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh
sông, nhỡn giới ơng vịi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó
trong sương mù. Bả vai của ơng có vết củ nâu trịn, dấu tích tì sào của nghề
lái đị mười năm liền trên sơng nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn
Tuân đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà Nguyễn Tuân đã chạm khắc vào tiềm
thức của người đọc một hình ảnh nhân vật ơng lái đị gần gũi với với mơi
trường lao động trên sông nước, sinh ra trên sông nước và để sống với sông
nước. Một con người suốt một đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước sơng
Đà để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được nhà
văn viết ra khơng chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà cịn để ca
ngợi sự gắn bó, u q nghề ở chính con người đó.


Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người
từng trải, thành thạo trong nghề. Nhưng như vậy cũng vẫn là chưa đủ, Nguyễn
Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước
này; ông làm nghề đị đã mười năm liền, trên sơng Đà, ơng xi, ông ngược
hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…Cứ đọc trong thiên
tùy bút này sự hung bạo của con sông Đà với thác, nước, sóng, đá mà để lái
đị dọc sơng Đà là một thử thách lớn trong nghiệp đời của ông.
Sự từng trải của người lái đị cịn thể hiện, dịng sơng Đà với bảy mươi ba con
thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lịng tất cả những
luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sơng Đà đối với
ơng lái đị ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả
những cái chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dịng. Khơng phải
bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các
ngọn thác, thời gian ơng lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy
hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ơng lão lái đị. Đấy cũng
là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như

được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sơng Đà.
Ơng lái đị đã từng ngược xi trên ghềnh thác sơng Đà nhiều năm trong cuộc
đời nên ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật
phục kích của lũ đá nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và
chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ơng lái đị
hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh trong thần thoại VN, nhưng có điều ơng
khơng có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con người lao động bình dị, đời thường
tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó địi hỏi
phải có lịng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đốn nữa.
Nguyễn Tn đưa nhân vật của mình vào trong hồn cảnh khốc liệt mà ở đó,
tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu khơng sẽ phải trả giá bằng chính
mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người
lái đị trên chiến trường sơng Đà, trên qng thuỷ chiến ở mặt trận sơng Đà.
Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều
đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù
số một.


Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đị được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc
đối đầu với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sơng lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục
hết trong dịng sơng, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng
ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhơ vào đường ngoặt sơng là
một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục,
vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước như những kẻ thù nham hiểm và
hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn cơng con người bất cứ khi nào và tai
họa sẽ ập đến mà khơng báo trước. Mặt hịn đá nào trơng cũng ngỗ ngược,
hịn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Nguyễn đã

miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hịn thì ngỗ ngược,
hịn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hịn mỗi
dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì khơng có chút nào thiện cảm bởi vẻ
lạnh lùng, hung ác và giữ tợn.
Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một
trận địa chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính tốn kĩ
lưỡng. Sơng Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch
trận trên sơng. Đám tảng hịn chia làm ba hàng chắn ngang trên sơng địi ăn
chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc khơng cịn biết lùi đi đâu để tránh một
cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết
mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung tợn và dữ dội, quyết liệt của
con sơng Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hịn cánh cửa thoạt nhìn
tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trị dụ cái thuyền tiến
sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng mới
đánh khp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ơng đị đã dễ dàng vượt
qua nên tuyến thứ ba là các boongke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan
con thuyền. Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước
biết tung ra bao địn đánh hiểm độc : khuýp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc
: đá trái, thúc gối, đội thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đị…rồi
liên tiếp các đòn trùng điệp : đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…
Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự
hung hăng, dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao
nhiêu thì lại càng tơn lên vẻ đẹp của ơng lái đị bấy nhiêu vì con sơng coi như
một hình ảnh làm nền cho người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy


hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự sống trên dịng sơng chết. Hay chúng
ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng
trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hị la vang dậy như muốn bẻ gãy

cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ơng lái đị. Sóng nước chiến đấu như
một kẻ liều mạng, không do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách
mà đá trái, thúc gối vào bụng và hơng thuyền. Khi sơng Đà tung ra miếng địn
hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ơng lái đị vẫn khơng hề
nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua
ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai
chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi
lùng, đánh địn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có
đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người
cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh
người lái đò đã hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí
tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Khơng một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá ln
vịng vây thứ hai”. Ơng lái đị đã nắm chắc binh pháp của thần sơng thần đá.
Biết ở vịng vây thứ hai con sơng đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh
lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vịng vây
thứ hai khơng phải chiến đấu với đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu
với dịng thác sơng Đà. Bằng nghệ thuật liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy
ơng lái đị khơng phải chèo thuyền vượt thác mà là cưỡi lên thác nước sông
Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví thác sơng Đà như
một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò. Nên ơng lái
đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng
mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì
tay. Rồi ơng đị ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc
lấy luồng nước mà lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sơng thật
nham hiểm bởi nó khơng để chút sơ hở cho con thuyền có lối thốt. Luồng
nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá đang mai phục. Khơng chỉ có thế, một
bọn thủy qn đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ con thuyền đến là xơ ra để
níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ơng đị đã nhớ mặt từng đứa một, đứa thì




×