Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ ở Việt Nam – Thực trạng và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.41 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
CÁC TỪ VIẾT TẮT
DV Dịch vụ
DN Doanh nghiệp
KT – XH Kinh tế - xã hội
ĐV Đơn vị
KH, CN Khoa học, công nghệ
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tình hình du lịch Việt Nam từ 2010 – 2012
Bảng 2: Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam phân theo mục đích
Bảng 3: Tình hình xuất khẩu lao động qua các năm từ 2007- 2012
Bảng 4: Lượng khách và hàng hóa vận chuyển bằng đường biển giai đoạn 2009 –
2013
Bảng 5: Lượng khách và hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không trên toàn
Việt Nam giai đoạn 2009-2012
Bảng 6: Tình hình dịch vụ tài chính Việt Nam năm 2009 – 2012
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Thể hiện khối lượng hàng hóa luân chuyển theo khu vực của Việt Nam
giai đoạn 2009-2012
Biểu đồ 2: Khối lượng hàng hóa luân chuyển của Việt Nam giai đoạn
2009 - 2012
MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, xu thế chung của sự phát triển kinh tế là tập trung phát
triển mạnh về lĩnh vực dịch vụ (DV). Một đất nước được đánh giá là phát triển thì ngành
dịch vụ đóng góp vào tổng GDP nhiều hơn so với ngành nông nghiệp và ngành công
nghiệp. Do đó, Việt Nam muốn trở thành một nước phát triển thì cũng không ngoại lệ
với xu thế phát triển đó. Nhưng nước chúng ta là nước có điểm xuất phát thấp, nên để có
thể đạt được những thành công trong ngành dịch vụ thì cũng cần phải biết tận dụng
những lợi thế so sánh của mình để phát triển kinh tế đồng thời đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Phát triển ngành dịch vụ là sự phát
triển diễn ra trên nhiều lĩnh vực, nhưng để có vốn tích lũy xây dựng cơ sở vật chất thì


chúng ta cần tập trung phát triển dịch vụ thu ngoại tệ. Phát triển dịch vụ thu ngoại tệ
cũng là phát triển ngành dịch vụ nói chung trong một phạm vi nhất định.
Dịch vụ thu ngoại tệ góp phần làm tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
song cũng tồn tại những hạn chế nhất định. Bên cạnh đó chúng ta phải làm sao để các
hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ thực sự phát triển trong tương lai. Do vậy chúng tôi thực
hiện đề tài: “Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ ở Việt Nam – Thực trạng và triển
vọng”.
Dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm : DV du lịch quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, vận tải
đường biển và cung ứng tàu biển quốc tế, vận tải hàng không, DV bảo hiểm, DV xuất
khẩu lao động, DV kiều hối, tín dụng thanh toán quốc tế và tài chính quốc tế… Tuy
nhiên chúng tôi chỉ nghiên cứu tập trung các hoạt động dịch vụ đem lại nguồn thu ngoại
tệ lớn, quan trọng: DV du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động, DV vận tải quốc tế, Thanh
toán quốc tế và tiền tệ quốc tế. Do hạn hẹp về kiến thức cũng như tài liệu tham khảo nên
mong thầy cùng các bạn bổ sung ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn!
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ THU NGOẠI TỆ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm về dịch vụ
Dịch vụ là những hoạt động mang tính xã hội tạo ra các sản phẩm hàng hóa không
tồn tại dưới hình thái vật thể, nhằm thỏa mãn kịp thời thuận lợi và hiệu quả các nhu cầu
sản xuất và đời sống của con người [16,Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, NXB Hà
Nội 2006]
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thỏa
mãn những nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt. Tùy theo trường hợp, dịch vụ
bao gồm: một công việc ít nhiều chuyên môn hóa, việc sử dụng hẳn hay tạm thời một tài
sản, việc sử dụng phối hợp một tài sản lâu bền và sản phẩm của một công việc, cho vay
vốn”. (www.bachkhoatoanthu.gov.vn)
Dịch vụ là hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để trao đổi, chủ yếu là vô hình và
không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thế gắn liền hoặc

không gắn liền với sản phẩm vật chất. Chẳng hạn, khi thuê phòng ở khách sạn, ghi tên
tiền gửi vào ngân hàng, đi du lịch bằng máy bay, đi khám bệnh, đưa ô tô đi sửa chữa,
xem trận đấu của các vận động viên chuyên nghiệp, xin ý kiến tư vấn của luật sư,…
trong tất cả các trường hợp này ta đều nhận được một dịch vụ.
Theo C.Mác, dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà nền kinh tế
hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một số lượng lớn lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên
tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển. Như vậy,
bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, C.Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và sự phát
triển của DV.
Vào những năm cuối của thế kỉ XX, DV đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng
của các quốc gia và đã trở thành đối tượng nghiên cứu của kinh tế học, văn hóa học,
hành chính học, luật học, khoa học quản lý. Do vậy có những khái niệm về dịch vụ theo
nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Đồng thời cách hiểu về nghĩa rộng, hẹp cũng khác nhau.
4
- Theo nghĩa rộng: DV là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của chúng
không tồn tại dưới dạng hình thái vật thể. Hoạt động dịch vụ bao trùm lên tất cả các lĩnh
vực với trình độ cao, chi phối rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH),
môi trường của từng quốc gia, khu vực nói riêng và toàn thế giới nói chung. DV không
chỉ bao gồm những lĩnh vực truyền thống như: vận tải, du lịch, thương mại, ngân hàng,
bưu điện, bảo hiểm, truyền thông liên lạc mà DV còn lan tỏa đến các khu vực rất mới
như: bảo vệ môi trường, dịch vụ văn hóa, dịch vụ hành chính, tư vấn pháp luật, tư vấn
tình cảm,…
- Theo nghĩa hẹp: DV là làm một công việc cho người khác hay cộng đồng, là việc
mà hiệu quả của nó đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người, như vận chuyển, cung
cấp nước, đón tiếp, sửa chữa và bảo dưỡngcác thiết bị máy móc hay công trình,…
Như vậy, có thể định nghĩa một cách chung nhất “Dịch vụ là những hoạt động lao
động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thức
vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu
cầu sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người.”
1.1.2. Ngoại tệ

Ngoại tệ là đồng tiền nước khác so với đồng tiền trong nước; là những phương tiện
thanh toán (tiền giấy, kì phiếu, séc, chứng khoán,…) ghi bằng tiền nước ngoài: khoản
cho vay ghi bằng tiền nước ngoài và được trả ở nước ngoài. Có thể là “khoản có” ở các
ngân hàng nước ngoài, là hồi phiếu hay séc ghi bằng tiền nước ngoài hay trả ở nước
ngoài.
1.1.3. Hoạt động thu ngoại tệ
Hoạt động thu ngoại tệ là quá trình mà các nhà cung ứng dịch vụ hay sản xuất kinh
doanh phục vụ thỏa mãn nhu cầu cho khách quốc tế nhằm thu lại được tiền từ các hình
thức phục vụ đó. Hoạt động thu ngoại tệ rất đa dạng như thu ngoại tệ thông qua du lịch
quốc tế, vận tải quốc tế, xuất khẩu lao động, bảo hiểm, ngân hàng, tài chính,…
5
1.2. Phân loại dịch vụ
Dịch vụ là một lĩnh vực rất đa dạng và phong phú. Theo tiến trình phát triển của nền
kinh tế xã hội và sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại, dịch vụ phát triển ở tất cả các
lĩnh vực sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần, lĩnh vực quản lý và các công việc có
tính chất riêng tư. Có nhiều cách phân loại khác nhau:
1.2.1. Phân loại theo chủ thể thực hiện
- Chủ thể là Nhà nước: thực hiện các dịch vụ như bệnh viện, trường học, tòa án, quỹ
tín dụng,…
- Chủ thể là các tổ chức xã hội: thực hiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng,
nâng cao dân trí, khuyến nông,…
- Chủ thể là các đơn vị kinh doanh: thực hiện các dịch vụ ngân hàng, hàng không ,
khách sạn, công ty bảo hiểm,…
1.2.2. Phân theo quá trình mua bán hàng hóa
- Các hình thức dịch vụ trước khi bán: ngày nay các loại DV đang phổ biến rộng rãi.
Các công ty cung cấp DV đều hiểu rằng các DV này có thể đem lại hiệu quả cao cho họ
trong tiêu thụ hàng hóa. Để đảm bảo khâu bán được tốt thì yêu cầu cần phải có các hoạt
động DV kèm theo nó bao gồm: các dịch vụ về thông tin, giới thiệu quảng cáo, chào
hàng,…
- Các hình thức DV trong khi bán hàng: loại hình này được thực hiện để giúp cho

khách hàng sử dụng thuận tiện hơn khi hàng hóa họ mua và thực hiện các yêu cầu khác
chẳng hạn như vận chuyển,…do vậy, đây cũng là loại hình dịch vụ rất cần thiết đối với
mỗi DN.
- Các hình thức DV sau khi bán hàng: đây cũng được xem là vũ khí bí mật trong
cạnh tranh.
1.2.3. Phân loại theo nhóm ngành
Thứ nhất, nhóm các dịch vụ có tính chất sản xuất hay liên quan tới việc tổ chức quá
trình sản xuất như: dịch vụ vận tải hàng hóa, bưu điện, thông tin liên lạc, sửa chữa máy
móc,…
6
Thứ hai, nhóm các DV liên quan đến việc tổ chức quá trình lưu thông sản phẩm: có
thể xem toàn bộ hoạt động thương mại chính là các ngành trong kinh tế DV nghĩa rộng
nhưng trên thực tế, người ta chỉ xem các hoạt động thương nghiệp nhỏ kết hợp với việc
gia công sửa chữa nhỏ,…
Thứ ba, nhóm các DV có liên quan với việc phục vụ đời sống con người là rất rộng
như các DV giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, văn hóa và nghệ thuật, y tế, thể thao, du
lịch và giải trí,…
Thứ tư, nhóm các DV liên quan đến sử dụng chất xám gần đây được phát triển mạnh
do việc nâng cao trình độ và sư gắn bó hữu cơ khoa học kĩ thuật với sản xuất và đời sống
như: DV tư vấn, pháp lý, xử lý thông tin,…
Thứ năm, nhóm DV thu ngoại tệ. Do vai trò đặc biệt của nhóm DV này trong việc
làm tăng tổng sản phẩm của xã hội và thu nhập quốc dân nên thường được quan tâm
phát triển với tốc độ cao. Đó là DV du lịch quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, vận tải
đường biển và cung ứng tàu biển quốc tế, vận tải hàng không, DV bảo hiểm, DV xuất
khẩu lao động, DV kiều hối, tín dụng thanh toán quốc tế và tài chính quốc tế…
1.3. Vị trí và vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội
1.3.1. Vị trí của dịch vụ
Dịch vụ là một hợp phần trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế quốc
dân là một khối thống nhất với hai bộ phận chủ yếu bao gồm ngành sản xuất vật chất và
các ngành DV. Với một tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân, DV đã, đang

và ngày càng chiếm vị trí quan trọng ở cả hai chỉ tiêu chung của nền kinh tế là các số
lượng lao động và tỷ trọng trong tổng thu nhập quốc dân.
Các ngành sản xuất vật chất và sản xuất DV thúc đẩy phát triển lẫn nhau nhằm thỏa
mãn các nhu cầu xã hội ngày càng cao làm cho nền kinh tế quốc dân phát triển hài hòa,
tăng trưởng vững chắc.
1.3.2. Vai trò của dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ
1.3.2.1. Vai trò của dịch vụ
Một là, vai trò phục vụ xã hội của DV: phục vụ con người, vì con người, vì sự phồn
vinh của xã hội. Thể hiện vai trò này có các DV công do NN và các tổ chức xã hội thực
7
hiện. Đối tượng được cung ứng DV không phải thanh toán hoặc chỉ phải thanh toán 1
phần giá trị DV được thụ hưởng. Nguồn tài chính của DV công chủ yếu từ ngân sách
NN, còn một phần do các tổ chức, các nhân tài trợ.
Hai là, vai trò kinh tế của DV là cơ sở hình thành ngành kinh tế dịch vụ. Thực hiện
vai trò này là các đơn vị kinh tế. Đối tượng được cung cấp DV phải có khả năng thanh
toán, phải chi trả đầy đủ giá cả DV mà mình thụ hưởng.
Để có thể hình dung khái quát DV có vai trò quan trọng như thế nào, chúng tôi đưa
ra một vài ví dụ minh họa đơn giản sau:
Bạn là người có tiền, bạn muốn đi du lịch nước ngoài, nếu không có DV du lịch thì
bạn sẽ bỏ ý định đó, vì bạn mới có ý định nhưng chưa cụ thể các vấn đề: giấy tờ thủ tục
như thế nào, cần bao nhiêu tiền thì đủ, đến nước hay thành phố nào,… Cũng có thể bạn
là người kinh doanh rất năng động, bạn muốn vươn ra thị trường nước ngoài,…nhưng
không thể tự quyết định hoặc không muốn quyết định hay thiếu tự tin vì có thể dẫn đến
thất bại. Trong tình huống này, công ty tư vấn kinh tế đối ngoại hoặc DV thông tin,
mạng internet sẽ cho bạn những thông tin cần thiết.
1.3.2.2. Vai trò của dịch vụ thu ngoại tệ
- DV thu ngoại tệ góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách NN
- DV thu ngoại tệ góp phần thực hiện chuyển giao khoa học công nghệ
- DV thu ngoại tệ góp phần mở rộng thị trường đồng thời kích thích sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế

- Góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam với các nước khác trên thế giới, đồng thời xây
dựng thương hiệu cho chính mình trên trường quốc tế
- DV thu ngoại tệ góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và nâng cao
tay nghề, trình độ cho người lao động
- Góp phần thúc đẩy thị trường tài chính tiền tệ phát triển, tạo nguồn ngoại tệ dự trữ lớn
hơn cho thị trường ngoại hối Việt Nam nhằm đối phó với những biến động lớn của nền
kinh tế.
8
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG CỦA HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
THU NGOẠI TỆ
2.1. Thực trạng của hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ
2.1.1. Hoạt động du lịch quốc tế
Về du lịch quốc tế, Việt Nam chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển du lịch, đó là sự hấp dẫn về vẻ đẹp sinh thái tự nhiên, nền văn hóa đa dạng và
truyền thống lịch sử lâu đời, sự phong phú về di sản văn hóa, các làng nghề và các lễ hội
truyền thống gắn với các nhóm dân tộc của cả nước… Vì thế, VN đã và đang trở thành
một trong những đia điểm thu hút khách du lịch quốc tế. VN nằm trong top 6 nước được
lựa chọn đầu tiên dể tham quan du lịch. (www.molisa.gov.vn)
Du lịch là một ngành dịch vụ có ý nghĩa kinh tế - xã hội quan trọng. Với lợi thế là
một nước sở hữu nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, Việt Nam đang ngày càng trở
thành điểm đến du lịch hấp dẫn của nhiều khách quốc tế. Trong những năm qua nguồn
thu hút ngoại tệ từ dịch vụ du lịch đã góp phần đáng kể vào quá trình phát triển của đất
nước, ngành du lịch đã đạt được nhiều bước tiến đáng ghi nhận. Tuy nhiên, tiềm năng
của ngành còn rất lớn nếu biết khai thác và phát huy tốt những thế mạnh sẵn có.
Điều này được minh chứng thông qua những thành tựu nổi bật trong vài năm vừa
qua như sau:
Bảng 1: Tình hình du lịch Việt Nam từ 2010 – 2012
Chỉ tiêu
Năm
2010 2011 2012

Số lượng khách quốc tế
( nghìn lượt)
5049,8 6250,9 6847,7
Doanh thu quốc tế
(triệu USD)
4450 5710 6830
Nguồn: Niên giám thống kê VN 2012 và Website của Tổng cục du lịch VN
Lượng khách quốc tế đến Việt Nam tính chung 12 tháng năm 2010 ước đạt 5.049.855
lượt, tăng 34,8% so với cùng kì năm 2009.
9
Đến năm 2011, lượng khách du lịch đến Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt, cụ thể
như sau: trong tháng 12, lượng khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt 593,408 lượt, tăng
32% so với cùng kì năm 2010. Tính chung cả năm 2011 ước đạt 6250,9 nghìn lượt, tăng
23,7% so với năm 2010.
Năm 2012, mặc dù phải đối diện với những tác động tiêu cực của kinh tế thế giới
cũng như trong nước nhưng dưới sự chỉ đạo kịp thời của Chính phủ, bộ Văn hóa thể thao
và du lịch (VHTTDL),du lịch Việt Nam đã tiếp tục phát huy đà tăng trưởng của năm
2011, huy động hiệu quả các nguồn lực duy trì tốc độ tăng trưởng cao, hoàn thành tốt
nhiều nhiệm vụ quan trọng. Kết quả hoạt động của ngành Du lịch trong năm 2012 đã
được Đảng và Chính phủ đánh giá là điểm sáng về kinh tế trong bối cảnh kinh tế thế giới
và trong nước gặp nhiều khó khăn, có tác động trực tiếp đến việc thực hiện các chỉ tiêu
của ngành.
Kết thúc năm 2012, ngành Du lịch đã đón và phục vụ 6,847 triệu lượt khách quốc tế,
tăng 11% so với năm 2011.
Về số lượng ngoại tệ thu được là do lượng khách tăng, khách đến từ các nước giàu
tăng cao hơn, nên lượng ngoại tệ có từ chi tiêu của khách quốc tế đã tăng qua các năm
và đây cũng là một kênh thu hút một lượng ngoại tệ không nhỏ. Năm 2010 lượng ngoại
tệ thu được 4450 triệu USD nhưng đến năm 2012 thu 6830 triệu USD tăng 2380 triệu
USD chiếm 71,1% doanh thu từ xuất khẩu dịch vụ cả nước, cao nhất trong các nhóm
dịch vụ xuất khẩu.

10
Bảng 2: Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam phân theo mục đích
ĐVT: nghìn lượt người
Năm 2005 2009 2010 2011 Sơ bộ 2012
Tổng số 3477,5 3747,4 5049,8 6250,9 6847,7
Du lịch, giải trí 2038,5 2240,9 3110,4 3888,2 4170,9
Thương mại 495,6 742,1 1023,6 1003,0 1166,0
Thăm thân nhân 508,2 517,8 574,1 1007,3 1150,9
Các mục đích khác 435,2 246,6 341,7 352,5 359,9
Nguồn: Niên giám thống kê 2012
Khách đến đông nhất chủ yếu ở các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ,
Đài Loan, Úc, Pháp, Thái Lan, Malaysia, Campuchia, Singapo, Anh, Đức. Lượng hành
khách quốc tế sang Việt Nam chủ yếu du lịch giải trí. Hiện nay, các địa phương như Đà
Nẵng, Bình Thuận, Khánh Hòa được đánh giá là điểm sáng của du lịch Việt Nam, bứt
phá trở thành các điểm du lịch quan trọng của khu vực Trung bộ và cả nước. Nhiều khu
du lịch, resort, khách sạn mới được khởi công hoặc hoàn thành đưa vào phục vụ du lịch
đã góp phần đáng kể vào vào việc tăng cường năng lực, điều kiện cho ngành, tạo ra được
sự bứt phá hiệu quả về mô hình tổ chức kinh doanh, trở thành điểm sáng của ngành.
2.1.2. Hoạt động xuất khẩu lao động ra nước ngoài
Hiện nay Việt Nam có khoảng 400.000 lao động và chuyên gia làm việc ở trên 40
nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề các loại. Lao động xuất khẩu qua
đào tạo ngày càng tăng. Số lao động này hàng năm đã gửi về nước một lượng ngoại tệ
đáng kể, bình quân từ năm 2007 đến năm 2012, số ngoại tệ các lao động gửi về từ 1,6
đến 2 tỷ USD. Trong đó từ Hàn Quốc trên 700 triệu USD, Nhật Bản trên 300 triệu
USD. Năm 2010, Việt Nam đứng thứ 16 trong 30 quốc gia có lượng kiều hối chuyển về
nhiều nhất, là một trong 10 quốc gia có thu nhập lớn từ xuất khẩu lao động.
11
Bảng 3: Tình hình xuất khẩu lao động qua các năm từ 2007 - 2012
Năm Số lao động (người)
2007 85.020

2008 86.990
2009 65.631
2010 85.546
2011 88.298
2012 80.080
Nguồn: Tạp chí kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
Năm 2011 là năm đầy sóng gió với thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam. Bất ổn
chính trị tại châu Phi đã khiến 10.000 lao động đang làm việc tại Libi phải về nước
trước thời hạn và tất nhiên cũng không thể đưa thêm lao động sang thị trường này. Ảnh
hưởng của động đất, sóng thần tại Nhật Bản khiến nhiều lao động tại Nhật Bản lao đao.
Suy thoái kinh tế thế giới làm nhiều thị trường giảm nhu cầu tiếp nhận lao động nước
ngoài… Vượt trên những điều đó để hoàn thành vượt mức chỉ tiêu là một thành công có
ý nghĩa rất lớn của ngành lao động Việt Nam. Một số thị trường truyền thống vẫn được
duy trì và phát triển, tiếp nhận một số lượng lớn lao động Việt Nam, góp phần tăng số
lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài trong năm 2011.
Tuy nhiên do nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khó khăn nên trong năm
2012 vừa qua số lượng người lao động xuất khẩu ra nước ngoài đã giảm đáng kể so với
năm 2011. Chính phủ đã giao chỉ tiêu đưa 90.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài,
nhưng hết năm 2012 chúng ta chỉ đưa được trên 80.080 lao động đi làm việc, ít hơn so
với năm 2011 8.218 lao động. Nguyên nhân của sự giảm sút trên bởi một số lí do sau
đây:
+ Thứ nhất: Hơn 15.000 lao động làm việc bất hợp pháp tại Hàn Quốc vì không
chịu về nước đúng thời hạn nên phía Hàn Quốc đã đề nghị tạm dừng để giải quyết
số lao động ở lại bất hợp pháp về nước, sau đó mới mở lại nhận tiếp lao động.
12
+ Thứ hai: thị trường Malaysia, đây là thị trường có nhiều hợp đồng nhất, có
nhu cầu cao, nhưng thu nhập thì chỉ khoảng 3 đến 8 triệu đồng nên không thu hút
được số lượng lao động qua làm việc.
Các lao động xuất khẩu đem về ngoại tệ cho đất nước, có điều kiện học hỏi
nâng cao tay nghề, kinh nghiệm cho bản thân, giúp ích nhiều cho nền kinh tế.

Nguồn thu nhập cao từ hoạt động xuất khẩu lao động của người lao động đã góp
phần cải thiện đời sống gia đình và thân nhân họ, giúp nhiều gia đình trở nên khá
giả, nhiều lao động sau khi về nước đã trở thành các nhà đầu tư và chủ doanh
nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao động khác, đóng góp vào sự phát triển và
ổn định kinh tế xã hội. Nhưng sau khi về nước, nhiều người không được bố trí vào
công việc phù hợp để tận dụng vốn kỹ năng và kinh nghiệm quý giá của mình tích
lũy được khi xuất ngoại. Đây cũng là một mặt trái của hoạt động xuất khẩu lao
động
Thành tựu
Đối với một nước dân số trên 90 triệu người, với hơn trên một nửa là số người
trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp hàng năm lại rất cao thì xuất
khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm cho người lao động rất có ý nghĩa,
đồng thời đem lại nguồn thu ngoại tệ, nguồn thu nhập cho đất nước.
Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện cho người lao động học hỏi được những kinh
nghiệm làm việc trong nền công nghiệp, nâng cao tay nghề và tác phong làm việc
cho người lao động…Những người này, với những kinh nghiệm học hỏi được cùng
với số vốn mà họ tích lũy được sau khi hoàn thành hợp đồng và trở về quê hương
đầu tư xây dựng nhà cửa, góp phần xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, xuất khẩu lao động là một hình thức đang được
Đảng và nhà nước rất quan tâm.
2.1.3. Dịch vụ vận tải quốc tế
Vận tải quốc tế là hoạt động chuyên chở hành khách và hàng hóa giữa các nước
bằng đường biển, đường bộ, đường hàng không…Vận tải quốc tế gắn liền với mậu dịch
13
quốc tế, với phân công lao động quốc tế và quốc tế hóa đời sống kinh tế. Trong vận tải
quốc tế quan trọng nhất là vận tải đường biển.
Từ khi nền kinh tế hàng hóa ra đời, nhất là khi trao đổi thương mại giữa Việt Nam và
các nước trên thế giới phát triển, ngành dịch vụ vận tải đã và đang từng bước góp phần
rất lớn của mình vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển của vận tải
quốc tế của Việt Nam có tác dụng tăng nguồn thu ngoại tệ và tiết kiệm chi phí ngoại tệ

do không phải thuê vận chuyển của nước ngoài khi nhập hoặc xuất khẩu hàng hóa. Điều
này cho thấy vận tải quốc tế có ý nghĩa quan trọng. Và việc giảm chi phí này sẽ góp
phần tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp trong nước.
Biểu đồ 1: Thể hiện khối lượng hàng hóa luân chuyển theo khu vực của Việt
Nam giai đoạn 2009-2012
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2012
Ta có thể thấy rằng khối lượng hàng hóa luân chuyển ngoài nước ngày càng chiểm tỉ
trọng lớn trong tổng khối lượng hàng hóa luân chuyển của Việt Nam. Điều này cho thấy
tầm quan trọng của vận tải quốc tế ở Việt Nam.
Tuy nhiên, vận tải quốc tế của nước ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức khi
Việt Nam hội nhập với nền kinh tế Thế Giới. Cụ thể là từ năm 2009 đến năm 2010 khối
lượng hàng hóa luân chuyển tăng từ 133.377 lên 143.123 triệu tấn.km, nhưng lại giảm từ
143.123 triệu tấn.km (năm 2010) giảm liên tục xuống 124638.7 triệu tấn.km (năm
2012). Do nhu cầu thế giới giảm, ảnh hưởng bởi khó khăn chung của nền kinh tế Thế
14
Giới. Tốc độ phát triển trung bình cả giai đoạn 2009-2012 là 97.8%, hoạt động dịch vụ
vận tải quốc tế vẫn còn nhiều tiềm năng để phát triển.
+ Vận tải đường biển:
Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, lại có nhiều hải cảng hơn 266 cảng biển lớn nhỏ
nằm dọc chiều dài đất nướcthuận lợi cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế
mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh vân tải quốc tế. Cơ cấu của đội tàu biển đã có
bước phát triển đáng kể. Số lượng doanh nghiệp thuộc các thành phần tham gia kinh
doanh từ 239 doanh nghiệp (năm 2000) đã phát triển lên 413 doanh nghiệp (tính đến
tháng 5/2004), tăng 72,8%.
Biểu đồ 2: Khối lượng hàng hóa luân chuyển của Việt Nam giai đoạn
2009-2012
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2012
Từ khối lượng vận chuyển theo ngành vận tải qua các năm cho thấy rõ tầm quan
trọng của ngành vận tải biển cũng như sức phát triển của ngành vận tải biển trong khi
nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng.

Bảng 4: Lượng khách và hàng hóa vận chuyển bằng đường biển giai đoạn
15
2009 - 2013
Năm 2009 2010 2011 2012
Hành khách
(triệu lượt người)
151,3 157,5 142,4 141,9*
Hàng hóa
(ngàn tấn)
55790,9 61593,2 63904,5 61476,1*
Nguồn: Niên giám thông kê
Số lượng hành khách đi lại bằng đường biển lớn thứ hai sau đường bộ trong các
phương tiện vận chuyển. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số lượng hành khách đi
bằng đường biển có giảm nhẹ. Do sự phát triển của phương tiện vận chuyển khác, đặc
biệt là sự tiện nghi của phương tiện hàng không, nên số khách quốc tế chuyển sang sử
dụng loại này. Tốc độ giảm bình quân về vận chuyển hành khách là: 2,11%. Khối lượng
hàng hóa vận chuyển không ngừng tăng lên qua các năm. Đường biển có thể vận chuyển
những hàng hóa có trọng lượng rất lớn. Tốc độ tăng bình quân về vận chuyển hàng hóa
là: 3,3%.
+ Vận tải hàng không
Vận tải hàng không là một hoạt động không thể thiếu trong vận tải quốc tế . Dịch vụ
vận tải hàng không Việt Nam có lịch sử hình thành còn quá non trẻ. Cùng với chính sách
mở của nền kinh tế, ngành hàng không đã có những bước tiến vượt bậc trong những năm
qua, đặc biệt trong lĩnh vực vận tải hàng không. Nhiều chuyến bay mới trong nước và
quốc tế được thiết lập và hoạt động như: Malaysia Airlines, China Airl, Korea Airlines.
Quata Airlines, Airl France…
Nhà nước đã có pháp luật cho ngành hàng không Việt Nam ra đời năm 1991, bên
cạnh đó các luật doanh nghiệp nhà nước, luật công ty… đã góp phần tạo nên một hành
lang pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp vận tải hàng không, các yếu tố nước ngoài
được hình thành ở Việt Nam.

Bảng 5: Lượng khách và hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng không trên
toàn Việt Nam giai đoạn 2009 - 2012
Năm 2009 2010 2011 2012
Hành khách
(triệu lượt người người)
10,9 14,2 15,1 14,9*
Hàng hóa
(nghìn tấn)
139,6 190,1 200,3 178,7*
16
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2012
Trong những năm qua tổng sản lượng hành khách thông qua cảng hàng không đạt
55,1 triệu lượt khách, tăng bình quân 10,98 %năm; sản lượng hàng hóa thông qua cảng
là 708,7 nghìn tấn, tốc độ tăng bình quân là 8,6 %.
Tổng doanh thu toàn ngành năm 2012 là 1500 tỷ đồng và cả giai đoạn đạt trên
83.000 tỷ đồng, trung bình tăng 16,3%/năm, nộp ngân sách đạt 7.148 tỷ đồng, tăng
trưởng 9%/năm.
2.1.4. Thanh toán quốc tế và tiền tệ quốc tế
− Theo Quy chế đại lý đổi ngoại tệ ban hành kèm theo Quyết định số 21/2008/QĐ -NHNN
ngày 11/7/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, hoạt động thu đổi ngoại tệ được
thực hiện qua mạng lưới thu đổi trực tiếp của hệ thống ngân hàng và các tổ chức kinh tế
làm dịch vụ đại lý đổi ngoại tệ được các ngân hàng thương mại uỷ nhiệm. Với mục tiêu
vừa thu hút ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, vừa đảm bảo sự thống nhất trong quản lý,
chính sách quản lý ngoại hối đối với đại lý đổi ngoại tệ đã chuyển hướng sang quản lý
về chất và đặc biệt chú trọng công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng khác để đảm
bảo hoạt động thu đổi ngoại tệ được thực hiện hiệu quả, đúng pháp luật.
Bảng 6: Tình hình dịch vụ tài chính Việt Nam năm 2009 – 2012
ĐV:Ttriệu USD
Năm 2009 2010 2011 Sơ bộ 2012
Dịch vụ

tài chính
175 192 208 150
Nguồn: Niên giám thống kê 2012
Nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu dịch vụ tài chính liên tục tăng từ năm 2009 đến
năm 2011 tăng 33 triệu USD. Tuy nhiên năm 2012 lại giảm một cách nhanh chóng,
lượng ngoại tệ thu được thấp hơn cả năm 2009. Nguyên nhân là do kinh tế suy giảm,
chính sách tài chính, tiền tệ thực hiện theo hướng thắt chặt, nhưng chất lượng tín dụng bị
giảm sút, biểu hiện rõ nhất là nợ xấu, nợ quá hạn tăng. Ngoài nguyên nhân bất ổn kinh tế
tác động, thì phải kể đến nguyên nhân từ chính các Ngân hàng thương mại như cho vay
chưa thực sự gắn với năng lực quản lý và sử dụng vốn vay của doanh nghiệp…
17
- Chính sách thu hút kiều hối
Theo quy định hiện hành, người nhận kiều hối được quyền nhận bằng ngoại tệ hoặc
đồng Việt Nam, được gửi ngoại tệ vào tài khoản tiền gửi cá nhân, gửi tiết kiệm ngoại tệ và
sử dụng vào các mục đích theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chính sách phát triển
mạng lưới nhận và chi trả ngoại tệ trên phạm vi toàn quốc đã tạo điều kiện thuận tiện cho
việc nhận kiều hối. Nhờ đó, nguồn kiều hối hàng năm chuyển về Việt Nam đã góp phần
đáng kể vào cân đối cung cầu ngoại tệ, hỗ trợ cán cân thanh toán quốc tế.
Năm 2012, Việt Nam thu hút hơn 10 tỷ USD kiều hối và lượng tiền này đã đưa Việt
Nam xếp thứ 7 trong số các nước nhận kiều hối nhiều nhất thế giới. "Lượng kiều hối này
chiếm 60-70% nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ năm 1991 tới nay và đây là
nguồn tiền thực đóng góp rất hiệu quả vào công cuộc phát triển kinh tế, góp phần ổn
định tỷ giá và tăng lượng dự trữ ngoại tệ". Theo Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở
nước ngoài, kiều hối năm 2012 tăng hơn 10% so với năm 2011. Lượng kiều hối năm
2012 tăng, một phần còn do những cải tiến trong giao dịch khiến thời gian tiến hành
nhanh và thuận tiện hơn nhiều so với trước mang lại tiện ích tốt nhất cho khách hàng.
Đóng góp rất lớn vào nguồn kiều hối năm 2012 là hơn 4 triệu kiều bào đang sinh sống
tại nước ngoài và đặc biệt là 400.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Nhật Bản,
Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan (Trung Quốc) và khu vực Trung Đông.
Năm 2012 lượng kiều hối bán cho hệ thống ngân hàng tăng mạnh. Theo ông Nguyễn

Hoàng Minh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP HCM, 30% kiều hối được
chuyển về đã được người dân bán lại cho ngân hàng trong khi năm ngoái con số này chỉ
là 14%. "Tỷ giá ổn định và chênh lệch giữa tỷ giá niêm yết ngân hàng và thị trường tự
do không đáng kể là nguyên nhân tạo nên điểm khác biệt này"
2.2. Đánh giá tác động của dịch vụ thu ngoại tệ ở Việt Nam
2.2.1. Tích cực
Hoạt động DV thu ngoại tệ của Việt Nam trong những năm qua đã đem lại một
lượng ngoại tệ không nhỏ trong việc xây dựng phát triển KT – XH. Hoạt động này có
18
mặt tích cực như: thu hút một số lượng lớn lao động thất nghiệp, quảng bá hình ảnh Việt
Nam trên trường quốc tế. Cụ thể như sau:
Lĩnh vực du lịch, đã thu hút các thành phần kinh tế tham gia cả về quy mô, số lượng
và chất lượng hoạt động. Hoạt động du lịch đã được mở rộng với nhiều hình thức như:
du lịch biển, du lịch sinh thái, văn hóa,… Số lượng khách du lịch tăng… Cơ sở vật chất
kĩ thuật phục vụ du lịch được tăng cường đáng kể, chất lượng nguồn nhân lực dần dần
được phát triển.
Lĩnh vực xuất khẩu lao động, trong thời gian qua đã có hơn 400.000 lao động của
Việt Nam làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đây là một kết quả có ý nghĩa quan trọng,
góp phần tăng thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ. Lao động Việt
Nam từ chỗ tham gia xuất khẩu lao động một cách tự phát, manh mún thì bây giờ đã có
tính tổ chức hơn.
Lĩnh vực vận tải quốc tế, trong những năm qua vận tải quốc tế đường biển và hàng
không đều có những thành công nhất định thể hiện ở số lượt hành khách, và khối lượng
hàng hóa vận chuyển. Việt Nam nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế
sôi động nhất thế giới, là đầu mối giao thông quan trọng, thuận lợi trong thương mại
hàng hóa quốc tế.
2.2.2. Tiêu cực
Ngoài những mặt tích cực mà hoạt động thu ngoại tệ đã mang lại cho Việt Nam, thì
vẫn còn tồn tại những hạn chế đã gây cản trở không nhỏ đến hoạt động dịch vụ thu ngoại
tệ. Như việc tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra bên ngoài còn hạn chế ở một

số khu vực trên thế giới,chưa đáp ứng được xu hướng hội nhập nhanh và rộng; cơ sở hạ
tầng kĩ thuật chưa đáp ứng việc phát triển hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ. Bên cạnh đó,
tùy theo từng lĩnh vực mà hoạt động thu ngoại tệ còn hạn chế cần thay đổi cụ thể:
- Lĩnh vực du lịch: Tuy ngành du lịch đã có những bước phát triển như trên, nhưng
trên thực tế vẫn chưa thực sự bền vững. Giá dịch vụ du lịch tăng cao, chất lượng dịch vụ
thấp. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tác động dây chuyền ảnh hưởng đến lượng
khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Bên cạnh đó, công tác quảng bá, xúc tiến du lịch
19
chưa được chú trọng đúng mức cũng là nguyên nhân khiến lượng khách du lịch quốc tế
giảm. Ngoài ra sự phối hợp, liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch và các ngành khác
chưa được chặt chẽ nên dịch vụ du lịch Việt Nam chưa đa dạng, giá dịch vụ du lịch càng
khá cao so với các nước trong khu vực. Cùng với đó là các vấn đề khác như: giao thông,
quy hoạch đô thị, vệ sinh an toàn thực phẩm…Chưa được giải quyết triệt để đã ảnh
hưởng rất nhiều đến chất lượng phục vụ và khả năng cạnh tranh thu hút khách du lịch.
Tóm lại, du lịch Việt Nam còn nhiều hạn chế như cơ sở hạ tầng còn kém, chất
lượng phục vụ chưa cao… Điều này dẫn đến tình trạng lượng khách du lịch quay trở lại
không nhiều.
- Lĩnh vực xuất khẩu lao động: Mặc dù xuất khẩu lao động đã được những thành
tựu đáng kể trên nhưng vấn đề này vẫn tồn tại một số hạn chế. Công tác xuất khẩu lao
động trong thời gian qua vẫn chưa ổn định, chưa tương xứng vơi tiềm năng lao động
trong nước. So với các nước trong khu vực thì số lượng lao động xuất khẩu của nươc ta
vẫn khá khiêm tốn.
Về chất lượng lao động là một điều rất được quan tâm của lao động Việt Nam, lao
động nước ta được biết đến với những bất lợi thể hiện ở “ba không”: không nghề,
không ngoại ngữ và không tác phong công nghiệp. Điều này trở thành một bất lợi lớn
cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài.
Như đã biết trình độ tay nghề của lao động Việt Nam khi xuất khẩu ra nước ngoài
rất thấp, chúng ta chủ yếu xuất khẩu những lao động phổ thông chưa qua đào tạo nghề,
không có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chính vì vậy mà thu nhập của người lao động
Việt Nam luôn thấp hơn lao động xuất khẩu của các nước khác.

Sức khỏe của lao động xuất khẩu của nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế, lao động
xuất khẩu của nước ta chỉ đủ sức khỏe làm các công việc ở các ngành nghề công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, làm việc trong các nhà máy còn các công việc như đi
biển, xây dựng thì chưa đạt yêu cầu. Đây cũng là một trong những trở ngại cho lao
động Việt Nam.
20
Kĩ luật lao động là một điều mà đã gây ra tai tiếng cho lao động nước ta khi làm
việc ở nước ngoài. Lao động nước ta khi làm việc ở các nước sở tại đều thiếu kỉ luật và
thiếu nghiêm túc trong việc thực hiện bảo hộ lao động. Bằng chứng là rất nhiều lao
động ở nước ta làm việc tại Malaysia thường xuyên bị tai nạn lao động kể từ năm 2004
trở lại đây.
- Lĩnh vực vận tải quốc tế: Các doanh nghiệp vận tải của Việt Nam chủ yếu là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp còn yếu; nguồn
nhân lực cũng rất hạn chế và chưa được đào tạo một cách bài bản.
Ngoài ra, chính hệ thống giao thông không đồng bộ, chất lượng dịch vụ kém đã
khiến cho cước phí vận chuyển của Việt Nam cao nhất Đông Nam Á. Việt Nam lại
thiếu các cảng nước sâu, cảng trung chuyển, công nghệ bốc xếp tại nhiều cảng vẫn còn
thô sơ nên năng suất chưa cao. Kho bãi cũng chưa được đầu tư xây dựng theo chuẩn
quốc tế khiến khách hàng e ngại khi chọn Việt Nam làm điểm trung chuyển.
Theo Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông Vận tải), lĩnh vực quan trọng của vận
tải quốc tế là vận tải biển. Hiện có đến 90% hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam được
vận chuyển bằng đường biển. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng
chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu; phần còn lại do các công
ty nước ngoài nắm giữ. Việt Nam có nhiều doanh nghiệp dịch vụ vận tải nhưng đa phần
là doanh nghiệp nhỏ, chỉ dừng lại ở vai trò cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các hãng nước
ngoài trong chuỗi hoạt động như làm thủ tục hải quan, cho thuê phương tiện vận tải,
kho bãi….
Có thể nói cơ sở hạ tầng, đặc biệt hạ tầng giao thông là nền tảng, là trái tim, mạch
máu của hoạt động vận tải quốc tế. Bên cạnh những hạn chế về hạ tầng giao thông, ở
Việt Nam vẫn còn vắng bóng các doanh nghiệp vận tải lớn có khả năng đảm đương

được toàn bộ các khâu trong chuỗi cung ứng dịch vụ, do đó nguồn lợi to lớn từ loại
hình dịch vụ tổng hợp này vẫn tiếp tục chảy vào túi các doanh nghiệp nước ngoài.
2.3. Triển vọng của hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ
2.3.1. Hoạt động du lịch quốc tế
21
Việt nam hiện nay là một quốc gia có tiềm tăng và được đánh giá là 1 trong 10 nước
có triển vọng tăng trưởng ngành du lịch cao nhất thế giới giới.
Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nói
chung và du lịch nói riêng, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch.
Sự đa dạng về nguồn tài nguyên cả về thiên nhiên ( bãi biển, hang động, đảo, nước
khoáng, lớp phủ thực vật, giới động vật quý hiếm, nhiều cảnh quan thiên nhiên độc đáo
điển hình…) lẫn nhân văn ( các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, phong tục tập quán,
các làng nghề thủ công truyền thống, sự đa dạng về bản sắc văn hóa của dân tộc….), là
điều kiện, là tiềm năng để phát triển nhiều loại hình du lịch với thời gian dài ngắn khác
nhau.
Tài nguyên du lịch nước ta phân bố tương đối tập trung. Điều đó góp phần hình
thành các lãnh thổ du lịch điển hình trong toàn quốc. Mỗi lãnh thổ du lịch có một sắc
thái riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, không lặp lại giữa vùng này với
vùng khác nên thường không làm nhàm chán khách du lịch. Mặt khác chúng lại gần các
đô thị lớn, các cửa khẩu quốc tế quan trọng tạo thuận lợi cho việc đi lại, thăm viếng, ăn
ở của khách. Nhiều vùng du lịch của Việt Nam, nếu được quy hoạch và đầu tư thích
đáng sẽ trở thành những trung tâm du lịch lớn có thể cạnh tranh với các nước tỏng khu
vực và trên thế giới. Đó là trung tâm du lịch Hà Nội và phụ câng ( Hà Tây, Ninh Bình,
Phú Thọ, Hòa Bình…), vùng biển Hạ Long – Cát Bà – Đồ Sơn ( Quảng Ninh- Hải
phòng), vùng Đại Lãnh, Văn Phong, Nha Trang ( khánh hòa), Đảo Phú Quốc ( Kiên
Giang), Huế - Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng song Cửu Long…
Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, lao động có kĩ thuật, thông minh, bước đầu đã
tiếp cận và làm quen với các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch quốc tế. Việc phát
triển du lịch trong tương lai sẽ tạo nhiều việc làm cho đất nước.
Với những tiềm năng và triển vọng phát triển như vậy, ngành du lịch việt nam trong

tương lai, có thể đón hàng triệu lượt khách du lịch quốc tế đến với nước ta. Nếu phấn
đấu và đầu tư một cách kĩ lưỡng thì vào năm 2020 nước ta có thể sẽ đón 12 triệu lượt
khách du lịch quốc tế.
2.3.2. Hoạt động xuất khẩu lao động ra nước ngoài
22
Nhìn chung trong thời gian tới đây, triển vọng của các thị trường xuất khẩu lao động
của nước ta ở khu vực châu Á đều rất khả quan. Nhu cầu lao động nước ngoài tại các
thị trường này là rất lớn và có thể còn tăng lên nhiều trong tương lai. Theo ước tính
trong vòng 6 đến 7 năm nữa, từ nay đến năm 2020, nhu cầu về lao động nước ngoài
của toàn bộ những nước mà ta đưa lao động sang làm việc có thể tăng đến con số
130.000 lao động. Ngoài ra, còn phải kể đến những thị trường tiềm năng thuộc khu vực
này như: Singapore, Bruney…mà chính phủ ta đang có kế hoạch xúc tiến tiếp cận.
Trong những năm qua, với sự phối hợp và hỗ trợ của các cơ quan liên quan, và với sự
năng động, nhạy bén và bằng nhiều biện pháp chúng ta đã nâng cao chất lượng lao
động, nhờ đó các thị trường của như Nhật Bản, Hàn Quốc xuất khẩu lao động đều tăng
lên hăng năm. Từ năm 2011 đến nay Bộ Lao động thương binh và Xã hội đã thực hiện
các hoạt động ngoại giao mở rộng thị trường, đã tổ chức cho các doanh nghiệp đi khảo
sát mở thị trường tại các nước ở khu vực khác nhau. Triển vọng dự đoán của từng thị
trường cụ thể như sau:
+ Khu vực Trung Đông đây là một trong những khu vực thu hút số lượng lao động
lớn nhất thế giới, với ngành nghề đa dạng. Một số doanh nghiệp nước ta đã đưa lao
động xây dựng, dệt may sang khu vực này, bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả và có
khả năng trong tương lai gần sẽ tiếp nhận số lượng lớn công nhân xây dựng, công nhân
sản xuất của Việt Nam.
+ Châu Phi cũng có nhu cầu lao động ở nước ngoài. Libya là thị trường đã tiếp
nhận lao động xây dựng Việt Nam ổn định trong những năm gần đây theo hình thức
cung ứng trực tiếp, cho đến nay ta đã đưa được trên 10.000 lượt người qua khu vực này.
+ Các thị trường trọng điểm hiện nay là thị trường Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, thị trường lao động trên biển đang rất tiềm năng, hàng năm thu hút hàng triệu
lao động nước ngoài vào các nhóm ngành nghề: xây dựng, công nghiệp, dịch vụ, vận tải

biển, đánh bắt và chế biến hải sản mà chúng ta có khả năng đáp ứng. Ví dụ: Nền kinh tế
rất phát triển của Nhật Bản hàng năm cần một lượng lớn lao động mà dân số với tỉ lệ
người quá tuổi lao động lên đến 30% không đáp ứng đủ. Vì vậy, hiện nay Nhật Bản vẫn
23
cần một lượng lớn lao động mà Việt Nam hoàn toàn có khả năng đáp ứng, giúp giải
quyết tình trạng thiếu việc làm trong nước.
2.3.3. Dịch vụ vận tải quốc tế
Tuy chỉ mới xuất hiện tại Việt Nam từ khi nền kinh tế hàng hóa ra đời, nhất là khi
trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước trên thế giới phát triển, nhưng
ngành logistics mà trong đó vận tải là khẩu qua trọng nhất đã và đang từng bước góp
phần rất lớn của mình vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Theo Bộ Công
Thương, dịch vụ logistic ở Việt Nam chiếm từ 15 - 20% GDP (khoảng 12 tỷ USD) -
một khoản tiền rất lớn và gắn với toàn bộ khâu lưu thông, phân phối của nền kinh tế.
Nếu chỉ tính riêng khâu quan trọng nhất của logistic là vận tải, chiếm từ 40 - 60% chi
phí thì cũng đã là một thị trường dịch vụ khổng lồ. Điều này cho thấy, dịch vụ vận tải
quốc tế có ý nghĩa quan trọng và việc giảm chi phí này sẽ góp phần tạo lợi thế cạnh
tranh cho hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp trong nước.
Tiềm năng phát triển dịch vụ vận tải quốc tế còn to lớn hơn nữa khi kim ngạch
thương mại Việt Nam được xem là có mức tăng nhanh nhất trong khu vực với tốc độ
gần 18 - 20%/năm và kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 114 tỷ USD.
Theo lộ trình cam kết WTO về mở cửa thị trường, Việt Nam sẽ dần mở rộng cửa để
các doanh nghiệp quốc tế tham gia vào hoạt động dịch vụ vận tải cùng với dịch vụ xếp
dỡ container, dịch vụ thông quan, dịch vụ kho bãi, các dịch vụ thực hiện thay cho chủ
hàng… Đến năm 2015, Việt Nam sẽ nâng gấp đôi năng lực xếp dỡ hàng hóa so với hiện
tại (khoảng 250 triệu tấn/năm) (theo quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển cảng
biển Việt Nam ngày 24/12/2009).
Những động thái tích cực này đang mở ra một bức tranh tươi sáng, tràn đầy hy vọng
cho ngành logistics nước nhà trong thời gian tới. Đồng thời cho ta niềm tin về một tương
lai không xa, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển vận tải quốc tế qua
đó sẽ góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.

2.3.4. Thanh toán quốc tế và tiền tệ quốc tế
Cán cân thanh toán không còn là vấn đề đáng lo ngại, chí ít là trong tương lai gần,
khi năm 2012, cán cân thương mại từ nhập siêu chuyển sang thặng dư, giúp loại bỏ thâm
24
hụt thương mại cao trước đây đã hạn chế tác động tích cực của các dòng vốn FDI, ODA
và kiều hối; đồng thời, cán cân thanh toán năm 2012 thặng dư khoảng 10 tỉ USD. Theo
dự báo của các chuyên gia kinh tế, thặng dư cán cân thanh toán trong năm 2013 sẽ giảm
nhẹ so với năm 2012 do nhập siêu có thể quay trở lại gây ra thâm hụt thương mại
khoảng 1-2 tỉ USD, trong khi cán cân vốn sẽ ổn định nhờ dòng vốn vào ổn định.
25

×