Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Top 50 bai phan tich thien nhien trong bai tho canh khuya va ram thang gieng hay nhat 1kz3m

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.55 KB, 28 trang )

Dàn ý phân tích thiên nhiên trong bài thơ Cảnh khuya và Rằm tháng giêng
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh và hai bài thơ: Người cịn là một nhà văn, nhà
thơ xuất sắc, tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Hai bài thơ tiêu biểu về cảnh
thiên nhiên đặc biệt là về Trăng của Bác Hồ là bài “Cảnh khuya” và bài “Rằm
tháng Giêng”
2. Thân bài
● Bức tranh thiên nhiên sinh động trong bài Cảnh khuya: Bác ví tiếng
suối như “tiếng hát xa”, âm thanh tiếng nước chảy và vào đá đã khiến
cho thi sĩ liên tưởng đến tiếng hát vang vọng, thống đưa trong gió
● Sự hòa hợp thiên nhiên trong bài thơ Cảnh khuya: Ánh trăng soi chiếu
xuống cây cổ thụ in trên mặt đất những mảng sáng tối, rồi bóng cây lại
lồng vào những bơng hoa tạo nên sự hịa hợp đến lạ kì
● Ánh trăng đêm rằm mùa xuân thơ mộng:
● Sự kết hợp và hịa hợp thiên nhiên: Hình ảnh “sơng xn” cho thấy
điểm nhìn của Bác trên một dịng sơng, ánh trăng chiếu xuống dịng
sơng “lẫn” vào nhau lóng lánh mặt sơng lại là một sự hịa hợp, pha trộn
● Kết luận hai bài thơ: Một bên là miêu tả ánh trăng giữa rừng đêm
khuya, còn một bên là miêu tả vẻ đẹp trời nước dưới ánh trăng rằm
tháng Giêng.
3. Kết bài
Cảm nhận về phong cách thơ của Hồ Chí Minh: Có thể thấy, Hồ Chí Minh có
rất nhiều sác tác về vầng trăng, ánh trăng, tuy nhiên không hề có sự trùng lặp
trong bất cứ bài thơ nào. Mỗi bài tạo ra cho người đọc những cảm nhận và ấn
tượng khác nhau.


Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 1
Bác vốn là người có tình u thiên nhiên tha thiết. Dù trong hoàn cảnh ngày
đêm lo cho vận mệnh đất nước, Bác vẫn dành ra chút thời gian ít ỏi để thưởng
thức, cảm nhận và hịa mình vào thiên nhiên vạn vật. Hai bài thơ Cảnh khuya và


Rằm tháng giêng đều được khơi gợi cảm hứng từ vẻ đẹp thiên nhiên mà chính
xác là trong một đêm trăng đẹp ở chiến khu Việt Bắc.
Thơ Bác tràn ngập ánh trăng, trăng chính là người bạn tri âm, tri kỷ, người đã
đồng hành cùng Bác trong những năm tháng gian lao vất vả khi bị giam ở nhà tù
Trung Quốc cho đến những ngày hoạt động ở chiến khu Việt Bắc. Bởi vậy,
trong cả hai bài thơ đều có sự xuất hiện của ánh trăng, nhưng dưới con mắt của
thi nhân, mỗi bài ánh trăng lại mang những đặc sắc riêng. Trong bài “Cảnh
khuya”, trăng không xuất hiện ngay từ ban đầu, mà là âm thanh tiếng suối du
dương, tha thiết là yếu tố mở đầu bài thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Câu thơ sử dụng nghệ thuật so sánh, ví âm thanh tiếng suối như tiếng hát của
con người. Ở câu thơ ta thấy rõ nét hiện đại, tư duy thơ mới mẻ của Bác. Đó là
lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp để so sánh với thiên nhiên. Đồng thời
sự so sánh này cũng làm cho thiên nhiên trở nên gần gũi với con người hơn. Âm
thanh tiếng suối trong trẻo tựa như giọng hát của cô sơn nữ khiến không gian trở
nên sống động, tràn trề sức sống.
Sau âm thanh của tiếng suối là sự hịa hợp của thiên nhiên: “Trăng lồng cổ thụ
bóng lồng hoa”. Ở đây ta có thể tưởng tượng theo hai cách. Ánh trăng chiếu vào
vịm cổ thụ, bóng lồng vào bóng hoa hoặc ánh trăng chiếu rọi vào các vịm cổ
thụ in bóng xuống mặt đất như mn ngàn bông hoa. Dù hiểu theo cách nào
cũng đều cho thấy sự hài hòa, hòa hợp tuyệt diệu của thiên nhiên. Ánh trăng dìu


dịu, kết hợp với âm thanh tiếng suối trong trẻo xa xa làm không gian thêm phần
lung linh, huyền ảo.
Đến với bài “Rằm tháng giêng”, người đọc lại có cảm nhận, cái nhìn khác về
thiên nhiên Việt Bắc. Mở đầu bài thơ là tràn ngập ánh trăng:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”
Hai câu thơ mở ra khung cảnh không gian cao rộng, bát ngát, tràn ngập ánh

sáng của trăng. Ánh trăng trong trẻo khiến cho khung cảnh trở nên đẹp đẽ mà
cũng vô cùng hài hịa. Câu thơ thứ hai vẽ ra khơng gian bao la, bát ngát. Trong
nguyên tác, chữ “xuân” được lặp lại ba lần: “xuân giang, xuân thủy, xuân thiên”
đã nhấn mạnh vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân. Khơng khí mùa xn đã thấm
đẫm trong mọi cảnh vật, đâu đâu cũng thấy thiên nhiên căng đầy sức sống. Sự
vật có sự hịa hợp tuyệt đối với nhau, đất trời nối tiếp, hòa với nhau làm một. Và
trong khung cảnh đó, chân dung Bác hiện lên thật đẹp đẽ. Lo cho dân cho nước
đến tận canh khuya nhưng vẫn không quên thưởng thức, cảm nhận vẻ đẹp của
ánh trăng, tiếng suối, của trời xuân. Đặt trong hoàn cảnh giai đoạn đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp ta không chỉ thấy Bác là người có tình u thiên nhiên
mà cịn thấy được phong thái ung dung, lạc quan của Bác.
Cả hai bài thơ đã sử dụng những hình ảnh thơ đẹp, phép so sánh, điệp ngữ tài
tình. Ngơn ngữ tinh tế, tài hoa, giàu cảm xúc, nhịp điệu. Giọng thơ khỏe khoắn,
trẻ trung, có suy tư, trăn trở mà vẫn đầy hào hứng và tin tưởng.
Qua hai bài thơ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng”, ta thấy được những rung
động tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, tài hoa trước vẻ đẹp của thiên
nhiên đất nước. Với những lời thơ giản dị mà cũng hết sức hàm súc người đọc
đã được thưởng thức bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của Việt Bắc ở những thời


điểm khác nhau. Đằng sau tình u thiên nhiên cịn là một người luôn lo cho
dân cho nước, một phong thái ung dung, một tâm hồn lạc quan vào cuộc sống.

Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính u của dân tộc, Người khơng chỉ có
tình u đất nước, yêu đồng bào, mà còn yêu cảnh đẹp thiên nhiên đến cháy
bỏng. Bác có rất nhiều bài thơ về cảnh thiên nhiên, trong đó phải kể đến bài thơ
“Cảnh khuya" và bài “Rằm tháng giêng”.
Hai bài thơ đều được viết khi Bác đang trong tâm trạng lo lắng chồng chất cho
sự nghiệp đấu tranh của dân. Tuy lo lắng nhưng Bác thể hiện sự lạc quan yêu

đời, mọi cảnh vật xung quanh đối với Bác vẫn đẹp đến thơ mộng. Trong bài thơ
“Cảnh khuya” thiên nhiên hiện lên sống động, bình dị mà lung linh, huyền ảo
biết bao. Bằng nghệ thuật so sánh sắc sảo và tài tình, tác giả đã vẽ nên bức tranh
thiên nhiên đầy ấn tượng hiện lên trong ngay khổ thơ đầu của bài thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Giữa một không gian vắng lặng, con người và cảnh vật đã hòa quyện vào làm
một. Bác đã có thể nghe được cả tiếng nước chảy của dịng suối. Tiếng suối
chảy róc rách, văng vẳng mơ hồ khiến Người tưởng như có tiếng hát êm ái, ngọt
ngào, trong trẻo, ngân xa của ai đó vọng lại. Cách so sánh ấy không chỉ làm cho
tiếng suối lạnh lẽo, vô hồn bỗng trở nên sống động, trẻ trung mà còn làm cho
cảnh rừng yên ắng, tĩnh mịch trở nên có hồn người, xao động. Đêm rừng chiến
khu bỗng trở nên gần gũi, thân thương với con người, bỗng mang hơi ấm của sự
sống con người. Có lẽ trong đêm khuya thanh vắng, Bác đang mê mải với cơng
việc cách mạng thì tiếng suối ngân lên khiến Người rời bàn viết. Khẽ ngước lên,
vẻ đẹp của đêm lại quyến rũ Người. Nét đặc sắc và rất riêng biệt của đêm chiến
khu tiếp tục tạo ấn tượng cho thị giác:


“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Cảnh vật dưới mặt đất thật nên thơ, trên bầu trời ánh trăng rọi xuống mặt đất
khiến cảnh vật dưới mặt đất càng thêm huyền ảo. Câu thơ vẽ nên một hình ảnh
hữu tình, ấm cúng: ánh sáng của trăng bao trùm lên cây cổ thụ, bóng cây đổ
xuống lại bao trùm lên hoa. Nếu câu đầu là trong thơ có nhạc thì câu thứ hai này
là trong thơ có họa . Hình ảnh thơ có vẻ đẹp của bức tranh nhiều tầng lớp,
đường nét, hình khối đa dạng. Các sự vật đan lồng vào nhau tạo nên một bức
tranh chỉ có hai gam màu sáng tối, trắng đen như nhiều lớp lang, tầng bậc cao
thấp lung linh, chập chờn, huyền ảo, sống động mà ấm áp, hòa hợp quấn quýt
với hàng chục, hàng trăm sắc hình đa dạng. “Trăng, cây cổ thụ và hoa” - ba vật
thể cách nhau ngàn trùng, cao thấp, lớn bé cũng rất khác nhau nhưng lại đan cài,
nâng đỡ, soi sáng và tôn lên vẻ đẹp của nhau tạo nên một bức tranh nên thơ,

sống động, có hồn. Điệp từ “lồng” được nhắc đi, nhắc lại hai lần thật đắt, thật
hay bởi nó đã tạo nên âm hưởng ngọt ngào cho câu thơ.
Nhà thơ như giãi bày tâm sự của mình với cảnh thiên nhiên, cảnh thiên nhiên
cũng như hiểu được tâm sự của một thi sĩ không ngủ được. Trong bức tranh
đêm hiền hòa, dịu êm như thế xuất hiện hình ảnh con người “chưa ngủ”. “Chưa
ngủ” vì “lo nỗi nước nhà” và cũng vì thế bất chợt bắt gặp và chia sẻ với vẻ đẹp
tinh tế của thiên nhiên. Nếu như trong “Cảnh khuya”, thiên nhiên hiện lên là
cảnh rừng Việt Bắc chập chờn hai gam màu cơ bản trắng - đen thì trong “Rằm
tháng giêng” thiên nhiên hiện lên lại là vẻ đẹp lồng lộng, bát ngát trăng vàng
giữa dịng sơng xn mênh mang:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.


Bài thơ được Xuân Thủy dịch là:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sơng xn nước lẫn màu trời thêm xn.
Giữa dịng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
Với bút pháp tả cảnh tài tình của nhà thơ, người đọc được chiêm ngưỡng cảnh
trăng rằm vô cùng đẹp. Vầng trăng mùa xuân vừa đúng độ tròn, xinh tươi, soi
sáng khắp bầu trời cao rộng, trong trẻo, thoáng đãng. Bầu trời và vầng trăng
tưởng như khơng có giới hạn, dịng sơng mùa xn, màu nước mùa xn nối
liền với bầu trời xuân: “Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”. Điệp từ “xuân”
được nhắc đi nhắc lại ba lần mang âm điệu bay bổng, gợi cảm giác trong trẻo,
rộng lớn, thảnh thơi, thanh bình, thú vị làm sao. “Thủy, nguyệt, thiên” vốn là
những chất liệu của thi ca cổ nhưng Bác đã có sự sáng tạo đặc biệt tài hoa để
làm nổi bật cái thần của bức tranh “nguyên tiêu”: tươi sáng, rực rỡ, tràn đầy sức

sống của vạn vật, con người.
Trong các bài thơ tả cảnh của Bác, hình ảnh con người ln xuất hiện hịa quyện
cùng thiên nhiên, “Ngun tiêu” khơng thể thiếu vắng hình ảnh con người, và
đó là người chiến sĩ cách mạng. Chỉ có khác một điều, trong “Ngun tiêu”,
hình ảnh người chiến sĩ khơng hiện lên đơn độc mà được thể hiện qua hình ảnh
con thuyền cách mạng ấm cúng tình đồng chí, đồng đội:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
Dù tả cảnh nhưng lại thể hiện tâm trạng của con người. Thái độ lạc quan yêu đời
của nhà cách mạng ấy thật đáng khâm phục, nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng rất
đỗi thiêng liêng, bí mật mà đẹp như trong huyền thoại, nơi bàn chuyện hệ trọng
sống còn của đất nước, vậy mà Người vẫn đắm say tận hưởng một vầng trăng


đẹp, một vầng trăng viên mãn. Ở đó, cái thực và cái ảo đan xen, hài hòa: “Yên
ba thâm xứ” là ảo, “đàm quân sự” là thực, “nguyệt chính viên” là thực; nhưng
“nguyệt mãn thuyền” là ảo. Song cái ảo đó chính là chất lãng mạn, chất trữ tình
trong thơ Bác. Sau hội nghị quan trọng, quyết định những vấn đề liên quan đến
vận mệnh của Đảng, của đất nước; con thuyền, con người hòa quyện với thiên
nhiên, thấm đẫm, tràn trề lai láng ánh trăng.
Hai bài thơ trên của Bác đều được viết về trăng ở chiến khu Việt Bắc, nhưng ở
mỗi bài vẻ đẹp của trăng lại được người thi sĩ cảm nhận bằng một vẻ riêng.
Trăng trong “Cảnh khuya” là ánh trăng đã được nhân hóa. Trăng lồng bóng vào
cây cổ thụ để giãi “hoa” (hoa trăng) trên mặt đất. Cảnh vật như hiện ra lồng
lộng dưới ánh trăng. Thêm nữa, tiếng suối trong đêm trong trẻo như tiếng ai
đang ngân nga hát càng làm cho trăng khuya thêm mơ mộng. Trong khi đó,
trăng trong Rằm tháng giêng là trăng xn, trăng mang khơng khí và hương vị
của mùa xuân. Cảnh ở đây là cảnh trăng ở trên sơng, có con thuyền nhỏ trong
sương khói. Nhưng điểm đặc biệt nhất phải nói đến đó là sự chan hòa của ánh
trăng như tràn đầy cả con thuyền nhỏ.

Tinh thần lạc quan yêu đời của Bác thể hiện trong hai bài thơ thật đáng khâm
phục. Bao nhiêu khó khăn gian khổ cịn ở phía trước, bao điều suy nghĩ trăn trở
chưa tìm ra cách giải quyết, vậy mà vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta vẫn giữ
một tinh thần tự tại, ung dung. Điều này thể hiện sự quyết tâm khơng ngại khó
khăn gian khổ, quyết chiến quyết thắng kẻ thù của Bác.

Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 3
Hồ Chí Minh khơng chỉ là vị lãnh tụ tài ba, kiệt xuất, một nhà chính trị tài năng
mà cịn là một nhà văn, nhà thơ xuất sắc, tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.


Trong khoảng thời gian làm việc ở Pác Bó, Bác đã sáng tác hai bài thơ về trăng
rất tiêu biểu, đó là bài “Cảnh khuya” và bài thơ “ Rằm tháng giêng”.
Cùng lấy cảm hứng từ ánh trăng nhưng trong mỗi bài thơ, Hồ Chí Minh lại thể
hiện một sắc thái riêng biệt, điều này đã làm nên nét độc đáo cho mỗi bài thơ.
Trong bài thơ “Cảnh khuya” bức tranh thiên nhiên được Bác khắc học bằng
những nét sinh động, cụ thể, gợi ra một bức tranh đa sắc màu và có sức hấp dẫn
với người đọc.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Ở trong câu thơ này, Bác đã ví tiếng suối như “tiếng hát xa”, âm thanh của nước
va chạm vào vách đá không ồn ào mà lại dịu nhẹ, êm du. Bằng tâm hồn nhạy
cảm của một thi sĩ, Hồ Chí Minh đã liên tưởng ngay đến tiếng hát xa. “Tiếng hát
xa” là tiếng hát thoảng đưa trong gió, có tiết tấu, giai điệu song nếu khơng chú ý
lắng nghe thì cũng sẽ không thể cảm nhận hết.
Tiếng suối ở đây cũng vậy. Ta có thể liên tưởng đến dịng suối nhỏ róc rách
chảy trong đêm, nó nhẹ đến mức nếu không gian không yên tĩnh, người nghe
không nhập tâm để cảm nhận thì cũng khó có thể nhận ra. Nhưng một khi đã
cảm nhận được rồi thì nó sẽ như một giai điệu nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng da
diết, cứ vương vấn lịng người khơng thơi.

Trong khơng gian tĩnh lặng, tiếng suối du dương hiện lên thật gợi cảm, nó tác
động đến tâm hồn của người thi sĩ. Ngồi trong đêm, bác dùng sự nhạy cảm để
cảm nhận cái tĩnh của âm thanh, song cũng đồng thời cảm nhận cảnh khuya
bằng cái nhìn thị giác đầy tinh tế: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Hình ảnh
ánh trăng ở đây được đặt trong mối quan hệ với cây và hoa. Cách cảm nhận của
Bác cũng thật độc đáo, ánh trăng soi chiếu xuống cây cổ thụ làm in trên mặt đất
những mảng màu sắc sáng tối, tạo nên cảnh chập chùng của ánh trăng, cây và


trong cảm nhận của Bác, trăng, bóng cây cùng “lồng” vào hoa tạo ra sự hịa hợp
đến lạ kì.
Từ ba hình ảnh ngỡ như chẳng hề có mối liên hệ nào, Hồ Chí Minh đã dùng sự
tinh tế trong cảm nhận của mình để tạo ra cho chúng một sự hịa hợp, đan xen
vơ cùng sống động và gợi cảm. Cũng miêu tả về ánh trăng, nhưng trong bài thơ
“Rằm tháng Giêng” Hồ Chí Minh lại cho người đọc một cảm nhận mới, một
cách nhìn mới về ánh trăng:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Ánh trăng trong bài thơ này là ánh trăng của đêm Rằm mùa xuân nên nó mang
cái nét thơ mộng, gợi cảm của tiết trời xuân. “Lồng lộng” gợi ra cái bao la, bát
ngát của không gian bầu trời. Trong cái không gian ấy, ánh trăng dường như
sáng hơn, đẹp hơn, nó soi sáng và bao phủ lên mọi cảnh vật, làm cho cảnh vật
trở nên đầy sức hấp dẫn, quyến rũ:
“Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Trong một câu thơ mà Hồ Chí Minh đã sử dụng đến ba từ xn, làm cho sắc
xn, khơng khí xn tràn đầy khắp cả ý thơ.
Nếu trong bài “Cảnh khuya” có sự hịa hợp giữa ba yếu tố: “trăng, bóng và hoa”
để tạo ra khung cảnh thi vị mà đầy hấp dẫn thì ở trong bài thơ “Rằm tháng
Giêng” lại có sự kết hợp của ba yếu tố: “trăng, nước và bầu trời”. Vừa gợi ra cái
mênh mông của bầu trời, cái thi vị của dịng sơng mùa xn và cả sự kết hợp

giữa nước và trăng đã tác động ngược lại với bầu trời,làm cho không gian bầu
trời mang đậm khơng khí của mùa xn. Nếu trong “Cảnh khuya” đối tượng
miêu tả của Bác là ánh trăng rừng trong đêm khuya thanh tĩnh thì “Rằm tháng
Giêng” lại là vẻ đẹp của cảnh trời nước bao la dưới ánh trăng rằm đầu năm.


Có thể thấy, Hồ Chí Minh sáng tác rất nhiều các phẩm lấy đề tài từ vầng trăng,
ánh trăng. Song mỗi bài Bác lại tạo ra cho người đọc một cảm nhận khác, một
ấn tượng khác về ánh trăng mà khơng hề có sự trùng lặp. Có sự đa dạng này
phải kể đến sự cảm nhận tinh tế và tài năng sáng tạo không ngừng của Bác.

Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 4
Hồ Chí Minh là một nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Các tác phẩm của Bác
gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc. Một trong số đó là vẻ đẹp thiên nhiên của đất
nước. Điều đó được thể hiện qua bài thơ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng”.
Hai bài thơ đều khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc trong đêm
trăng. Nhưng mỗi bài thơ lại mang một nét độc đáo riêng. Trước hết là Cảnh
khuya:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
Đêm xuống, trăng càng sáng và lan tỏa khắp mọi không gian. Trong rừng vắng
lắng, nhân vật trữ tình càng nghe thấy rõ được tiếng suối nghe càng rõ. Tiếng
suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng như âm thanh của
tiếng hát sâu lắng. Bác đã vận dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh để diễn tả tiếng
suối. Khơng chỉ dừng lại ở đó, ánh trăng chiến khu cũng được Bác khắc họa
sinh động. Hình ảnh trăng trong thơ Bác vốn đã rất quen thuộc:
“Trong tù không rượu cũng khơng hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ
Trăng nhịm khe cửa ngắm nhà thơ”

(Ngắm trăng)


Còn trong “Cảnh khuya”, ánh trăng được Bác diễn tả qua câu thơ “Trăng lồng
cổ thụ bóng lồng hoa” với hai cách hiểu cho người đọc. Đầu tiên là hình ảnh
ánh trăng chiếu xuống mặt đất xuyên qua từng tán cây, chiếu xuống cả những
bông hoa rừng. Không gian núi rừng Việt Bắc đều ngập trong ánh trăng. Cách
hiểu thứ hai là ánh trăng sáng chiếu xuống mặt đất xuyên qua từng tán cây cổ
thụ, khi phản chiếu xuống mặt đất tạo ra hình thù như những bơng hoa. Cả hai
cách hiểu đều cho thấy vẻ đẹp của ánh trăng. Ánh trăng đã trở thành người bạn
tri kỷ của nhà thơ ngay cả nơi núi rừng hoang sơ. Bức tranh thiên nhiên núi
rừng Việt Bắc dưới cái nhìn của một thi sĩ được hiện lên với nét đẹp thơ mộng,
và đầy hoang sơ.
Còn với “Rằm tháng giêng”, thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên trong đêm
trăng mùa xuân tràn đầy sức sống:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,”
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc trịn nhất)
Nhưng khơng phải là một đêm trăng bình thường, mà là đêm rằm tháng giêng.
Trăng lúc này đang ở độ đẹp nhất - “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc trịn
nhất). Mọi vật tại nơi đây đều nhuốm màu của ánh trăng.
“Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên;”
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Bác đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ - từ “xuân” được nhắc lại ba lần nhằm
nhấn mạnh vào sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Từ
“tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hịa
gặp gỡ nhau bởi sắc xn rực rỡ. Khơng gian ấy mở rộng ra cả ba chiều: chiều
cao, chiều rộng và chiều sâu làm cho cảnh vật thiên nhiên trở nên rộng lớn hơn
chứ khơng bó hẹp. Sự nối tiếp giữa “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân”
cũng gợi ra vẻ đẹp giao hòa giữa bầu trời và mặt đất đều tràn ngập ánh trăng.



Cả hai bài thơ mang đậm phong cách sáng tác của Bác. Qua những bức tranh
thiên nhiên nhiên đó, Hồ Chí Minh gửi gắm tâm tư về sự nghiệp cách mạng của
đất nước, cũng như tình u thiên nhiên, lịng yêu nước của nhà thơ.

Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 5
Hồ Chí Minh khơng chỉ là vị lãnh tụ tài ba, nhà quân sự, chính trị lỗi lạc của
cách mạng Việt Nam mà còn là nhà thơ, nhà văn lớn với nhiều tác phẩm có giá
trị. Khơng chỉ làm cách mạng, Bác cịn viết thơ, làm văn để phục cho chiến đấu.
Bởi vậy, mà trong bảy mươi chín năm cuộc đời của Người khơng chỉ có những
thành quả cách mạng lớn lao mà cịn có một bộ sưu tập thơ bất hủ, có thể kể đến
tập “Nhật ký trong tù”, các bài thơ Bác viết gửi thiếu nhi, hay những bài thơ
ngẫu hứng khi ngắm thiên nhiên Bác đều gửi gắm những tâm tư, niềm mong
mỏi và cả sự lạc quan, hướng về những điều tốt đẹp trong tương lai. Một trong
những bài thơ hay nhất của Bác viết trong kháng chiến có thể kể đến “bộ đôi”
hai bài thơ trăng “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng”.
Bài thơ Cảnh khuya được mở đầu bằng những câu thơ tả cảnh, gợi cảm đầy mê
hoặc:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lịng cổ thụ bóng lồng hoa”
Thiên nhiên vừa tĩnh lại vừa động, tiếng suối róc rách chảy xa xa qua cái cảm
của nhà thơ tựa như tiếng hát con người đang vọng lại, ấm áp và đầy thiết tha.
Tiếng hát của dòng suối chảy ấy đã át đi cả tiếng của những bom đạn quân thù
để rồi trong đêm khuya tĩnh lặng, tiếng suối trở thành một thanh âm thi vị dịu
dàng, trong trẻo mang lại chút thư thái nơi tâm hồn của nhân vật trữ tình. Bản
nhạc của suối nguồn núi rừng mang đến cho thính giác cảm giác êm đềm, hấp
dẫn thì đến cảnh sắc Việt Bắc lại làm cho ánh mắt thi nhân không thể rời. Hoa


cỏ, thiên nhiên và đặc biệt là ánh trăng đẹp đẽ trên bầu trời xa kia đã khiến cho

tâm hồn nhà thơ không khỏi xuýt xoa mà buông những lời thơ tựa nét vẽ của
bức họa núi rừng:
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Trăng toả ánh sáng xuống trần gian, hòa trong vẻ đẹp của cây rừng Việt Bắc.
Ánh trăng lồng qua từng bóng cây già, luồn qua từng cành cây, kẽ lá in bóng
cảnh vật xuống mặt như những bông hoa. Trăng, cây, và hoa gắn kết, quấn quýt,
giao hịa như tình cảm gắn kết giữa qn và dân Việt Nam. Cảnh hữu tình quá,
thơ mộng quá, cảnh làm lịng người xuyến xao khơn tả. Trăng khuya soi rọi
bóng cây già, tiếng suối chảy xa tựa bản nhạc ngân nga, rừng Việt Bắc thật đẹp
quá.
Và thiên nhiên càng đẹp hơn khi có bóng dáng của con người, giữa núi rừng đại
ngàn trăng soi, có người thi sĩ đang ngắm nhìn, đang trăn trở:
“Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Bóng dáng con người hiện lên khơng miêu tả qua dáng hình, qua khn mặt mà
được thể hiện qua nội tâm, qua trạng thái của Người – chưa ngủ vì nỗi nước
nhà. Suốt bao năm tháng cách mạng, Người vẫn lo một nỗi cho dân tộc, cho
kháng chiến, Bác thương nhân dân, thương bộ đội lại càng thương đất nước, xót
xa khi Tổ quốc bị xâm lăng. Bác ngắm nhìn cảnh khuya mà nào có thảnh thơi,
vẫn lo toan mọi bề khi đất nước chưa được giải phóng. Bác Hồ – Người là vậy,
chưa một giây phút nào Bác quên nghĩ đến nhân dân, nghĩ về dân tộc.
Đến với Rằm tháng giêng, ta thấy được ở bài thơ một không gian thiên nhiên
đầy đẹp đẽ, một mạch nguồn cảm xúc mới mẻ, tươi tắn. Bài thơ mở đầu thật nhẹ
nhàng:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi”


Vào những ngày rằm, trăng tròn trịa và toả sáng hơn, đặc biệt trăng xuân lại
càng đẹp, càng mỹ miều hơn nữa. Ánh trăng toả ngát, soi “lồng lộng” khắp
không gian, ánh trăng như bao trùm lấy vạn vật, ban thứ ánh sáng kiều diễm mê

hoặc lòng người. Trăng sáng chiếu bát ngát, mênh mông khắp nơi, mọi chốn của
núi rừng Việt Bắc.
” Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Xuân ngập tràn không gian, sức xuân sống động, tươi trẻ và dồi dào toả khắp
mây trời, sông nước. Xuân mang niềm vui, niềm thương gửi gắm vào tất thảy
thiên nhiên, cảnh vật, dường như cả đất trời đang dào dạt sức sống mùa xuân.
” Giữa dòng bàn bạc việc quân”
Giữa lúc thiên nhiên đang rạo rực sức xuân như vậy, lịng người cũng đang rạo
rực vì sự nghiệp kháng chiến. Câu thơ gợi cho ta cảm nghĩ về hình ảnh những
người chiến sĩ đang miệt mài, tập trung bàn bạc, tìm ra những kế hoạch, chiến
lược cho cơng cuộc cách mạng trên con thuyền nhỏ lênh đênh giữa dòng, dưới
ánh trăng dịu dàng của tạo hoá. Ánh trăng lúc này đây như người chiến sĩ cùng
đồng hành, chăm chú dõi theo từng nghĩ suy, từng trăn trở, trăng lại như người
bạn tri âm đến gần bên tâm tình với con người.
” Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Khi đêm đã khuya, cuộc họp bàn dường như vẫn chưa trọn, thuyền chở đầy
trăng vẫn trơi nhẹ giữa dịng. Thuyền chở trăng, chở cả những hy vọng, ước mơ,
chở cả những niềm tin vào một ngày đất nước được hoà bình, nhân dân được ấm
no, an bình. Thuyền chở đầy trăng chở theo cả niềm lạc quan, sự tin yêu trên
con đường cách mạng gian khó, dẫu có những hiểm nguy, dẫu có những mất
mát vẫn giữ vững lịng tin vào ngày mai thắng lợi vẻ vang.
Hai bài thơ, tuy có những đặc sắc riêng, song giữa chúng ta vẫn bắt gặp những
điểm tương đồng để làm nên dấu ấn, phong cách thơ của nhà thơ dân tộc Hồ Chí


Minh. Cả “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” đều có sự kết hợp hài hoà giữa
yếu tố cổ điển và tinh thần hiện đại. Đó là những hình ảnh, thi liệu khá quen
thuộc được dùng nhiều trong thơ cổ như ánh trăng hay con thuyền. Thể thơ thất
ngôn tứ tuyệt lời ít ý nhiều, hàm súc cùng bút pháp gợi mà không tả cũng được
vận dụng đầy thuần thục, điều luyện. Đặc biệt, qua hai bài thơ, ta cảm nhận

được một tình u thiên nhiên hồ trong một trái tim yêu nước thiết tha của
Người, niềm lạc quan trong gian khó, phong thái đầy ung dung của một chiến sĩ
cách mạng mãi là nguồn cảm hứng cho bao thế hệ trẻ chúng em học tập, nói
theo.
“Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” đã mang đến cho em những nỗi nhớ,
những niềm thương và cả sự kính trọng dành cho Bác. Chính những lời thơ bình
dị, những tình cảm dạt dào gửi gắm trong thơ của Bác đã bồi đắp, nuôi dưỡng
trong em tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước mình. Bản thân em sẽ mỗi ngày cố
gắng, cố gắng hơn nữa để lớn lên có thể góp sức mình xây dựng quê hương
mình ngày một giàu đẹp, ngày một đi lên như lời dạy của Bác năm nào.

Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 6
Những người yêu thơ của tác giả Hồ Chí Minh có thể dễ dàng nhận thấy: Trăng
là một đề tài rất đẹp trong thơ của Người. Từ trong nhà tù Tưởng Giới Thạch,
trăng đã là bạn tri âm, hay khi trở thành người lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
trăng vẫn đồng hành san sẻ tâm sự. Những năm 1947, 1948, khi cuộc kháng
chiến chống Pháp nổ ra khốc liệt, việc nước bộn bề, Bác vẫn tranh thủ lúc nghỉ
ngơi, viết lên những vần thơ đặc sắc, mà ở đó, trăng vẫn hiện diện hiền hồ và
thơ mộng. Ta có thể kể tên bài thơ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng”.
Bài thơ “Cảnh khuya” là một tác phẩm mà người viết khi ở chiến khu Việt Bắc.
Đây là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt rất súc tích, như phong cách thường thấy


của Bác. Bốn câu thơ chia làm hai phần: nửa đầu tả cảnh, nửa sau tả tâm sự của
nhà thơ. Mở đầu Bác viết:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Hai dịng thơ ngắn gọn mà cảnh vật hiện ra sinh động lạ lùng, có đủ cả âm thanh
và hình ảnh để giúp người đọc hình dung ra một khơng gian thơ mộng của đêm
trăng Việt Bắc. Giữa sự tĩnh lặng đó, tiếng suối rì rầm như một khúc nhạc thanh

tao. Cách sử dụng biện pháp so sánh tiếng suối như thể tiếng hát khiến cho ý thơ
trở nên sinh động. m thanh của thiên nhiên được so sánh với khúc hát của con
người nên thật ấm cúng và gần gũi. Giọng thơ vút cao, ngân nga thật độc đáo,
lay động lòng người. Trong thơ xưa, Nguyễn Trãi từng tả tiếng suối ở Côn Sơn
rằng:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”
Nhà thơ xưa và nhà thơ nay đã gặp nhau như thế đấy. Ta lại càng yêu thích cảnh
thiên nhiên trong thơ Bác, bởi vạn vật sao mà hoà quyện, quấn quýt, hữu tình
đến thế. Điệp từ “lồng” khiến cho trăng, cổ thụ và bơng hoa như giao hồ, để
cùng nhau điểm xuyết một bức tranh tuyệt vời, tràn đầy cảm xúc. Người đọc
thực sự nhận thấy tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Bác, và cũng cảm nhận tình
u đó trong tâm hồn mình.
Hai câu sau, thi sĩ đột nhiên như ngỏ lời tâm sự rằng:
“Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Có thể thấy cái tứ thơ bất ngờ thú vị ở đây. Bác so sánh “cảnh khuya như vẽ” để
cùng ta ngợi ca cảnh đẹp, cứ tưởng rằng vẻ đẹp đó là nguyên nhân khiến tâm
hồn nghệ sĩ thao thức, “người chưa ngủ”. Thì điệp khúc “người chưa ngủ” lặp


thêm một lần và thêm lời lý giải rằng đêm nay mất ngủ là do “lo nỗi nước nhà”.
Đến đây, ta đã cảm thông tâm trạng của Người. Trong cái đêm đẹp như tranh vẽ
này, Bác vẫn đầy nỗi trăn trở bởi lo âu vận mệnh nước nhà. Trái tim vĩ đại của
Người từng nhịp đập, đều đập vì quê hương đất nước. Đọc bài thơ ngắn gọn, ta
cảm nhận được bao điều lớn lao đến vậy!
Đến với bài thơ “Rằm tháng giêng”, ta một lần nữa cảm nhận được vẻ đẹp tâm
hồn Hồ Chí Minh, và cịn thấy được cả những nét độc đáo khác trong thơ Bác.
Trước tiên, đó là bức tranh trăng mùa xuân:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên”
Ý thơ, thi liệu đều rất cổ điển, cách giới thiệu thời gian “nguyên tiêu” (Rằm
tháng giêng) và sự miêu tả cái trịn đầy của “nguyệt chính viên” đem lại cho
người đọc một cảm xúc yêu mến trước vầng trăng tròn vạnh tỏa sáng cả đêm
xuân, và thấy trước mắt mình một “rằm xn lồng lộng trăng soi”. Đêm rằm có
gì độc đáo, ấy là điệp từ “xuân” khiến câu thơ chan hồ sắc xn: sơng xn,
nước xn và cả một trời xuân lai láng. Phải chăng ánh trăng chính là ánh xuân
bao phủ khắp thế gian… Thật đúng là “Sông xuân nước lẫn màu trời thêm
xuân”!
Thế rồi hình ảnh con người xuất hiện giữa thiên nhiên tươi đẹp:
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
Có thể nói, tư thế của nhà thơ có nét đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại. Cổ điển bởi
tình yêu và sự đắm say nét đẹp thiên nhiên, và hiện đại bởi bên cạnh tư thế của
một thi sĩ là hình ảnh một người chiến sĩ lúc nào cũng canh cánh việc dân việc


nước (đàm quân sự). Người chiến sĩ cách mạng ấy làm việc không quản ngày
đêm, mà vẫn giữ được một tâm hồn dạt dào xúc cảm khi “Khuya về bát ngát
trăng ngân đầy thuyền”. Cuộc sống vất vả và hiểm nguy trong kháng chiến bỗng
chốc nhẹ tênh bởi câu thơ đẹp, trăng và người lại một lần nữa gắn bó với nhau
như bạn bè tri kỷ. Chất “Tình” và chất “Thép” hoà quyện cho ta thấy vẻ đẹp tâm
hồn Hồ Chí Minh.
Đặt hai bài thơ trong sự so sánh, nét chung giữa chúng là ở chất cổ điển thể hiện
ở thể thơ thất ngơn tứ tuyệt với những hình ảnh cổ điển mang vẻ đẹp độc đáo,
bộc lộ tình yêu thiên nhiên và yêu đất nước. Bên cạnh đó, hai bài thơ cũng có
những nét độc đáo riêng. Bài thơ Cảnh khuya thể hiện sự giao hoà của vạn vật
và nỗi trăn trở việc nước của Bác. Còn bài thơ Rằm tháng giêng là bức tranh

đẹp đầy sắc xuân và tâm trạng say mê, thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên của nhà
thơ. Mỗi bài thơ là một vẻ đẹp riêng trong phong cách tài hoa của nhà thơ Hồ
Chí Minh.
Có thể nói, đọc thơ Bác là đi tới một thế giới nghệ thuật bình dị mà sâu sắc. Hai
bài thơ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” là hai tác phẩm như thế, ngắn gọn
mà độc đáo, đọng lại trong tâm hồn độc giả bao xúc cảm tinh khôi. Thế hệ trẻ
đọc thơ Bác cũng là để trái tim được bồi đắp thêm tình yêu thiên nhiên, yêu quê
hương đất nước.

Thiên nhiên trong Cảnh khuya và Rằm tháng giêng - Mẫu 7
Cùng viết về ánh trăng nhưng trong hai bài thơ “Cảnh khuya” và bài thơ “Rằm
tháng Giêng”, Hồ Chí Minh lại thể hiện một sắc thái, một cảm xúc đặc biệt.
Cùng là ánh trăng đấy nhưng hình ảnh trong mỗi bài thơ lại mang một nét đẹp,
lại chứa đựng những cảm xúc riêng của nhân vật trữ tình. Nếu trong bài thơ
Cảnh khuya, Hồ Chí Minh vẽ ra khung cảnh đêm khuya ánh trăng được đặt


trong mối quan hệ với vạn vật nơi rừng sâu và phản chiếu hình ảnh con người
đang ơm mối suy tư khi liên quan đến vận nước, thì bài thơ Rằm tháng Giêng lại
là bức tranh mùa xuân dưới ánh trăng Rằm, hình ảnh của nhân vật trữ tình đang
trong tư thế lạc quan tự tại và niềm tin vào sự chiến thắng của Cách mạng, vào
sự trường tồn của vận nước. Trong bài thơ Cảnh khuya, Hồ Chí Minh đã vẽ ra
một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, nó dường như trở lên sinh động hơn trong
đêm trăng nhưng nổi bật lên trong bức tranh ấy là vẻ đẹp của một con người
cách mạng đang trăn trở, suy tư về công việc của dân tộc đất nước: “Tiếng suối
trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Trong không gian tĩnh
lặng của đêm khuya, tiếng suối róc rách chảy trong đêm vang vọng trong khơng
gian, đặc biệt trong cảm nhận của Hồ Chí Minh thì tiếng suối này không như
những tiếng suối thường nghe thấy mà nó dịu nhẹ hơn, da diết hơn, nó tựa như
“tiếng hát xa” như có như khơng mà vọng lại. làm cho không gian vốn tĩnh lặng

của đêm khuya tràn ngập âm thanh, như một khúc giao hưởng giữa rừng già.
Không chỉ âm thanh mà ngay hình ảnh cũng kích thích, cũng hấp dẫn thị giác
của người nhìn, đó là hình ảnh của bóng trăng lồng vào bóng của cây cổ thụ,
bóng của cây cổ thụ lại lồng vào hoa, một sự kết hợp thật độc đáo. “Cảnh khuya
như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà” Trong khơng gian thanh
vắng của đêm khuya, hình ảnh nhân vật trữ tình hiện lên với những nỗi trăn trở,
suy tư. Đó là những suy tư về vận nước, về tương lai của một dân tộc, hình ảnh
ấy làm cho người chiến sĩ cách mạng hiện lên thật đẹp, thật đáng trân trọng.
Trong bài “Rằm tháng Giêng” lại khác, khung cảnh thiên nhiên mà chủ tịch Hồ
Chí Minh gợi ra đó chính là khung cảnh của trời đất, sơng nước khi có ánh trăng
Rằm soi chiếu, cũng là ánh trăng đêm nhưng giữa hai bài thơ lại mang đến
những sắc thái khác biệt, máu sắc và cảm xúc hoàn toàn khác biệt. “ Rằm xuân
lồng lộng trăng soi Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân” Bài thơ Rằm tháng


Giêng là khung cảnh đêm xuân thật rực rõ, đó là cái bát ngát, rợn ngợp mà
không kém phần sinh động, thi vị. Chỉ một từ láy “lồng lộng” thôi nhưng Hồ
Chí Minh đã gợi ra giới hạn vơ tận của không gian. Trong không gian rộng lớn
ấy, ánh trăng Rằm không chỉ soi chiếu lên vạn vật làm cho chúng trở lên sáng
rõ, tươi sắc hơn. Mà trên dòng sơng, ánh trăng dường như đã hịa vào làm một
với dòng nước, làm cho dòng nước ấy trở nên lộng lấy bởi sự kết hợp màu sắc
giữa bầu trời, ánh trăng và khơng khí của mùa xn, làm cho dịng sông mùa
xuân vốn tươi đẹp lại tràn ngập sắc “xuân”, làm cho không sáng đêm khuya
sáng bừng lên bởi vẻ đẹp của đất trời, của vạn vật. “Giữa dòng bàn bạc việc
quân Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” Nhân vật trữ tình trong bài thơ
này cũng khơng phải bơi thuyền trên sông để ngắm cảnh mà nhằm một mục
đích cao cả hơn, to lớn hơn, đó là “bàn việc quân”. Câu thơ gợi hình dung ra
hình ảnh của Bác với những người cộng sự của mình đang luận bàn việc nước,
những cơng việc có liên quan trực tiếp đến vận mệnh của một dân tộc. Khơng
khí họp bàn khá nghiêm tức nhưng lại không bị lên gân, cường điệu một cách

thái quá, điều này thể hiện được một tâm hồn tư thái, tinh thần bản lĩnh của
những người làm chủ. Đặc biệt trong câu thơ này cịn có sự kết hợp giữa cảnh
vật với lòng người “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Hình ảnh ánh
trăng ngân như báo hiệu một tương lai tươi sáng, rực rỡ của cách mạng, của đất
nước. Như vậy, ở trong cả hai bài thơ, Hồ Chí Minh đều thể hiện được tình yêu
đối với thiên nhiên, vạn vật và phương tiện để truyền tải tình u ấy chính là
ánh trăng, và troong cả hai bài thơ thì hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng
cũng hiện lên thật đẹp, dù có trăn trở suy tư hay thư thái, tự tin thì đều rất đáng
trân trọng, vì con người ấy dành trọn vẹn tình cảm, tâm hồn mình cho đất nước,
cho quê hương.



×