KHOA
«,;,(:'.'
;
íKỊRi
ÁY.
i
OA?-
H
CHI '
t
Ì
Mi
V
li
KI
,iỉ
Mì
ỉỉ
mằÈÈ
Tí-
LUẬN
TÓT
HI
tễ
ĩ
ỉ
p
NÂNG
m
li
m
Lực
CẠNH TRANH
Mầáềiáiấ au
mễ
VÍÊI
NArýi
ệ
ú
yiiụvhien
ỉ
!'!IẠM LÊ HOA
mMỆỆ
ì
Anh Ì
-
QTKD
KÍKrt
:
K41
1
]
Lí
fiífl
hừ^Rg
dần:ThS.
NGUYỄN
LỆ
HẰNG
TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
QUẢN
TRỊ
KINH
DOANH
CHUYÊN NGÀNH
KINH
DOANH
QUỐC TÊ
ca
EO BO
POREIGN TRADE
ÍINIVERÍI1Y
KHOA
LUẬN
TỐT
NGHIỆP
ĐỀ
TÀI:
CÁC
GIẢI
PHÁP NÂNG
CAO
NĂNG
Lực CẠNH
TRANH
CỦA
DOANH
NGHIỆP DỆT
MAY
VIỆT
NAM
Sinh
viên
thực
hiện
Lớp
Khoa
Giáo viên
hướng
dẫn
PHẠM
LÊ
HOA
ANH
Ì
-
QTKD
K41
ThS.
NGUYỄN
LÊ
HẰNG
HÀ
NỘI,
THÁNG
11/2006
MỤC LỤC
LỜI
NÓI ĐẨU
Ì
CHƯƠNG 1:
Cơ SỞ LÝ
LUẬN
VE
CẠNH TRANH
VÀ
NĂNG
Lực
CẠNH TRANH
3
ì.
KHÁI
NIỆM
CẠNH TRANH
3
1.
Khái niệm
3
2.
Phân
loại
cạnh
tranh
6
li.
KHÁI
NIỆM
NĂNG Lực
CẠNH TRANH
8
1.
Khái niệm
8
2.
Các
chỉ
tiêu phản ánh năng
lực
cạnh
tranh
9
3.
Các yếu
tôi
ảnh hưởng đến năng
lực
cạnh
tranh
li
3.1.
Các
yêu tố bên trong tạo
nên năng
lực
cạnh
tranh
của doanh
nghiệp
li
3.1.1.
Các
nguồn lực
hữu
hình
12
3.1.2.
Các
nguồn lực vô hình
12
3.2.
Các yểu
tó
bên
ngoài
ảnh
hưởng
đến
năng lực cạnh tranh
của
doanh
nghiệp
15
3.2.1.
Các
nhân
tố quốc
tế.
75
3.2.2.
Các
nhân
tố
trong nước
16
IU.
sự
CẦN
THIẾT
PHẢI
NÂNG
CAO
NĂNG Lực
CẠNH TRANH
CỦA
CÁC
DOANH
NGHIỆP
TRONG
GIAI
ĐOẠN
HIỆN
NAY 19
CHƯƠNG 2: ĐÁNH
GIÁ
NĂNG
Lực CẠNH TRANH
CỦA
CÁC
DOANH
NGHIỆP
DỆT
MAY
VIỆT
NAM 21
ì.
KHÁI QUÁT Vẻ NGÀNH DỆT
MAY
VIỆT
NAM 21
1.
Lịch
số hình thành và phát
triển
của ngành Dệt
may
Việt
Nam 21
/./
Những
năm
trước thời
kỳ
đổi
mới
21
1.2.
Từ năm
1986 cho đến
nay
22
2.
Vai
trò của ngành Dệt
may
trong
nền
kinh
tế
quốc dân
25
li.
ĐÁNH GIÁ NĂNG Lực
CẠNH TRANH CỦA
CÁC
DOANH
NGHIỆP
DỆT
MAY
VIỆT
NAM
TRONG
NHŨNG
NĂM
GAN
ĐÂY
29
1.
Năng
lực
sản
xuất
của
các
doanh
nghiệp dệt
may
Việt
Nam 29
2.
Nâng
lực
công
nghệ
30
3.
Các nguyên
liệu,
phụ
liệu
cung cấp
cho các
doanh
nghiệp dệt
may 31
4.
Tình hình
mẫu mốt
thời
trang
ở
Việt
Nam 33
5.
Nhãn mác
của
các
sản
phẩm
dệt
may 34
6.
Lao động và đào
tạo
35
7. Tình hình phát
triển
thị
trường của các
doanh
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam
trong
những
năm
gỞn đây
36
7.1.
Thị trường
Mỹ 36
7.2.
Thị trường
EU 39
7.3.
Thị trường Nhật
Bản 44
7.4.
Thị trường Canada
46
7.5.
Thị trường Đông
Âu 46
7.6. Thị trường Trung Đông
48
7.7.
Thị trường các nước khác trong
khu
vực châu
Á 57
HI.
CÁC NHÂN TỐ
ẢNH
HƯỞNG
ĐẾN NĂNG
Lực
CẠNH TRANH CỦA
CÁC
DOANH
NGHIỆP
DỆT
MAY
VIỆT
NAM 53
1.
Những
điểm
mạnh
và
điểm
yếu của
các
doanh
nghiệp dệt
may 53
2.
Các cơ
hội
và
thách
thức đối
vói các
doanh
nghiệp dệt
may
Việt
Nam
khi
gia
nhập
WTO 56
3.
Áp
lực
cạnh
tranh
từ
các nước
xuất
khẩu
hàng
dệt
may
khác
59
3.1.
Các
quốc gia châu
Á 59
3.2.
Các
nước Trung và Đòng
Âu 60
3.3.
Các
nước cháu
Mỹ 61
CHƯƠNG 3:
CÁC
GIẢI
PHÁP NÂNG
CAO
NĂNG
Lực CẠNH TRANH
CỦA
CÁC
DOANH
NGHIỆP
DỆT MAY
VIỆT
NAM 63
ì.
CHƯƠNG TRÌNH TĂNG
Tốc
PHÁT
TRIỂN
NGÀNH DỆT
MAY 63
1.
Quan
điểm
tăng
tốc
phát
triển
ngành
Dệt
may 63
2.
Mục
tiêu tăng
tốc
phát
triển
ngành Dệt
may
đến
năm
2010
65
3. Chuông trình tăng
tốc
đầu tư
của ngành
Dệt
may 66
li.
HỆ
THỐNG
CÁC
GIẢI
PHÁP
vĩ
MÔ
67
1.
Các
chính sách
kinh
tế vĩ
mô 67
1.1.
Chính sách thu
hút
vốn
đầu
tư và
sử
dụng
vốn có
hiệu
quả 67
1.2.
Chính sách
tỷ giá
hối đoái
69
1.3.
Chính sách
tín
dụng và
trợ
cấp xuất khẩu
70
2.
Các
chính sách thương
mại
71
3.
Tổ
chúc
tốt
hệ
thông thông
tin
và hỗ
trợ
doanh
nghiệp
trong
hoạt
động
tìm
hiểu
thị
trường
71
4.1.
Thị trường
Mỹ
74
4.2.
Thị trường
EU 74
4.3.
Thị trường Nhật
Bản 75
4.4.
Thị trường Đông
Ầu 75
4.5.
Thị trường Trung Đông
76
4.6.
Các
thị
trường khác
76
5.
Các
giải
pháp
về
quản lý điều hành
và
phát
triển
nguồn nhân
lực
77
ni.
HỆ
THỐNG
CÁC
GIẢI
PHÁP
VI
MÔ
78
1.
Đầu tư
đổi
mói
công nghệ
78
2.
Quy
hoạch
và
sứp xếp
lại
sản
xuất
80
3. Nâng cao năng
lục
quản lý
chất
lượng sản
phẩm
80
4.
Các
chiên lược
đào
tạo nguồn nhản
lực
81
5.
Tổ
chức sản
xuất
kinh
doanh
82
IV.
CÁC
KIẾN
NGHỊ
VÀ
ĐỀ
XUẤT
83
KẾT
LUẬN
86
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 87
LỜI
NÓI ĐẦU
Trong
quá trình Công
nghiệp
hoa
-
Hiện
đại
hoa và phát
triển
kinh
tế
của
nước
ta,
ngành
Dệt
may đóng một
vai
trò
rất
quan
trọng.
Bên
cạnh nhiệm
vụ
cung
cấp hàng hoa cho
thị
trường
trong
nước,
đáp ứng nhu cầu của nhân
dãn
thì
ngành
Dệt
may còn
tạo
điều
kiện
mở
rộng
thương
mại quốc
tế,
thu
hút
nhiều
lao
động,
tạo ra
ưu
thế
cạnh
tranh
cho
các
sản
phữm
xuất
khữu
và
mang
lại
nhiều
ngoại
tệ
cho
đất
nước.
Nhận
thức
được
"xuất
khữu
là
nhịp cầu
nối giữa Việt
Nam
với
các nước
trong
khu vực
và
thế
giới",
Nhà nước
ta
đã ngày càng có
nhiều
ưu
tiên
và
quan
tâm chú
trọng
đến sự phát
triển
của ngành Dệt may. Do vậy mà
những
năm
qua,
các
doanh
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam đã có
những
bước phát
triển
về
nhiều
mặt
từ đổi
mới
trang
thiết
bị
hiện
dại,
đào
tạo đội
ngũ cán bộ kỹ
thuật,
nâng
cao
trình
độ
đội
ngũ cán bộ
quản lý
thích ứng
với
cơ
chế
thị
trường,
nâng
cao
năng
suất,
chất
lượng,
cải
tiến
mẫu
mã
Tuy
nhiên,
liệu
ngành
Dệt
may
nước
ta trong
thời
gian
tới
có
tiếp
tục
phát
triển,
giữ
vững
được
vị trí là
một
trong
những
ngành công
nghiệp
xuất
khữu
mũi
nhọn
của nền
kinh
tế
hay
không
-
vấn
đề này
chỉ
có
thể
giải
đáp dựa trên
những
kết
quả nghiên cứu dự
báo
về
triển
vọng
thị
trường
thế
giới
của
mặt hàng này
cũng
như
những
lợi
thế
và năng
lực
cạnh
tranh
của
các
doanh
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam.
Xuất
phát
từ
tính cấp
thiết
nêu
trên,
em đã
lựa
chọn
đề
tài khoa
Khoa
luận tốt
nghiệp
là:
"Các
giải
pháp nâng cao năng
lực
cạnh
tranh
của doanh
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam"
Nội
dung của
Khoa
luận
tốt
nghiệp
gồm ba chương:
Chương
1:
Cơ
sở lý
luận
về cạnh
tranh
và năng
lực
cạnh
tranh
Chương
2:
Đánh
giá
năng
lực
cạnh
tranh
của
các
doanh
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam
Chương
3:
Các
giải
pháp nâng cao năng
lực
cạnh
tranh
của
các
doanh
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam
Ì
Khoa
luận
tốt
nghiệp sử
dụng
một
số
phương pháp
chủ yếu
như phương
pháp
duy
vật biện
chứng,
duy
vật
lịch
sử, tổng hợp, thống
kê các
số
liệu,
rồi
đi
sâu vào phân
tích
và
so
sánh
dể
giải
quyết
các yêu
cầu
mà để
tài đặt
ra.
Em
rạt
mong
nhận
được
sự
đóng góp và ý
kiến
quý báu
của các
thầy
cô
giáo.
Đổng
thời,
em
xin
chân thành cảm ơn công
lao
dạy dỗ
của
các
thầy
cô
giáo Trường
Đại học
Ngoại
thương
trong
hơn 4 năm em học
tập
tại
trường và
đặc
biệt
là
sự
hướng
dẫn, chỉ
bảo
tận
tình
của
cô
giáo,
Ths.Nguyễn
Lệ Hằng
cũng
như
sự hỗ
trợ
của
các cán bộ nhân viên Vụ
Xuạt
nhập
khẩu,
Vụ Âu Mỹ
-
Bộ Thương
mại,
Tập đoàn Dệt may
Việt
Nam
VINATEX
đã giúp em hoàn
thành Khóa
luận
tốt
nghiệp
này.
2
CHƯƠNG Ì
Cơ
SỞ LÝ
LUẬN
VỀ CẠNH TRANH
VÀ NĂNG
Lực CẠNH TRANH
ì. KHÁI NIỆM CẠNH TRANH
1.
Khái
niệm
Trước
Đại hội
Đảng
VI,
ở
nước
ta
thường dùng
thuật
ngữ
thi
đua, coi
thi
đua là một
khẩu
hiệu
hoạt
động.
Điều này
cũng
dễ
hiểu
vì
cơ
sở
kinh tế là
chế
độ công hữu về tư
liệu
sản
xuất
dưới
hai
hình
thức
là sở hữu toàn
dân và sở
hữu tập thể
chiếm
vị
trí tuyệt đối trong
xã
hội.
Chính
cơ
sở
kinh tế
đó
đã
sản
sinh ra
cơ
chế
quản
lý
kế
hoạch
hoa
tập trung,
quan
liêu,
bao
cấp.
Trong
hệ
thống
kinh tế
kế
hoạch
hoa
tập trung,
các chỏ
thể kinh tế
không
có
quyền
tự
do
quyết
định cái gì sẽ được sản
xuất,
cái gì sẽ được tiêu dùng.
Nhà
nước
giải
quyết
ba vấn dề
trung
tâm:
sản xuất
cái gì? sản
xuất
như
thế
nào? và phân
phối
cho ai?
và các cơ
sỏ
kinh tế chỉ
còn làm
cái
việc thi
đua
với
nhau
để
hoàn
thành kế
hoạch
Nhà
nước
giao.
Sau Đại hội
Đảng
VI,
nền
kinh tế
chuyển
dần
từ
cơ
chế kế
hoạch
hoa
tập trung
sang
cơ
chế thị
trường có sự
quản
lý
cỏa
Nhà
nước.
Theo cơ
chế
này,
cấc
doanh
nghiệp
phải tự
quyết
định ba vấn đề
trọng
tâm
trong kinh
doanh
với
mục đích
sinh
lời.
Vì
vậy,
sau
Đại hội
Đảng
VI,
chúng
ta thay thuật
ngữ
thi
đua
bằng
thuật
ngữ
thi
đua mang tính
chất kinh
doanh,
đó
là
cạnh
tranh
theo
pháp
luật
hay
cạnh
tranh
lành mạnh.
Các
học
thuyết kinh tế thị
trường,
dù là
trường
phái
nào
đều
thừa
nhận,
cạnh
tranh
chỉ
xuất hiện
và
tồn
tại
trong
nền
kinh tế thị
trường,
nơi
mà
cung-
cẩu
và
giá
cả
hàng hoa là
những
nhân
tố
cơ
bản
cỏa
thị
trường,
là
đặc trưng
cơ
bản cỏa
cơ
chế
thị
trường,
cạnh
tranh
là
linh
hổn
sống
cỏa
thị
trường.
Cạnh
tranh
là một
hiện
tượng
kinh tế -
xã
hội
phức
tạp,
do
cách
tiếp
cận
khác
nhau,
nên
có
các
quan
niệm
khác
nhau
về
cạnh
tranh,
đặc
biệt
là phạm
vi
cỏa thuật
ngữ
này.
Có
thể
dẫn
ra
như
sau:
3
Theo
Cấc Mác: "Cạnh
tranh
là sự
ganh
đua, sự đấu
tranh
giữa
các nhà
tư bản để giành
giật
những điều
kiện
thuận
lợi
trong
sản
xuất
và tiêu
thụ
hàng
hoa
để
thu
được
lợi
nhuận
siêu
ngạch".[12-13-].
Cuốn
Từ
điển
rút gọn về
kinh
doanh
định
nghĩa:
"Cạnh
tranh
là sự
ganh
đua,
sự kình
địch
giữa
các nhà
kinh
doanh
trên
thị
trường nhằm giành cùng
mầt
loại
tài nguyên sản
xuất
hoặc
cùng mầt
loại
khách hàng về phía
mình".
[Ì
2-14].
Theo
từ
điển
Bách
khoa
Việt
Nam
thì:
"Cạnh
tranh
(trong
kinh
doanh)
là
hoạt
đầng
ganh
đua
giữa
những
người
sản
xuất
hàng
hoa,
giữa
các thương nhãn,
các nhà
kinh
doanh
trong
nền
kinh tế thị
trường,
chi
phối
bởi
quan
hệ
cung
cầu
nhằm giành các
điều
kiện
sản
xuất,
tiêu
thụ
và
thị
trường có
lợi
nhất".
[6-27-]
Diễn
đàn cao cấp về
cạnh
tranh
công
nghiệp
của Tổ
chức
Hợp tác và
phát
triển
kinh
tế
(OECD)
cho
rằng:
"Cạnh
tranh
là khái
niệm
của
doanh
nghiệp,
quốc
gia
và vùng
trong việc tạo
ra
việc
làm và
thu
nhập
cao hơn
trong
điều
kiện
cạnh
tranh
quốc
tế".
[2].
Qua các định
nghĩa
trên,
có
thể
tiếp
cận
về
cạnh
tranh
như
sau:
- Thứ
nhất,
khi
nói đến
cạnh
tranh
là nói đến sự
ganh
đua nhằm giành
lấy
phần
thắng
của
nhiều
chủ
thể
cùng
tham
dự.
- Thứ
hai,
mục đích
trực
tiếp
của cạnh
tranh
là mầt
đối
tượng
cụ
thể
nào
đổ mà các bên đều
muốn
giành
giật
(mầt
cơ
hầi,
mầt
sản
phẩm, mầt dự
án
.)•
Mục đích
cuối
cùng là
kiếm
được
lợi
nhuận cao.
- Thứ
ba,
cạnh
tranh
diễn
ra
trong
mầt môi trường cụ
thể,
có các ràng
buầc chung
mà các bên
tham
gia
phải
tuân
thủ
như: đặc
điểm
sản phẩm,
thị
trường,
các
điều
kiện
pháp
lý,
các thông
lệ kinh
doanh
- Thứ
tư, trong
quá trình
cạnh
tranh
các chủ
thể
tham
gia
cạnh
tranh
có
thể
sử
dụng
nhiều
công cụ khác
nhau: cạnh
tranh
bằng
đặc tính và
chất
lượng
sản
phẩm,
canh
tranh
bằng
giá bán sản phẩm,
cạnh
tranh
bằng nghệ
thuật
tiêu
thụ
sản
phẩm,
cạnh
tranh
nhờ
dịch
vụ bán hàng
tốt,
cạnh
tranh
thông qua hình
thức
thanh
toán
4
Với
cách
tiếp
cận
trên,
khái
niệm
cạnh
tranh
có
thể hiểu
như
sau:
Cạnh
tranh
là
quan
hệ
kinh tế
mà ở đó các chủ
thể
kinh tế
ganh
đua
nhau
tìm mọi
biện
pháp,
cả
nghệ
thuật lẫn thủ
đoạn
để
đạt
mục tiêu
kinh tế
của
mình,
thông
thường
là
chiếm
lĩnh thị
trường,
giành
lấy
khách hàng
cũng
như các
điều
kiện
sản xuất
và
thị
trường có
lợi
nhất.
Mục đích
cuối
cùng của các chủ
thể kinh
tế
trong
cạnh
tranh
là
tối
đa hoa
lợi
ích. Đối
với
người
sản
xuất kinh
doanh
là
lợi
nhuận,
đối với
người
tiêu dùng là
lợi
ích tiêu dùng và sầ
tiện lợi.
Mục đích
trầc
tiếp
của các
hoạt
động
cạnh
tranh
trên
thị
trường của các
chủ thể kinh tế
là
giành
những
lợi
thế
để hạ
thấp
giá cả các yếu
tố
đầu vào của
các chu trình sản
xuất kinh
doanh
và nâng cao giá cả đầu
ra
sao cho mức
chi
phí
thấp
nhất
nhưng có
thể
giành được mức
lợi
nhuận
cao
nhất.
Bởi vậy,
thầc
chất
của vấn đề
cạnh
tranh
là vấn đề giành
lợi
thế
về giá cả hàng hoa
dịch
vụ
(mua- bán),
đó
cũng
chính là con
đường,
phương
thức
để giành
lấy
lợi
nhuận
cao
cho các chủ
thể kinh tế khi
tham
gia thị
trường.
Cạnh
tranh
tất
yếu dẫn đến hình thành "giá cả
trung
bình" và
"lợi
nhuận
bình quân" về
từng
loại
sản phẩm hàng
hoa, dịch
vụ trên
thị
trường.
Vì
thế,
các chủ
thể
kinh
tế
là
những
người
sản
xuất, kinh
doanh khi tham gia
thị
trường
với
tư cách là
người
mua thì
phải
tìm đủ mọi
thủ
pháp để có
thể
mua
được
hàng
hoa,
dịch
vụ
(cần
mua)
với
giá
thấp
hơn mặt
bằng
giá
trị
nói
chung
trên
thị
trường về cùng
chủng
loại,
chất
lượng hàng hoa để có
thể
hạ
tới
mức
thấp
nhất
giá thành sản
xuất
sản phẩm hàng hoa
dịch
vụ của mình. Ngược
lại
khi
họ
xuất hiện với
tư cách là
người
bán hàng hoa
dịch
vụ thì họ
phải
tìm đủ
mọi
cách để bán
với
giá cao hơn giá
chung
trên
thị
trường
hoặc
chí
ít
giá bán
đó
cũng
phải
bù đắp
chi
phí
sản
xuất,
lưu thông
của
họ.
Nếu
những
yêu cầu đó
không thành
hiện
thầc
thì họ sẽ bị
loại
ra khỏi thị
trường,
bị
loại
ra
khỏi
cạnh
tranh
và
nguy
cơ dẫn đến phá sản
doanh
nghiệp
là khó tránh
khỏi.
Đối với
người
tiêu dùng
cũng
vậy,
nếu họ không có đủ sức mua và quỹ mua để
trả
"giá
cân
bằng"
trên
thị
trường thì họ
cũng
bị
loại
ra khỏi thị
trường.
5
2.
Phân
loại
cạnh
tranh
Cạnh
tranh
được phân thành
nhiều
loại
với
các tiêu
thức
khác
nhau:
-
Dưới
góc độ các chủ
thể
kinh
tế tham gia thị
trường,
có
cạnh
tranh
giữa
những
nhà sản
xuất
(người
bán)
với nhau,
giữa
những người
mua và
người
bán,
người
sản
xuất
và
người
tiêu dùng, và
giữa
những người
mua
với
nhau.
Ở đây
cạnh
tranh
xoay quanh
vấn
đề:
chất
lượng
hàng
hoa,
giá cả và các
điều
kiện
dịch
vụ.
- Xét
theo
quy mô của
cạnh
tranh
có:
cạnh
tranh
của sản phẩm,
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
và
cạnh
tranh
của
quực
gia.
- Xét
theo
tính
chất
của phương
thức
cạnh
tranh
có: cạnh
tranh
hợp pháp
hay cạnh
tranh
lành
mạnh
(biện
pháp
cạnh
tranh
phù hợp
với
pháp
luật,
tập
quán,
đạo đức
kinh
doanh)
và
cạnh
tranh
bất
hợp pháp hay
cạnh
tranh
không
lành
mạnh
(biện
pháp
cạnh
tranh
bằng những thủ đoạn,
không hợp pháp và
trái
với
chuẩn
mực đạo đức
trong kinh
doanh).
- Xét
theo
hình thái của
cạnh
tranh
có:
cạnh
tranh
hoàn
hảo,
hay
thuần
tuy-
đây là tình
trạng
cạnh
tranh trong
đó giá cả của một
loại
hàng hoa là
không
thay đổi
trong
toàn bộ
thị
trường,
bởi
vì
người
mua,
người
bán đều
biết
tường
tận
về các
điều
kiện
của
thị
trường;
và
cạnh
tranh
không hoàn
hảo-
đây
là hình
thức
cạnh
tranh
chiếm
ưu
thế
trong
các ngành sản
xuất
mà ở đó
người
bán
hoặc
sản
xuất
có đủ sức
mạnh
và
thế lực
có
thể
chi phựi
được giá cả sản
phẩm của mình trên
thị
trường.
Trong cạnh
tranh
không hoàn hảo có
hai
loại:
độc quyền
nhóm và
cạnh
tranh
mang
tính độc
quyền.
-
Dưới
góc độ các công
đoạn
của sản
xuất
-
kinh
doanh, người ta
cho
rằng
có ba
loại
cạnh
tranh:
cạnh
tranh
trước
khi
bán hàng,
cạnh
tranh trong
quá trình bán hàng và
cạnh
tranh
sau
khi
bán hàng. Cạnh
tranh
này
thể
hiện
qua
phương
thức thanh
toán và
dịch
vụ.
- Xét
theo
mục tiêu
kinh
tế
của các chủ
thể
trong
cạnh
tranh,
có
cạnh
tranh trong
nội
bộ ngành và
cạnh
tranh
giữa
các ngành. Đây là cách phân
loại
cạnh
tranh
của Các Mác dựa trên cơ sở
khoa
học của các phạm trù giá
trị
thị
6
trường,
giá cả
sản
xuất
và
lợi
nhuận
bình
quân.
Cạnh
tranh trong nội
bộ ngành
là sự
cạnh
tranh giữa
các
doanh
nghiệp
cùng sản
xuất
và tiêu
thụ
một
loại
hàng hoa
hoặc dịch
vụ nào
đó.
Cạnh
tranh trong nội
bộ ngành dẫn đến sự hình
thành giá cả đồng
nhất
đối vắi
hàng hoa
dịch
vụ cùng
loại
trên cơ sở giá
trị
xã
hội
của hàng hóa
dịch
vụ dó.
Trong
cuộc cạnh
tranh
này, các
doanh
nghiệp
thôn tính
lẫn
nhau.
Doanh
nghiệp
chiến
thắng
sẽ mở
rộng
phạm
vi
hoạt
động
của
mình trên
thị
trường,
những doanh
nghiệp
thua
cuộc
sẽ
phải
thu
hẹp
kinh
doanh,
thậm
chí
bị
phá
sản;
Cạnh
tranh giữa
các nhà
sản
xuất
là cuộc
dấu
tranh
giữa
cấc
nhà
doanh
nghiệp
sản
xuất,
mua bán hàng
hoa,
dịch
vụ
trong
các ngành
kinh tế
khác
nhau
nhằm
thu
lợi
nhuận
và có
tỷ
suất
lợi
nhuận
cao hơn so
vắi
vốn
đã bỏ
ra
và đầu tư vốn vào ngành có
lợi
nhất
cho sự phát
triển.
Sự
cạnh
tranh
giữa
các ngành dẫn đến
việc
các
doanh
nghiệp
luôn tìm
kiếm
những
ngành
đầu
tư có
lợi
nhất
nên đã
chuyển
vốn
từ
ngành ít
lợi
nhuận sang
ngành có
nhiều
lợi
nhuận.
Sau một
thời
gian
nhất
định,
sự
điều chuyển tự
nhiên
theo
tiếng
gọi
của
lợi
nhuận
này vô hình
chung
hình thành nên sự phân
phối
vốn
hợp
lý
giữa
các ngành sản
xuất,
dẫn đến
kết
quả
cuối
cùng là các chủ
doanh
nghiệp
đầu tư ở các ngành khác
nhau
vắi
số vốn
bằng nhau
chỉ
thu
được
lợi
nhuận
như
nhau.
- Xét
theo
phạm
vi
lãnh
thổ,
có
cạnh
tranh trong
nưắc và
cạnh
tranh
quốc
tế.
Cạnh
tranh
quốc tế
có
thể
diễn
ra ngay
ở
thị
trường
nội địa,
đó là
cạnh
tranh giữa
hàng hoa
trong
nưắc sản
xuất
vắi
hàng hoa
ngoại
nhập.
Cạnh
tranh kinh tế
quốc
tế
là
cạnh
tranh kinh tế
đã
vượt ra
khỏi
phạm
vi
quốc
gia,
tức
là
cạnh
tranh giữa
các chủ
thể kinh tế
trên
thị
trường
thế
giắi.
Sở dĩ như
vậy
là do tác động của
cuộc
cách
mạng
khoa học-
công
nghệ,
phân công
lao
động
quốc
tế
đã phát
triển
sâu,
rộng,
sự phát
triển
lực
lượng
sản
xuất
xã
hội
có tính
chất
quốc
tế
và do quá trình mở
rộng
thị
trường trên quy mô toàn
thế
giắi.
Chủ
thể
trực
tiếp
tham gia
vào
cạnh
tranh
quốc
tế,
trưắc
hết,
là các
doanh
nghiệp,
bởi
lẽ,
doanh
nghiệp
là chủ
thể
trực
tiếp
thực
hiện việc
sản
xuất
kinh
doanh
hàng hoa và
dịch
vụ.
7
li.
KHÁI
NIỆM
NÂNG Lực
CẠNH TRANH
1. Khái niệm
Trên
thực tế
đang
tổn
tại
nhiều
quan
niệm
khác
nhau
về năng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp.
Song
tựu chung
lại,
khi
tiếp
cận năng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp,
cần chú
ý
tới
bốn vấn
đề cơ
bản sau:
- Một
là,
trong
điều
kiện kinh
tế
thị
trường,
phải lấy
yêu cầu của khách
hàng
là
chuẩn
mực
đánh giá năng
lực cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp.
Bởi
lẽ,
yêu cầu của khách hàng vợa là
mục
tiêu,
vợa là động
lực
của sản
xuất,
kinh
doanh.
Cùng một
loại
sản phàm, các nhóm khách hàng khác
nhau
có
yêu cầu
rất
khác
nhau.
- Hai là, yếu tố
cơ
bản tạo
nên
sức
mạnh
trong việc
lôi
kéo
khách
hàng
phải
là
thực
lực
của
doanh
nghiệp.
Thực lực
này
chủ yếu được tạo
thành
tợ những
yếu
tố
nội
tại
của
doanh
nghiệp
và
được
thể
hiện
ở uy tín
của
doanh
nghiệp.
-
Ba
là, khi
nói
tới
nâng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
luôn
hàm ý so
sánh
với
các
đối thủ cạnh
tranh
trên
thị
trường.
Muốn
tạo
nên
năng
lực cạnh
tranh
thực
thụ,
doanh
nghiệp phải tạo
nên
lợi
thế
so
sánh so
với
các
đối thủ
cạnh
tranh.
Chính nhờ
lợi
thế
này,
doanh
nghiệp
có
thể giữ
được khách hàng của
mình và
lôi
kéo khách hàng của
cấc
đối thủ
cạnh
tranh.
-
Bốn
là,
các
biểu hiện
năng
lực cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
có
quan
hệ
ràng
buộc nhau.
Một
doanh
nghiệp
có năng
lực
cạnh
tranh
mạnh
khi
nó có
khả
năng
thoa
mãn
đầy
đủ
nhất
tất
cả
những
yêu
cầu của khách hàng.
Song
khó có
doanh
nghiệp
nào
có
thể dạt
được yêu cầu
này,
thường thì có
lợi
thế
về
mặt
này,
lại
có
thế
yếu về mặt
khấc.
Bởi
vậy,
việc
đánh giá đúng đắn
những
mặt
mạnh
và mặt yếu của
tợng
doanh
nghiệp
có
ý
nghĩa
trọng
yếu
với
việc
tìm
các
giải
pháp tăng
cường
năng
lực
cạnh
tranh.
-
Do
dó,
có
thể
hiểu:
Năng
lực cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
thể
hiện
thực
lực
và
lợi
thế
của
doanh
nghiệp
so
với
các
đối thủ cạnh
tranh
khấc
trong
8
việc
thoa
mãn
tốt
nhất
các đòi
hỏi
của khách hàng để
thu
lợi
ích ngày càng
cao
cho
doanh
nghiệp
trong
môi trường
cạnh
tranh trong
nước và
quốc
tế.
2.
Các
chỉ
tiêu
phản
ánh năng
lực
cạnh
tranh
Cho đến nay đã có
rất
nhiều
công trình nghiên cứu đưa
ra
các hệ
thống
chỉ
tiêu khác
nhau phản
ánh năng
lực
cạnh
tranh
của một
doanh
nghiệp.
Theo quan
điểm
của M.
Porter,
năng
lực
cạnh
tranh
dựa vào các
chỉ
tiêu
phản
ánh sức
mạnh
nguồn
lực.
Theo quan
điểm
tân cẩ
điển,
năng
lực cạnh
tranh
dựa vào các chỉ tiêu
phản
ánh
chi
phí và năng
suất
lao
động.
Theo quan
điểm
tẩng
hợp, năng
lực cạnh
tranh
dựa vào các chỉ tiêu
phản
ánh về
lợi
nhuận
và
thị
phẩn.
Tuy
nhiên, năng
lực cạnh
tranh
của một
doanh
nghiệp
là chỉ tiêu
tẩng
hợp
từ
nhiều
chỉ
tiêu khác
nhau,
vì
vậy, việc
đưa
ra
một hệ
thống
chỉ
tiêu
nhất
định
làm cơ sở so sánh năng
lực
cạnh
tranh giữa
các
doanh
nghiệp
khác
nhau
là
rất
khó.
Hệ
thống
chỉ
tiêu mang tính
tẩng
hợp toàn
diện
bao gồm bốn nhóm chỉ
tiêu
sau:
* Nhóm
chỉ
tiêu
phản
ánh
hiệu
quả
kinh
doanh
Với
nghĩa
thông
thường,
hiệu
quả
kinh
doanh
của một
doanh
nghiệp
được
hiểu
là mức chênh
lệch giữa
đầu
ra
và đầu
vào.
Giá
trị
đầu vào được xác
định
bởi
các nhân
tố tham
gia
vào quá trình sản
xuất
như
lao
động, đất
đai,
quản lý,
công
nghệ
Giá
trị
đầu
ra
được xác định
bởi
giá bán các sản phẩm
và
dịch
vụ mà
doanh
nghiệp
đó
cung
ứng ra
thị trường.
Một
doanh
nghiệp
kinh
doanh
hiệu
quả là
doanh
nghiệp
có khả năng tăng mức chênh
lệch
giá
trị
đầu
ra
so
với
giá
trị
đầu vào càng
lớn.
-
Chỉ
số
ROA
ROA =
Lợi
nhuận
sau
thuế/
Tẩng
tài sản có
Chỉ số RŨA
(return
ôn
asset)
cho nhà phân tích
thấy
được khả năng
của
doanh
nghiệp
trong việc tạo ra thu
nhập từ tài sản có.
Nói cách
khác,
ROA
9
giúp nhà phân tích xác định
hiệu
quả
kinh
doanh
tính trên Ì đồng tài sản có.
RŨA
lớn chứng tỏ
hiệu
quả
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
tốt,
doanh
nghiệp
có cơ cấu tài sản hợp
lý.
Tuy nhiên, nếu RŨA quá
lớn,
nhà phân tích sẽ lo
lắng
vì
rủi
ro
luôn
song
hành cùng
với
lợi
nhuận.
Vì
vậy,
việc
so sánh ROA
giữa
các kỳ
hạch
toán là
rất
cựn
thiết,
nó giúp cho nhà phân tích có
thể
rút
ra
nguyên nhân thành công hay
thất
bại
của
doanh
nghiệp.
-
Chỉ
số
ROE
ROE =
Lợi
nhuận
sau
thuế/
Vốn
tự
có
ROE
(retum
ôn
equity)
là
chỉ
số đo
lường
hiệu
quả sử
dụng
của Ì đồng
vốn tự
có.
Nó cho
biết lợi
nhuận
sau
thuế
mà các cổ đông có
thể
nhận
được từ
việc
đựu tư vốn của mình. Nếu ROE quá
lớn
so
với
ROA
chứng
tỏ vốn của
doanh
nghiệp
chiếm
tỷ
trọng
nhỏ so
với
vốn huy động và vốn đi
vay.
-
Chỉ
số
COI
COI =
Tổng
chi
phí/
Tổng
thu
nhập
Chỉ số COI
(cost
ôn
income)
tính toán khả năng bù đắp
chi
phí
từ
các
nguồn
thu
nhập
của
doanh
nghiệp.
Đây
cũng
là
chỉ
số đo
lường
hiệu
quả
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp.
Thông
thuồng,
chỉ số này
phải
nhỏ hơn
1.
Nếu COI
lớn
hơn Ì
chứng tỏ doanh
nghiệp hoạt
động kém
hiệu
quả và đang có
nguy
cơ
phá sản
trong
tương
lai.
* Nhóm
chỉ
tiêu
phản
ánh mức độ
thoa
mãn của khách hàng
Đây là nhóm chỉ tiêu mang tính
tổng
hợp
nhất
và có
thể
nói là
quan
trọng
nhất theo
quan
điểm
Marketing,
vì suy cho cùng, các
doanh
nghiệp
cạnh
tranh
với
nhau
là để
thu
hút được
nhiều
khách hàng thông qua
việc
thoa
mãn
tốt
nhất
nhu cẩu của
họ.
Nhìn
chung,
khách hàng sẽ cảm
thấy
hài lòng
khi
họ
nhận
được sản phẩm,
dịch
vụ đúng (đáp ứng đúng mục đích
giao dịch), chất
lượng
đúng (như họ mong
đợi),
giá cả đúng
(họ
cho
rằng
hợp
lý)
và
thời
gian
đúng (không quá
lâu).
Nhóm chỉ tiêu này chủ yếu được đánh giá
theo
khía
cạnh
kết
quả của vấn
đề,
cụ
thể
là:
- Tốc độ tăng
trưởng/
suy giảm
số
lượng
khách hàng, và
10
- Tốc độ tăng
trưởng/
suy giảm
thị
phẩn.
* Nhóm
chỉ
tiêu
phản
ánh
chất
lượng hàng
hoa, dịch
vụ
Chất
lượng hàng
hoa, dịch
vụ luôn là vấn đề
quan
tâm của mọi
doanh
nghiệp.
Vì
vậy, chất
lượng hàng
hoa, dịch
vụ ngày nay không đơn
giản
là một
lợi
thế
cạnh
tranh
mà nó
mang
ý
nghĩa sống
còn
đối với
mổi
doanh
nghiệp.
Các công trình trước đây về
chất
lượng hàng
hoa,
dịch
vụ đều đi đến
hai
kết luận
cơ
bản,
đó là
chất
lượng hàng
hoa, dịch
vụ của
doanh
nghiệp
được
đánh giá
theo
quan
điểm
chủ
quan
của khách hàng; và
chất
lượng hàng hoa,
dịch
vụ của
doanh
nghiệp
được khách hàng đánh giá chủ yếu dựa trên các tín
hiệu
vô hình
trong
quá trình
giao
dịch
như sự
tin
cậy,
sự cảm
tình,
sự
thuận
tiện
và sự thông cảm.
* Nhóm
chỉ
tiêu
phản
ánh tính
đổi
mới
trong
hoạt
động
kinh
doanh
Quá trình
cạnh
tranh
thực
chất
là quá trình
đổi
mới
hoạt
động của
doanh
nghiệp
sao cho phù hợp
nhất
với thị
trường.
Do
thị
trường luôn
thay đổi,
vì vậy
khả
năng
đổi
mới
linh
hoạt
trở
thành
chỉ
tiêu
phản
ánh khả năng
cạnh
tranh
của
các
doanh
nghiệp.
Thực
tế
cho
thấy,
các
đổi
mới
tuy
không
phải
lúc nào
cũng
gặt
hái được thành công,
song
một
doanh
nghiệp
không
thể
được
coi
là có khả
năng
cạnh
tranh
nếu luôn
giữ
nguyên tình
trạng kinh
doanh
của mình
trong khi
các
lực
lượng
cạnh
tranh
luôn phát
triển
sôi động không
ngừng.
Nói cách khác,
chỉ
tiêu
đổi
mới là chỉ tiêu
quan
trọng
phản
ánh khả nàng
cạnh
tranh
của các
doanh
nghiệp,
bao gồm
số
lượng hàng
hoa,
dịch
vụ
mới,
số
lượng
địa
điểm
phân
phối
mới và
những
thay đổi
khác
trong
quá trình
cung
ứng sản phẩm, cơ
cấu tổ
chức,
chiến
lược
kinh
doanh,
hệ
thống
quản
lý
3.
Các
yếu
tố
ảnh hưởng đến năng
lực
cạnh
tranh
3.1.
Các
yếu
tố
bên
trong
tạo
nên năng
lực
cạnh
tranh
của doanh
nghiệp
Năng
lực cạnh
tranh
thể
hiện
thực
lực
và
lợi
thế
riêng của mổi
doanh
nghiệp,
vì
vậy,
cấc yếu
tố tạo
nên năng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
phải
là các yếu
tố
thuộc
môi trường bên
trong,
là các
nguồn
lực
khác
nhau
mà bản
thân mổi
doanh
nghiệp
phải
tìm cách nâng cao các yếu
tố
đó để
tạo
nên năng
lực
cạnh
tranh.
li
Có
nhiều
cách phân
loại
các yếu
tố
nguồn
lực
khác
nhau
trong
bản thân
mỗi
doanh
nghiệp,
song
nhìn
chung
đều quy về
hai
loại:
nguồn
lực
hữu hình
và
nguồn
lực
vô hình.
- Nguồn
lực
hữu hình được
hiểu
là các
nguồn
lực
có
thể
nhìn
thấy
được
và lượng hoa được như các tài sản
đất
đai, vốn,
máy móc,
thiết
bị
- Nguồn
lực
vô hình được
hiểu
là
các
nguồn
lực
không
thể
nhìn
thấy
được
và
việc
đánh giá
chủ yếu bằng
phương pháp định
tính,
khó định lượng như các ưu
thế
về
sự khác
biệt
của các
sản
phẩm, trình độ công
nghệ,
chất
lượng công nhân,
uy
tín
đối vọi
công
chúng,
năng
lực
quản
trị
của
ban lãnh
đạo
3.1.1.
Các nguồn
lực
hữu hình
- Quy mô của doanh
nghiệp.
Trong
nền
kinh tế hội
nhập,
yếu
tố
vốn đối
vọi
doanh
nghiệp
trở
nên
rất
quan
trọng,
nó là cơ sở để
doanh
nghiệp
có
thể
tiến
hành
thực
hiện
tốt
các
nội
dung
hoạt
động
của
mình,
là
cơ
sở
để
doanh
nghiệp
phát
triển
và mở
rộng
quy mô sản
xuất
kinh
doanh, tạo
lợi
thế
cạnh
tranh
so
vọi
các
doanh
nghiệp
khác
trong
khu vực
và
thế
giọi.
Đặc
biệt
đối vọi
doanh
nghiệp
thương
mại,
quy mô về vốn
lọn
sẽ là cơ
sở,
nền
tảng
để
doanh
nghiệp
tiến
hành các
hoạt
động
sản
xuất
kinh
doanh của
mình nhằm
huống
tọi lợi
nhuận cao
nhất
có
thể.
Còn
nếu
doanh
nghiệp
tham
gia vọi
quy mô nhỏ
thì
phải
chấp nhận
bất
lợi
về
chi
phí,
do
đó
rất
khó có
thể
cạnh
tranh
vọi
các
doanh
nghiệp
khác trên
thị
trường.
- Trình độ công nghệ. Tình
trạng
máy móc
thiết
bị và công
nghệ
có
ảnh
hưởng một cách sâu sắc
tọi
năng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp.
Nó là
yếu tố vật chất
quan
trọng
bậc
nhất thể
hiện
năng
lực
sản
xuất
của một
doanh
nghiệp
và tác động
trực
tiếp tọi
chất
lượng sản phẩm. Ngoài
ra,
công
nghệ
sản
xuất,
máy móc
thiết
bị
cũng
ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm.
Một doanh
nghiệp
có
trang
thiết
bị máy móc
hiện
đại
thì sản phẩm của họ
nhất
định có
chất
lượng
cao.
Ngược
lại,
không có một
doanh
nghiệp
nào có
thể
nói là có năng
lực
cạnh
tranh
cao
khi
mà
trong
tay
họ là cả hệ
thống
máy
móc
cũ
kỹ
lạc
hậu.
3.1.2.
Các nguồn
lực
vô hình
12
- Năng lực quản lý và điều hành kinh doanh. Do môi trường
kinh
doanh
luôn ớ
trạng
thái không ổn
định,
thay đổi
một cách chóng
mặt,
đòi hòi
các
doanh
nghiệp
muốn
tồn
tại
và phát
triển
được
phải
linh
động thích úng
với
các
biến
động
đó,
nếu không
doanh
nghiệp
sẽ
trở
thành
lạc
hậu và bị
loại
khỏi
cuộc.
Nhu cụu luôn
thay đổi,
vòng
đời
sản phẩm bị rút
ngắn,
các sản phẩm
thay
thế
liên
tục
xuất
hiện
với chất
lượng,
mụu mã, công
dụng
cao hơn. Do
vậy,
năng
lực cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
được đánh giá
bởi
sự
linh
hoạt
và
biết
thực
hành của
doanh
nghiệp
để luôn đáp úng được nhu cụu luôn
thay
đối
của thị
trường.
Sự
linh
hoạt
và
biết
thực
hành
trong
quản
lý sẽ
giảm
được
tỷ lệ
chi
phí
quản
lý
trong
giá thành sản phẩm, qua đó nâng cao năng
lực cạnh
tranh
của sản phẩm và của
doanh
nghiệp.
- Chất lượng đội ngũ lao động, cán bộ quản
lý.
Đây là yêu tô
quyết
định
hiệu
quả sản
xuất
kinh
doanh,
qua đó ảnh
hướng
đến năng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp.
Trình độ, năng
lực
của các thành viên
trong
ban giám đốc
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
kết
quả
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp.
Nếu các thành
viên có trình
độ,
có khả năng đánh
giá,
có mối
quan
hệ
tốt
với
bên
ngoài,
giàu
kinh
nghiệm
và năng
động,
thì họ sẽ đem
lại
cho
doanh
nghiệp
không
những
lợi
ích trước
mắt,
như tăng
doanh
thu,
lợi
nhuận
mà còn đem
lại
cả uy tín và
lợi
ích lâu dài cho
doanh
nghiệp.
Đây mới là yếu
tố
quan
trọng
tác động đến
năng
lực cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp.
Ngoài
ra,
trình độ
tay nghề,
chuyên
môn
nghiệp
vụ của
người
lao
động và lòng hăng say làm
việc
của họ
cũng
là
một
yếu
tố
tác động
mạnh
mẽ đến sức
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp.
Bới
vì
khi
tay
nghề cao,
chuyên môn cao
cộng
thêm lòng hăng say
nhiệt
tình
lao
động
thì tăng năng
suất
lao
động là
tất
yếu.
Đây là
tiền
đề để
doanh
nghiệp
có
thế
tham
gia
và đứng
vững
trong
cạnh
tranh.
- Quản
trị
chất lượng và hệ thống kiểm soát
Quản
trị
chất
lượng.
Ngày
nay,
trong
mói trường
cạnh
tranh
ngày càng
trở
nên gay
gắt
do xu
hướng
toàn cụu hoa
mang
lại,
các
doanh
nghiệp
muốn
gặt
hái thành công không
thể
không
đổi
mới
cung
cách sản
xuất
và quán
trị
doanh
nghiệp,
đặc
biệt
là cách
thức
quản
trị
chất
lượng.
Một hệ
thống
quán
trị
13
chất
lượng
tốt
sẽ giúp cho ban lãnh đạo luôn ở
thế
chủ
động,
không bị rơi vào
thế
lúng túng
khi
môi trường
kinh
doanh
thay
đổi,
đồng
thời
có khả năng sử
dụng
các
nguồn
lực
của
doanh
nghiệp
một cách
hiệu
quả
nhất.
Hệ thống kiểm
soát.
Hệ
thống kiọm
soát
doanh
nghiệp
là một bộ
phận
không
thọ
thiếu
được
trong
toàn bộ quá trình
quản
trị
chất
lượng
vì nó sẽ giúp
ban
lãnh đạo
doanh
nghiệp
biết
được
những
điọm
mạnh
và
điọm
yếu của
loại
chiến
lược
kinh
doanh (bao
gồm cả
chiến
lược
cạnh
tranh)
đang
lựa
chọn,
từ
đó tìm cách
điều chỉnh,
thúc đẩy
hoạt
động của toàn bộ
doanh
nghiệp
một
cách thành công hơn.
- Khả năng nắm bắt thông
tin.
Ngày
nay,
sự bùng nổ của
cuộc
cách
mạng
thông
tin,
tin
học đã
khẳng
định
vai
trò
to
lớn
của thông
tin.
Thông
tin
về thị
trường mua, bán, thông
tin
về tâm lý và
thị
hiếu
khách hàng, về giá cả,
đối
thủ
cạnh
tranh
có ý
nghĩa quan
trọng
đến
việc
ra
quyết
định
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp.
Đủ thông
tin
và xử
lý
đúng thông
tin,
một mặt giúp cho
doanh
nghiệp
hạn chế được
rủi
ro
trong kinh
doanh,
mặt
khác,
thông qua thông
tin
có
thọ
tìm và
tạo
ra
lợi
thế
so sánh của
doanh
nghiệp
trên thương
trường,
chuẩn
bị
dưa
ra
đúng
thời
điọm
những sản
phẩm mới
thay thế
đọ tăng
cường
năng
lực
cạnh
tranh
của
hàng
hoa.
Trong
khi
thông
tin
đủ,
đúng có
thọ
thúc đẩy
thị
trường một
cách tích cực thì
việc
bưng bít thông
tin
lại
tạo ra những
nhu cẩu
giả
tạo
và
những
hành
vi
cạnh
tranh
sai
trái làm
biến
dạng
thị
trường.
- Khả năng hợp tác hữu hiệu với các doanh nghiệp hữu quan. Tình
trạng
cạnh
tranh
quá gay
gắt
trong
thị
trường
nội
địa
cũng
như trên
thị
trường
thế
giới
sẽ làm
giảm
đáng kọ khả năng
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp,
đặc
biệt
là
doanh
nghiệp
của các nước kém
hoặc
đang phát
triọn.
Do
đó,
cẩn phát huy
vai
trò của các
hiệp
hội
ngành hàng,
tạo
thành sự đồng
nhất chật
chẽ
khi
mở
rộng
kinh
doanh
ra thị
trường
thế
giới
nhằm nâng cao năng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp.
- Danh tiêng và uy
tín
của doanh nghiệp. Danh tiêng và uy tín của
doanh
nghiệp
tuy
thuộc
nguồn lực
vô hình
song
có giá
trị
lớn lao
trong việc
tạo
nên năng
lực cạnh
tranh
cho các
doanh
nghiệp.
Danh
tiếng
và uy tín của
14
doanh
nghiệp
được
tạo
nên
từ
chính mức độ
thoa
mãn của khách hàng
trong
những lần
giao
dịch trước,
từ
những
người
quen
biết
truyền
miệng, quảng
cáo
Đế
tạo
được uy tín và
danh
tiếng,
các
doanh
nghiệp
phải
có một quá
trình lâu dài xây
dựng
và
bồi
đắp công
phu.
Trong
khi
đó,
uy tín và
danh
tiếng
lại
có
thẩ
bị mất đi
trong
một
khoảng
thời
gian
ngắn.
Kết quả nghiên cứu của
Viện
nghiên cứu Quản lý
Kinh
tế
Trung
ương và Chương trình phát
triẩn
liên
Hợp Quốc công bố năm
2002
cho
thấy,
Ì khách hàng không hài lòng
với
sán
phẩm
dịch
vụ mà mình đã tiêu dùng sẽ nói
lại
với
11 khách hàng khác
trong
khi
Ì khách hàng
thỏa
mãn chỉ nói
lại
với
5 khách hàng.
Điều
đó nói lên
vai
trò
quan
trọng
của
danh
tiếng
và uy tín của
doanh
nghiệp
trong việc
thu
hút
khách hàng.
- Môi trường văn hoa trong doanh nghiệp. Không khí làm
việc trong
doanh
nghiệp,
động cơ cá nhân của mỗi thành viên và
chất
lượng
của con
người
là một nhân
tố
quan
trọng trong
cạnh
tranh.
Sức
mạnh
của doanh
nghiệp
không phái chỉ
tổn
tại trong
một số cá nhân hay một nhóm mà
trong
sự đoàn
kết,
nhất
trí
hết
mình vì sự
sống
còn của
doanh
nghiệp.
Một mồi trường làm
việc
tốt,
một
tinh
thẩn
làm
việc
vì
tập thế
sẽ
tạo
động
lực
mạnh
mẽ cho sự phái
triến
của
doanh
nghiệp.
3.2. Các yêu tô bên ngoài ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
3.2.1.
Các nhân tố quốc tế
* Các nhân tô chính
trị:
- Mối
quan
hệ
giữa
các Chính
phủ:
Khi các mối
quan
hệ
trớ
nén thù
địch,
thì sự mâu
thuẫn
giữa hai
Chính phủ có
thế
hoàn toàn phá huy các mối
quan
hệ
kinh
doanh
giữa
hai nước.
Nếu mối
quan
hệ chính
trị
song
phương
được
cải
thiện
sẽ thúc đẩy thương mại phát
triẩn,
tạo điẩu
kiện
thuận
lợi
cho
các
doanh
nghiệp
trong kinh
doanh.
- Các
tổ chức quốc
tế
cũng
đóng
vai
trò
quan
trọng trong
sự phát
triẩn
và vận
dụng
các chính sách
biẩu
lộ nguyện vọng
chính
trị
của các
quốc gia
thành viên.
15
- Hệ
thống
luật
pháp
quốc
tế,
những
hiệp
định
thỏa
thuận
được một
loạt
các
quốc
gia
tuân
thủ
có ảnh hưởng sâu
rộng
đến
hoạt
động
kinh
doanh quốc
tế.
Mặc dù có
thể
chúng không ảnh hưởng
trực tiếp
tới
tổng
doanh
nghiệp
riêng
lẻ,
nhưng chúng tạo ảnh hưởng gián
tiếp
thông qua
việc
tạo ra môi
trường
kinh
doanh quốc
tế
ổn định và
thuận
lợi.
* Xu hướng
phất
triển
và
hội
nhập
kinh tế
khu
vực và toàn cầu hóa:
Xu hướng
hội
nhập
kinh tế
vùng,
khu vực có ảnh hưởng
quan
trọng
đối
với
các
doanh
nghiệp
đang
hoạt
động
trong
các
thị
trường khu
vực.
Hội
nhập
kinh tế diễn
ra
dưới
nhiều
hình
thức
khác
nhau,
nhưng đặc
biệt
tập
trung
vào
vấn
để hợp tác
kinh tế,
được
thiết
lập
để mang
lại
sự phụ
thuộc
kinh
tế
lẳn
nhau
nhiều
hơn
giữa
các
quốc
gia.
Hội nhập
giúp quá trình lưu thông hàng hoa
giữa
các nước ngày càng
phất
triển,
vì
những
trở ngại
như
thuế
quan, thủ tục
xuất
nhập
khẩu,
các hạn
chế
mậu
dịch
được cố
gắng giảm
thiểu,
thành
tựu
khoa
học kỹ
thuật
được sử
dụng
tối
ưu và có
hiệu
quả hơn.
*
Đối thủ
cạnh
tranh
quốc
tế:
Ngày
nay,
sự bành trướng của các
tập
đoàn đa
quốc
gia
đang là mối đe
dọa đối với
doanh
nghiệp
ở các nước đang phát
triển.
Các
tập
đoàn này có
lợi
thế
về
vốn,
kỹ
thuật
và
kinh
nghiệm
tổ
chức
sản
xuất- kinh
doanh,
kinh
nghiệm
cạnh
tranh
trên thương
trường,
do đó sẽ có
nhiều
ưu
thế trong
cạnh
tranh.
Ngược
lại,
những doanh
nghiệp
nhỏ,
chưa có
kinh
nghiệm
thường
phải
chịu
thua
thiệt
và dễ dẫn đến phá
sản.
3.2.2.
Các nhân
tố
trong nước
* Các nhân
tố kinh tế:
- Tốc độ tăng trưởng
kinh
tế:
Tốc độ tăng trưởng
kinh tế
cao
sẽ làm cho
thu
nhập của
người
dân
tăng,
khả năng
thanh
toán của họ tăng dẫn
tới
sức mua
các
loại
hàng hoa và
dịch
vụ
cũng
tăng
lên,
đây là cơ
hội tốt
cho các
doanh
nghiệp.
Trái
lại,
nền
kinh tế
suy
thoái,
các
khoản
chi
tiêu của
đại
bộ
phận
dân
chúng bị
giảm
sẽ làm
gia
tăng áp
lực
cạnh
tranh
và
tạo ra
nhiều
nguy
cơ
đối
với
doanh
nghiệp.
16
- Lãi
suất:
Lãi
suất
cho vay của các ngân hàng
cũng
ảnh hưởng
rất
lớn
đến
năng
lực
cạnh
tranh
của các
doanh
nghiệp, nhất
là
đối với
các
doanh
nghiệp
thiếu
vốn phải
vay ngân
hàng.
Khi lãi suất
cho vay
của
ngân hàng
cao, chi
phí của
doanh
nghiệp
tăng lên do
phải trả
tiền
lãi
lớn,
năng
lực
cạnh
tanh
của
doanh
nghiệp sẽ
kém
đi, nhất là
khi
đối thủ
cạnh
tranh
có
tiềm
lực lớn
về
vốn.
- Tỷ giá
hối
đoái và giá
trị
của đồng
tiền
trong
nước có tác động
nhanh
chóng và sâu sắc đối
với từng
quốc
gia
nói
chung
và đối
với từng
doanh
nghiệp
nói
riêng,
nhất
là
trong
điều
kiện
nền
kinh
tế
mở. Nếu đổng
nội tệ
lên
giá,
các
doanh
nghiệp
trong
nước sẽ bị
giảm
năng
lực
cạnh
tranh
ở
thị
trưậng
nước
ngoài,
vì
khi
đó giá bán của hàng hoa tính
bằng
đổng
ngoại tệ
sẽ cao hơn
đối
thủ
cạnh
tranh.
Hơn
nữa, khi
đổng
nội tệ
lên giá sẽ
khuyến
khích
nhập
khẩu,
vì giá hàng
nhập
khẩu
giảm,
và như vậy nâng
lực
cạnh
tranh
của các
doanh
nghiệp
trong
nước sẽ bị
giảm
ngay
trên
thị
trưậng
nội địa.
Ngược
lại,
khi
đổng
nội tệ
giảm
giá,
năng
lực
cạnh
tranh
của các
doanh
nghiệp
tăng cả
trên
thị
trưậng
trong
nước và
thị
trưậng nước
ngoài,
vì
khi
đó giá bán của các
doanh
nghiệp
giảm
hơn so
với đối thủ
cạnh
tranh kinh
doanh
hàng hoa do
nước
khấc
sản xuất.
- Lạm phát: Lạm phát làm
giảm
tỷ lệ
tăng trưởng
kinh tế,
lãi
suất
tăng
và gây ra
nhiều
biến
động về tỷ giá
hối
đoái. Do lạm phát,
doanh
nghiệp
thưậng
hạn
chế
đầu tư vào
giai
đoạn này
bởi tỷ lệ
sinh
lậi
trong
doanh
nghiệp
không
thể
bù đắp sự
sụt
giảm
giá
trị
của
tiền
tệ.
Đối với
doanh
nghiệp
có nợ
vay
nhiều,
họ thưậng lâm vào tình
trạng
phá sản do lạm phát cao.
* Các nhân
tố
về chính
trị,
pháp
luật:
Một thể chế
chính
trị,
pháp
luật
rõ
ràng,
rộng
mở và ổn định sẽ là cơ
hội
đảm bảo sự
thuận
lọi,
bình đẳng cho các
doanh
nghiệp
tham
gia
cạnh
tranh
và
cạnh
tranh
có
hiệu
quả.
Chẳng
hạn,
các
luật
thuế
có ảnh hưởng
rất
lớn
đến điều
kiện
cạnh
tranh,
đảm bảo sự
cạnh
tranh
bình đẳng
giữa
các
doanh
nghiệp thuộc
mọi
thành
phần
và mọi
lĩnh vực.
Chính sách
của
Nhà nước về
xuất
nhập
kbẩti^-vế—.
THưviẼN
thuế
quan
cũng
sẽ
ảnh hưởng đến năng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiêp.
l
i.
ó
SE
[Ị
í
hoe
«so»>
IHIỈCNO
17
UUMẤL
min
* Trình độ
khoa
học và công
nghệ:
Nhóm các nhân tố này
quan
trọng
và có ý
nghĩa
quyết
định đến môi
trường
cạnh
tranh
và nâng
lực cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp.
Trình độ
khoa
học
công
nghệ
có ý
nghĩa
quyết
định đến
hai
yếu
tố
cơ bản
nhất tạo
nên năng
lực
cạnh
tranh
của
sản
phẩm trên
thị
trường,
đó là
chất
lượng và giá
bán.
Khoa
học
công
nghệ
tác động đến
chi
phí cá
biệt
của
doanh
nghiệp,
qua đó
tạo
nén
nâng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp. Đối với
những
nước chậm phát
triỹn
và
đang phát
triỹn,
giá và
chất
lượng có ý
nghĩa ngang nhau
trong
cạnh
tranh.
Tuy
nhiên trên
thế
giới
hiện
nay,
đã
chuyỹn từ cạnh
tranh
về giá
sang cạnh
tranh
về
chất
lượng,
cạnh
tranh
giữa
cấc sản phẩm và
dịch
vụ có hàm lượng
khoa
học công
nghệ
cao.
Kỹ
thuật
và công
nghệ
mới sẽ giúp cho các cơ sở sản
xuất
kỹ
thuật trong
nước
tạo ra
dược
những
hệ
thống
kỹ
thuật
và công
nghệ
tiếp
theo
nhằm
trang
bị và tái
trang
bị toàn bộ cơ sơ
sản
xuất
kỹ
thuật
của nền
kinh
tế quốc
dân. Đây là
tiền
đề đỹ các
doanh
nghiệp
ổn định và nâng cao
năng
lực
cạnh
tranh.
* Nhân
khẩu:
Đây là nhân
tố tạo lập
quy mô
thị
trường,
bao gồm các nhân
tố
như quy
mô và
tốc
độ tăng trưởng dân
số,
những
thay
đổi
trong
gia
đình
và
di
chuyỹn
nơi cư
trú,
những
thay
đổi
trong
phân
phối
lại
thu nhập,
trình độ học vấn của
các
tầng lớp
dàn cư.
*Các nhân
tố
về văn
hoa,
tâm
lý-
xã
hội:
Đây là nhóm yếu
tố quan
trọng
tạo lập
nên nhân cách và
lối
sống
của
người
tiêu dùng, đổng
thời
cũng
là cơ sở đỹ cho các nhà
quản
lý
lựa chọn
và
điều chỉnh
các
quyết
định
kinh
doanh.
*Các nhân
tố thuộc
môi trường ngành:
Các nhân
tố
này tác động đến môi trường
hoạt
động của đoàng
nghiệp,
và vì vậy có ảnh hưởng đến năng
lực cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp.
Ngành
kinh
doanh
là ngành
hoạt
động
trong
đó bao gồm
nhiều
doanh
nghiệp
cùng
tạo
ra
các sản phẩm và
dịch
vụ có
thỹ
thay thế lẫn
nhau
nhằm đáp úng cùng
18
một
nhu cầu
căn
bản
nào đó
của
người
tiêu dùng.
Các
nhân tố
thuộc
môi
trường
ngành có
thể
ảnh hưởng đến năng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
bao
gồm:
đối thủ cạnh
tranh tiềm
ẩn,
tính
kinh tế
nhờ quy mô, sự khác
biệt
hoa
sản
phẩm, nhu cầu vốn dẫu tư
tối thiểu,
sức ép của các
dối thủ
cạnh
tranh hiện
tại
trong
ngành, số lượng
và
kết
cữu của các
dối thủ cạnh
tranh,
tốc
độ
tâng
trưởng
của
ngành,
chi
phí cố định
hoặc
chi
phí dự
trữ
chiếm
tỷ trọng lớn,
sự đa
dạng
của các
đối thủ cạnh
tranh,
hàng rào cản
trở
rút
lui,
sức ép của nhà
cung
ứng,
sức ép của khách
hàng,
sự
xuữt hiện
các sản phẩm
thay thế.
III.
Sự CẦN
THIẾT
PHẢI
NÂNG
CAO
NĂNG Lực
CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH
NGHIỆP
TRONG
GIAI
ĐOẠN
HIỆN
NAY
Trong
nền
kinh tế thị
trường,
cạnh
tranh
là một quy
luật
khách
quan
của
nền
sản
xuữt
hàng
hoa,
là một
nội
dung
trong
cơ
chế vận
động của
thị
trường.
Sản
xuữt
hàng hoa càng phát
triển,
hàng hoa
bán
ra càng
nhiều,
số
lượng
người
cung
cữp càng đông thì
cạnh
tranh
càng gay
gắt.
Kết
quả
của cạnh
tranh
là một số
doanh
nghiệp
bị
thua
cuộc
và bị
gạt ra khỏi thị
trường,
trong khi
một
số
doanh
nghiệp
khác vẫn
tổn
tại
và
phát
triển
hơn
nữa.
Cũng chính nhờ
sự
cạnh
tranh
không
ngừng
mà
nền
kinh tế thị
trường vận động
theo
hướng ngày
càng nâng cao năng
suữt lao
động
xã
hội-
yếu
tố
đảm
bảo cho sự thành công
của
mỗi
quốc
gia
trên con dường phát
triển.
Trong
nền
kinh tế thị
trường,
cạnh
tranh diễn
ra
ở
mọi lúc, mọi nơi không phụ
thuộc
vào
ý
muốn
của riêng
ai,
nên
cạnh
tranh trở
thành một quy
luật
kinh tế
khách
quan quan
trọng
thúc đẩy
sự
phát
triển.
Mọi
doanh
nghiệp
không phân
biệt
thành
phần
kinh tế
đều
phải
tự
mình vận động
đế
đứng được
trong
cơ
chế
này.
Doanh
nghiệp
nào không
thích
nghi
được
với
cơ
chế
mới sẽ
phải
cẩm
chắc
sự phá sản và
theo
quy
luật
đào
thải,
sẽ bị
gạt
ra
khỏi
thị
trường.
Thay
vào
đó
thị
trường
lại
mở
đường
cho doanh
nghiệp
nào
biết
nắm
thời
cơ,
biết
phát huy
tối
đa
những
thế
mạnh
của
mình
và
hạn chế được
tối
thiểu
những
bữt
lợi
để
giành
thắng
lợi trong
cạnh
tranh.
19
Ngày
nay,
toàn cầu hóa mà trước
hết
và về
thực
chất
là toàn cầu hoa
kinh
tế
đang
trở
thành một xu
thế
khách
quan
của sự phát
triển
kinh
tế thế
giới.
Hội nhập
kinh tế
quốc
tế
có
nghĩa
là mở cửa nền
kinh
tế,
thực
hiện tự
do
hoa
thương
mại,
đưa các
doanh
nghiệp
tham gia
vào
cạnh
tranh
quốc
tế.
Vì
thế,
đòi
hỏi
đẩu tiên
đối với
doanh
nghiệp
là không
ngừng
lớn
lên.
Cứ
thế,
các
doanh
nghiệp
phải
không
ngừng
đầu tư và tăng
vốn,
công
nghệ
mới,
chất
lượng
lao
động,
nâng cao
hiệu
quả
sản
xuất, kinh
doanh
và tăng năng
lực
cạnh
tranh
để có
thể
đứng
vũng
trong
môi trường
kinh
doanh quốc
tế.
Tóm
lại,
trong
nền
kinh tế thị
trường,
cạnh
tranh trở
thành quy
luật
kinh
tế
khách
quan
chi phối
hoạt
động của các chủ
thể
kinh tế,
ảnh
hưởng
đến sự
tổn
tại
và phát
triển
của
từng
doanh
nghiệp.
Vì
vậy, việc
làm mang tính
chiến
lược
nhằm nâng cao tính
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
trên
thị
trường
trong
nước
và
quốc
tế
là
phải
đánh giá đúng năng
lực
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp,
từ
đó
nhận
biết
những
điểm
mạnh,
điểm
yếu,
cơ
hội
cũng
như thách
thức
đối
với
doanh
nghiệp
20