Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Truyện ngắn nguyễn ngọc tư từ góc nhìn nhân học sinh thái 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.96 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THANH TÌNH

TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
TỪ GĨC NHÌN NHÂN HỌC SINH THÁI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM

ĐÀ NẴNG – NĂM 2021


Cơng trình được hồn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: NGÔ MINH HIỀN

Phản biện 1: TS. Hà Ngọc Hòa
Phản biện 2: TS. Đàm Nghĩa Hiếu

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam họp tại Trường Đại
học Sư phạm vào ngày 25 tháng 09 năm 2021

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Trường Đại học Sư phạm – ĐHĐN


Khoa Ngữ văn. Trường Đại học Sư phạm - ĐHĐN


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Vấn đề sinh thái môi trường đang trở thành vấn đề cấp
bách, được tồn xã hội quan tâm. Sự phát triển chóng mặt của xã hội,
kiến trúc hạ tầng, khoa học kĩ thuật của con người ngày càng tác
động mạnh, gia tăng về tốc độ và càng khốc liệt về phương thức
khiến nguồn nước, khơng khí và mơi trường bị ơ nhiễm nghiêm trọng
đe dọa cuộc sống của con người, đến tự nhiên. Cùng với việc ngăn
chặn, khắc phục hậu quả của thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái
cho con người, việc tìm kiếm, lý giải nguyên nhân là do dân số tăng,
nhu cầu tiêu thụ cực nhanh và do cái nhìn thiển cận của con người,
việc môi trường tự nhiên bị tàn phá một cách tàn nhẫn, khai thác mà
không bảo vệ, nhằm giải quyết chúng một cách hiệu quả là vấn đề cả
nhân loại đang quan tâm.
Tiến vào thế kỉ XXI, khoa học và công nghệ ngày đạt được
những thành tựu vượt bậc, khi con người thành trung tâm của của vũ
trụ với tư tưởng làm bá chủ toàn cầu. Chính lúc này nhân loại trở
thành những vấn nạn bức thiết, môi trường tự nhiên bị phá hủy ngày
càng tàn khốc. Con người xây dựng ngày càng nhiều nhà máy, tịa
nhà cao ốc, nhiều máy móc tân tiến ra đời đồng hành cùng với đó là
sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, nguồn nước sạch cạn kiệt,
dịch bệnh tràn lan. Đó là những hệ lụy con người phải chịu đựng,
khiến con người nhìn nhận lại thái độ, hành động và trách nhiệm của
mình với hệ sinh thái, mơi trường sống xung quanh mình.
1.2. Trên thế giới, vào những năm cuối thế kỷ XX, vấn đề sinh
thái đã được quan tâm đặc biệt và đã trở thành một khuynh hướng

trong sáng tác và nghiên cứu văn học. Lý thuyết nhân học sinh thái
(Ecological Anthropology) nghiên cứu mối quan hệ giữa con người
với mơi trường tự nhiên, đã hình thành và phát triển mạnh mẽ, được


2
các nhà nhân học phương Tây chú ý đặc biệt. Ở Việt Nam lý thuyết
này cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tiếp thu và vận
dụng khéo léo trong điều kiện Việt Nam nhằm nghiên cứu mối quan
hệ giữa con người với môi trường tự nhiên.
Trong văn học đương đại Việt Nam, từ những quan điểm, cách
thức tiếp cận và ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, vấn đề môi
trường tự nhiên đã được các tác giả Sơn Nam, Nguyễn Minh Châu,
Anh Đức, Đoàn Giỏi……đề cập. Họ đã chú ý đến các nguyên nhân
khiến môi trường bị tàn phá, hủy diệt như chiến tranh, đói nghèo, sự
gia tăng dân số, q trình đơ thị hóa hoặc lịng tham của con người...
Cái nhìn từ góc độ nhân học sinh thái cũng đã ít nhiều xuất hiện
trong sáng tác của các nhà văn.
1.3. Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn nữ xuất sắc
trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Trong truyện ngắn của chị,
vấn đề văn hố, con người và mơi trường sinh thái được thể hiện một
cách cấp bách, trực diện và tha thiết. Bằng tình yêu đối với con
người và vùng đất Nam bộ, sự nhạy cảm với môi trường và thức
nhận sâu sắc về các vấn đề khoa học sinh thái, Nguyễn Ngọc Tư đã
thể hiện sự cảm nhận, quan điểm của mình về con người, thiên nhiên
và mối giao hòa giữa thiên nhiên với con người rất cụ thể trong sáng
tác, đặc biệt là trong truyện ngắn của mình. Mối quan hệ ảnh hưởng
qua lại giữa con người và tự nhiên đã giúp Nguyễn Ngọc Tư phát
hiện, miêu tả nhiều vấn đề về môi trường và số phận cá nhân trong
chỉnh thể sinh thái, làm nên sự đặc sắc cho truyện ngắn của nhà văn.

1.4. Nguyễn Ngọc Tư được mệnh danh là nhà văn của “miền
quê sông nước” Nam bộ. Truyện ngắn của chị thể hiện rõ cảm quan
đặc biệt về mối quan hệ giữa con người Nam bộ với vùng đất
phương Nam. Nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn
nhân học sinh thái là một hướng tiếp cận mới có thể khám phá sự


3
đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đồng thời khẳng định tài
năng, sự mới mẻ trong sáng tạo nghệ thuật, cái nhìn nhạy bén, cấp
tiến của của nhà văn cũng như ý thức trách nhiệm của nhà văn đối
với các vấn đề của cộng đồng, của con người, cụ thể là vấn đề an
ninh sinh thái.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư đặc sản miền Nam, Trần Hữu
Dũng đã thể hiện sự nghiên cứu sâu sắc truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Nhà nghiên
cứu đặc biệt nhấn mạnh phong cách sáng tác mang đậm chất Nam
Bộ đề cao tài năng sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ của nhà văn Nguyễn
Ngọc Tư coi đây là “đặc sắc riêng khơng thể trộn lẫn với bất kì nhà
văn nào” [9].
Cùng với đánh giá cao khả năng miêu tả vô cùng tinh tế và hết
sức sắc sảo trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư Huỳnh Cơng Tín
đồng thời khẳng định tài năng của Nguyễn Ngọc Tư trong việc dùng
ngôn ngữ xây dựng hình ảnh khơng gian Nam Bộ “Đặc biệt vùng đất
và con người Nam Bộ trong sáng tác của chị được dựng lại bằng
chính chất liệu của nó là ngôn từ và văn phong nhiều chất Nam Bộ
của chị”. Theo tác giả bài viết, bên cạnh một số những hạn chế về cái
nhìn cảm thơng với những vấn đề nhỏ và chưa có tính bao qt của
nhà văn thì “ những cái đáng trân trọng ở sáng tác của Nguyễn Ngọc

Tư là chất Nam bộ, điều này cần được phát huy [51].
Bùi Cơng Thuấn mang đến một cái nhìn tổng quan trong hành
trình sáng của nguyễn Ngọc Tư từ tác phẩm Cánh đồng bất tận cho
đến Gió lẻ, Khói trời lộng lẫy, Không ai qua sông…. Nguyễn Ngọc
Tư Cầm bút là để nói ra tình cảm, suy nghĩ sâu thẳm trong mỗi con
người [49].


4
Trần Phỏng Diều đi tìm thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư thực chất là đi tìm những hình tượng văn học trong
sáng tác của tác giả. Các hình tượng văn học này cứ trở đi trở lại và
trở thành một ám ảnh khôn nguôi, buộc người viết phải thể hiện ra
tác phẩm của mình [8].
Phạm Thái Lê với bài Hình tượng con người cơ đơn trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đã đưa ra kết luận “Cũng đề cập đến
nỗi cô đơn của con người nhưng chúng tôi nhận thấy quan niệm của
Nguyễn Ngọc Tư rất khác. Cô đơn là nỗi đau, là bi kịch tinh thần lớn
nhất của con người. Nhưng đọc Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta cảm
nhận rất rõ niềm cô đơn mà không thấy sự bi quan tuyệt vọng. Nhân
vật của chị ý thức về sự cơ đơn. Họ chấp nhận bởi họ tìm thấy trong
nỗi cô đơn một lẽ sống và từ trong nỗi đau ấy, họ vương lên làm
người. Cô đơn trong quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư là động lực
của cái đẹp, cái thiện” [26].
Thụy Khuê với bài viết Không gian sông nước trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư cho rằng Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng được
một không gian Nam Bộ với đồng ruộng sơng nước đặc sắc trong tác
phẩm của mình: “Chị thường kể lại những nỗi u hoài trầm lặng, sự
nhẫn nại chịu đựng cam phận trong tâm hồn người dân quê miền
Nam, mà đời sống gắn bó với con kinh, con rạch” [23].

Trong bài viết Nguyễn Ngọc Tư – nữ nhà văn xóm rẫy,
Nguyễn Thanh cũng khẳng định “Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn
có chân Tài” (....)“Tác phẩm của nhà văn mang tính hiện thực sâu sắc
vì đã phản ánh được chân dung đích thực với tâm tư, nguyện vọng và
tình cảm của lớp người lao động nghèo khó ở Đồng bằng sơng Cửu
Long, bằng một phong cách nghệ thuật tiêu biểu cho lối viết chân
chất mà cô đọng của những người cầm bút ở phương Nam” [45].


5
Khi nghiên cứu về Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư từ góc nhìn phê bình sinh thái, Trần Thị Ánh Nguyệt cho
rằng Nguyễn Ngọc Tư đã rất quan tâm lắng nghe tiếng nói của tự
nhiên chú ý đến về vai trò của con người và thiên nhiên, các nguy cơ
bị hủy hoại của môi trường sinh thái, xem đây là những vấn đề “trực
diện”, “bức thiết” mà văn chương cần phải đề cập đến. Tác giả bài
viết cho rằng “Con người đã bỏ rơi thiên nhiên. Sự thiếu vắng tự
nhiên khiến cho môi trường văn học trở nên khô khan, ngột ngạt bởi
những toan tính, lọc lừa, xảo trá của đời sống cuống quýt, vội vã.
Nghệ thuật phải thông qua miêu tả mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên để tạo nên sức hút, sức sống. Vậy nên, những truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư đã làm “xanh” một khoảng khơng gian văn học, từ
đó đề xuất cho chúng ta nhiều vấn đề trước Mẹ Trái Đất và giúp
chúng ta nhận ra khi loài người càng trưởng thành càng phải nhận ra
mình đã phụ phàng với nơi mà con người lớn lên, gắn bó và đặt hi
vọng ở đó” [35].
Khi phân tích, nêu ra những hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống
con người trong truyện ngắn Khói trời lộng lẫy của Nguyễn Ngọc
Tư, Trần Văn Hải cho rằng trong Khói trời lộng lẫy, thông qua nhân
vật Di, thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp nên thơ, có vai trị quan trọng

trong cuộc sống con người “Thiên nhiên bao bọc chở che, nuôi sống
con người. Tất cả những phận đời trôi dạt đến xóm Cồn để sinh tồn
họ phải phụ thuộc vào tự nhiên. Dịng sơng cung cấp cho họ nước
sinh hoạt, cung cấp thực phẩm cá, tơm, thậm chí là nơi họ trút bỏ
những nỗi buồn, những ẩn ức của quá khứ” [15]. Bên cạnh việc chỉ
ra đặc sắc nghệ thuật trong việc sử dụng ngơn ngữ, hình ảnh, giọng
điệu của tác phẩm. Tác giả nhận thấy trong truyện ngắn này, nhà văn
Nguyễn Ngọc Tư đã thể hiện niềm hi vọng mong manh trong việc
cứu rỗi thiên nhiên.


6
Dựa trên một số luận điểm nữ quyền sinh thái, Phạm Ngọc
Lan đã khẳng định “Tóm lại, từ góc nhìn lý thuyết nữ quyền sinh
thái, ta có thể gọi Cánh đồng bất tận là cuộc hành trình khắc khoải
nhưng vơ vọng đi tìm lại bản sắc giới tính, tình u và sự hịa hợp
giới tính, sự nảy nở sinh sơi trong một thế giới cằn cỗi, vơ sinh,
hoang hóa của thời đại, khi con người đã mất đi khả năng giao tiếp
với chính mình trong q trình hủy diệt thế giới tự nhiên”[24].
Có thể thấy có rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu về
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư nói chung và thể loại truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư nói riêng. Các nghiên cứu đều khá thống nhất trong
đánh giá về nội dung tư tưởng, nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư.
Vấn đề sinh thái trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đã ít
nhiều được đề cập, tuy nhiên các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào
một vài truyện ngắn riêng lẻ và chủ yếu nghiêng về phê bình, đánh
giá các vấn đề sinh thái trong văn chương, từ góc nhìn văn hố học
hoặc phê bình sinh thái mà chưa có một cơng trình nghiên cứu
chun sâu về truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn nhân học

sinh thái. Vì thế, đặt vấn đề xem xét Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
từ góc nhìn Nhân học sinh thái chúng tơi hy vọng sẽ phát hiện thêm
những nét độc đáo, sáng tạo mới mẻ trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
8 tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã được xuất bản,
gồm:
- Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2006
- Khói trời lộng lẫy, NXB Thời đại, 2010
- Không ai qua sông, NXB Trẻ, 2016


7
- Ngọn đèn không tắt, NXB Trẻ, 2018
- Đảo, NXB Trẻ, 2018
- Giao thừa, NXB Trẻ, 2018
- Gió lẻ, NXB Trẻ, 2008
- Cố định một đám mây, NXB Đà Nẵng, 2018
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề về thiên nhiên, con người, mối quan hệ giữa
con người, văn hoá với môi trường tự nhiên trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư.
Các phương thức nghệ thuật làm nên đặc sắc truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn nhân học sinh thái.
4. Mục đích và phương pháp nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
- Từ góc nhìn nhân học sinh thái khám phá nội dung và nghệ
thuật truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
- Nhìn nhận mối quan hệ giữa môi trường sinh thái vùng đồng

bằng sông Cửu Long với con người nơi đây được phản ánh trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
- Thấy được sự nhạy cảm, nhạy bén trong sáng tác của Nguyễn
Ngọc Tư qua cảm quan sinh thái, thức nhận về vấn đề môi trường
sinh thái, an ninh sinh thái được thể hiện trong tác phẩm.
- Khẳng định giá trị truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, tài năng và
đóng góp của nhà văn đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương
pháp sau:
4.2.1 Phương pháp cấu trúc, hệ thống:
Cấu trúc truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thành một hệ thống để
xem xét các vấn đề nhân học sinh thái được biểu hiện trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư theo hệ thống đã xác định.


8
4.2.2 Phương pháp liên ngành:
Sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu của các ngành
văn hóa, sinh học, dân tộc học... để nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư.
4.2.3 Phương pháp so sánh- đối chiếu:
So sánh, đối chiếu truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư với một
số tác phẩm của các nhà văn đương đại như: Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Quang Thiều, Đoàn Giỏi,… để thấy được nét tương đồng và
dị biệt trong việc thể hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
trong tác phẩm văn học.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu chúng tơi cịn sử dụng
thêm các phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

- Tạo ra một cái nhìn riêng, hướng nghiên cứu mới trong việc
tiếp cận các tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại.
- Thấy được quan niệm của Nguyễn Ngọc Tư về vấn đề con
người và môi trường, sự chi phối của quan niệm này trong sáng tác
của Nguyễn Ngọc Tư. Khám phá mối quan hệ giữa con người với
môi trường sinh thái được thể hiện sâu sắc trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư trên phương diện nội dung và nghệ thuật.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái lược về nhân học sinh thái và truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư
Chương 2: Thiên nhiên, con người trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư từ góc nhìn nhân học sinh thái
Chương 3: Một số phương thức nghệ thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn nhân học sinh thái


9
CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC VỀ NHÂN HỌC SINH THÁI
VÀ TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
1.1. Nhân học sinh thái và sự vận dụng lý thuyết nhân học sinh
thái ở Việt Nam
1.1.1. Về khái niệm “nhân học sinh thái” và sự phát triển
của “nhân học sinh thái”
Nhân học sinh thái là mối quan hệ giữa mơi trường và văn
hóa. Nhân học sinh thái là mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố: văn
hóa với tự nhiên – sự ảnh hưởng của yếu tố văn hóa tới mơi trường
tự nhiên, con người với tự nhiên- nhận thức, ứng xử của con người

đối với môi trường tự nhiên.
Nhân học sinh thái trải qua hai giai đoạn phát triển. Giai đoạn
từ năm 1960 đến năm 1980- nhân học sinh thái cũ và giai đoạn 1980
đến nay – nhân học sinh thái mới. Nhân học sinh thái cũ đề cao tri
thức bản địa, văn hóa tộc người trong việc duy trì mối quan hệ hài
hịa với tự nhiên. Nhân học sinh thái mới, các học giả nghiên cứu
nhấn mạnh mối quan hệ giữa văn hóa và mơi trường mà tập trung tìm
hiểu các hoạt động của chính sách, thể chế chính trị đối với q trình
suy thối mơi trường.
1.1.2. Một số nội dung nghiên cứu cơ bản
Từ khái niệm về Nhân học sinh thái, nhân học sinh thái bao
gồm hai nội dung cơ bản. Sự tác động lẫn nhau giữa văn hóa với mơi
trường và sự tác động qua lại giữa con người và môi trường trong
phạm vi rộng.
Thứ nhất các nhà nghiên cứu tập trung tìm hiểu vai trị của
việc thực hành văn hóa trong việc duy trì mối quan hệ hài hịa với
mơi trường. Nghĩa là các nhà nghiên cứu sẽ xem xét, đánh giá sự tác


10
động của văn hóa với mơi trường, các dấu ấn văn hóa trong mơi
trường tự nhiên
Thứ hai sự tác động qua lại giữa con người với môi trường
trong phạm vi rộng. Mối quan hệ giữa con người – tự nhiên được bắt
đầu nghiên cứu có hệ thống vào thế kỷ thứ XIX. . Đó chính là cách
thích nghi hài hịa giữa con người với môi trường sống.
1.1.3. Nghiên cứu văn chương bằng lý thuyết nhân học sinh
thái ở Việt Nam
Nhiều học giả, nhà nghiên cứu còn mập mờ giữa khái niệm
phê bình sinh thái và nhân học sinh thái. Các nhà học giả đơi khi cịn

đánh đồng hai khái niệm này là một. Chỉ khi làm rõ hai khái niệm
này, nhân học sinh thái mới trở thành vấn đề khả dụng, bức thiết.
Phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và
môi trường tự nhiên. Phê bình sinh thái vận dụng những quan điểm
sinh thái học hiện đại khảo sát mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật
và tự nhiên.
Nhân học sinh thái là ngành nghiên cứu về mối quan hệ giữa
văn hóa với mơi trường. Xem xét những mơ thức ứng xử văn hóa của
con người liên quan đến việc sử dụng môi trường
Trọng tâm của nhân học sinh thái xem xét sự tác động qua lại
giữa tự nhiên với văn hóa của con người. Mục đích của nhân học
sinh thái là xem xét sự ảnh hưởng qua lại giữa điều kiện môi trường
tự nhiên với bản sắc văn hóa của cư dân sở tại.
Văn học Việt Nam từ sau Đổi mới đã rất cởi mở tiếp thu
những lí thuyết khác nhau. Các vấn đề như thi pháp học, tự sự học,
phân tâm học, cấu trúc… điều được các học giả, nhà nghiên cứu đón
nhận sôi nổi, tạo nên dấu ấn riêng. Nhưng đối với lý thuyết nhân học
sinh thái thì vẫn cịn ở dạng “tiềm năng”. Một số học giả đánh đồng
nhân học sinh thái thuộc ngành sinh thái học, một phong trào văn


11
hóa – xã hội bảo vệ mơi trường. Một số nhà nghiên cứu văn học cho
rằng phê bình sinh thái và nhân học sinh thái là giống nhau. Nghiêng
cứu văn chương từ góc nhìn phê bình sinh thái là làm sáng tỏ mối
quan hệ giữa văn học với môi trường. Chỉ khi làm rõ sự khác biệt
trên, nghiên cứu văn chương từ góc nhìn nhân học sinh thái mới
được chấp nhận như là một hướng nghiên cứu văn học mới có tính
khả dụng và cấp bách.
1.2. Nguyễn Ngọc Tư – nhà văn của miền q sơng nước phương

Nam
1.2.1. Hành trình sáng tạo nghệ thuật
Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, ở xã Tân Duyệt, huyện Đầm
Dơi, tỉnh Cà Mau. Nguyễn Ngọc Tư là nữ nhà văn trẻ của Hội viên
Nhà Văn Việt Nam. Chị có niềm đam mê viết lách, viết như một
cách để giải tỏa và thể nghiệm. Nguyễn Ngọc Tư thành công ở nhiều
thể loại như: tiểu thuyết, tản văn, ký, thơ, truyện ngắn nhưng chị
thành công nhất ở thể loại truyện ngắn. Một số tác phẩm tiêu biểu
như: Sông, Biên sử nước, Hành lý hư vô. Gáy người thì lạnh, u
người ngóng núi, Ngọn đèn khơng tắt trình làng năm 2000, kế sau là
các tập truyện ngắn Biển người mênh mơng, Giao thừa, Cánh đồng
bất tận, Gió lẻ, Khói trời lộng lẫy, Khơng ai qua sơng, Đảo, Cố
định một đám mây đã gặt hái nhiều thanh công trên văn đàn.
Trong một nền văn học có nhiều đổi mới, Nguyễn Ngọc Tư đã
trở nên vô cùng quen thuộc với độc giả yêu văn học. Với cái nhìn
chân chất đầy cảm xúc, Nguyễn Ngọc Tư đã thổi vào nền văn học
Việt Nam đương đại một luồn gió mới, Nguyễn Ngọc tư lấy cơ sở
nhân học để nhìn nhận mọi vấn đề, mọi mối quan hệ.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật
Nguyễn Ngọc Tư quan niệm nhà văn phải có lương tâm và
trách nhiệm với những thứ mình viết ra. Với quan niệm trên, ta thấy


12
Nguyễn Ngọc Tư có ý thức sâu sắc đối với nghề viết văn. Nguyễn
Ngọc Tư đòi hỏi rất cao sự tìm tịi sáng tạo trong nghề văn. Nhà văn
ln quan tâm đến các vẻ đẹp và giá trị tinh thần của tự nhiên đối với
đời sống con người. Nữ nhà văn cho rằng nghệ thuật phải gắn bó với
đời sống, nhìn thẳng vào sự thật, những vấn đề bức bách của xã hội.
Nhà văn cho rằng cuộc sống thực tế của con người là quan trọng.

Nguyễn Ngọc Tư cho rằng nhà văn luôn cố giữ một thái độ khách
quan với thị hiếu của độc giả và sự đánh giá của các nhà phê bình để
bảo việc cơng việc sáng tác của mình.
1.2.3. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư – những câu chuyện về
thiên nhiên và con người miền quê sông nước phương Nam
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư chứa đựng hai nguồn cảm hứng
chủ đạo xuyên suốt chính là cảm hứng về hiện thực cuộc sống Nam
Bộ và cảm hứng về con người phương Nam. Đó là những vùng quê
nghèo, với những cánh đồng thiếu nước khơ cằn vì nhiễm mặn, thiếu
mưa; những xóm làng xơ xác, những đàn vịt bệnh dịch, những con
người vật vã, tơi tả, trong những cơn đói của mùa giáp hạt. Truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư phản ánh vấn đề bức xúc nhất ở khu vực
đồng bằng Sông Cửu Long là giao thông – yếu tố quan trọng trong
phát triển đời sống kinh tế, xã hội, nhịp cầu nối trong việc giao lưu
giữa các nền văn hóa. Một vấn đề khác, đó là tình trạng thiếu giáo
viên, bác sĩ, dịch vụ y tế, Thái độ vô trách nhiệm, sự tha hóa của một
số cán bộ lãnh đạo.
Nguyễn Ngọc Tư dành nhiều trang viết về con người ở vùng
quê sông nước Nam Bộ. Bằng tài năng văn chương, trái tim giàu trắc
ẩn, Nguyễn Ngọc Tư có nhìn sâu sắc, tinh tế về con người Nam Bộ.
Những con người có đời sống vất chất nghèo nàn. Nguyễn Ngọc Tư
dành trọn những con chữ, những lời văn cho người nghèo, cho người
mẹ và đặc biệt là cho những nghệ sĩ cải lương hết thời. Cuộc sống


13
của con người ngoài những nhu cầu về vật chất thì cịn cần đến sự
u thương, như cầu u thương và được yêu thương. Bên cạnh sự
khao khát tình thương, trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, con
người còn ẩn chứa những tình cảm đẹp đẽ

TIỂU KẾT
Nhân học sinh thái là mối quan hệ đa chiều giữa môi trường
với những yếu tố liên quan đến con người là địa lí, văn hóa, kinh tế,
chính trị và tâm sinh lí. Ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu văn
chương bằng Nhân học sinh thái vẫn còn đang ở dạng tiềm năng.
Với quan niệm văn chương phải gắn liền với đời sống, thể hiện
những vấn đề bức thiết của xã hội, lấy hiện thực cuộc sống và con
người làm cảm hứng sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư đã tạo ra những
truyện ngắn đặc sắc gắn với thiên nhiên, cuộc sống của những người
nông dân hồn hậu, bình dị, chất phác Nam Bộ.
CHƯƠNG 2
THIÊN NHIÊN, CON NGƯỜI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
TỪ GĨC NHÌN NHÂN HỌC SINH THÁI
2.1. Thiên nhiên, con người từ sự tồn tại bản nguyên đến dấu ấn
văn hoá vùng Nam bộ
2.1.1. Thiên nhiên - sự tồn tại bản nguyên
Thiên nhiên vốn là một sinh thể đa hình mn trạng với những
ngun tắc sinh tồn của riêng nó. Từ thẳm sâu tâm thức của Nguyễn
Ngọc Tư, thiên nhiên sông nước Nam bộ là một vũ trụ uyên nguyên
mà trong đó mỗi một sinh thể đều mang một nét đẹp, một sức sống
riêng, không thể lẫn. Sự tồn tại bản nguyên luôn chứa đựng trong nó
vẻ đẹp thuần khiết. Viết về thiên nhiên trong sự tồn tại bản nguyên


14
của nó, Nguyễn Ngọc Tư khơng chỉ thể hiện sự khám phá, ngưỡng
mộ vẻ đẹp kì diệu của tạo hóa mà cịn hướng con người vào sự gắn
bó, thưởng ngoại nó, nâng cao ý thức giữ gìn nó, trân trọng nó.
2.1.2. Thiên nhiên, con người trong văn hóa vùng Nam bộ

Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, khơng khó để nhận thấy
nhà văn đã cảm nhận rất sâu mối liên hệ giữa tâm hồn con người với
đất đai thiên nhiên. Trong thế giới truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư,
con người gắn mình với cỏ cây sơng nước, giao hịa với thiên nhiên
bằng thái độ xem mình là một phần của thế giới ấy, tuân theo quy
luật của nó.
Nhân học sinh thái tơn trọng sự tồn tại bình đẳng của mọi tạo
vật. Nguyễn Ngọc Tư giúp lý giải tính cách con người ở mỗi vùng
văn hố, nhìn nhận giá trị văn hố của mỗi vùng miền. Trong truyện
ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, các nhân vật ít nhiều đều là những kẻ mê
tự nhiên. Trong truyên ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, quê hương chính
là hiện thân của thiên nhiên, gắn với vùng tâm tưởng của mỗi người.
Viết về thiên nhiên-con người trong tương quan văn hoá Nam Bộ,
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trở thành là một lời nhắc nhở sâu sắc
với mỗi con người về thẳm sâu văn hóa đất đai quê hương.
2.2. Thiên nhiên- Con người trong thức nhận của con người về
môi trường sinh thái
2.2.1. Thiên nhiên và con người trong cơn “thịnh nộ sinh
thái”
Con người tìm cách chiếm đoạt khơng gian hoang dã bằng
cách khai thác theo hướng tận diệt tự nhiên. Con người sẽ phải đối
diện với cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Đây là lời cảnh tỉnh mạnh mẽ
của Nguyễn Ngọc Tư trước thảm họa diệt vong sinh thái. Một
nguyên tắc cốt lõi của nhân học sinh thái là mơi trường sống cần
được tơn trọng, cần có quyền phát triển bình đẳng với mọi hoạt động


15
của con người. Nhưng con người đã tìm cách chiếm đoạt không gian
hoang dã bằng cách khai thác theo hướng tận diệt tự nhiên mà không

khai thác tự nhiên theo theo hướng hồi sinh nên con người đã phải
hứng chịu sự trừng phạt. Trong các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư
bức tranh về sự khủng hoảng môi trường của con người được nhà
văn hình dung một cách rất sinh động.
2.2.2 Con người thức nhận về môi trường sinh thái
Nguyễn Ngọc Tư đã đưa ra số phận của con người trong sự
biến đổi của môi trường sinh thái. Con người cố ý phạm vào tự nhiên
và tất yếu phải gánh lấy hậu quả. Đó là lời phản tỉnh mạnh mẽ như
những phản kháng của tự nhiên muốn nhắc nhỏ con người nhớ về
sức mạnh của nó. Có nhà nghiên cứu đã nói “cách mạng văn hóa
khơng thể giải quyết vấn đề khủng hoảng môi trường hiện nay, tuy
nhiên văn học không thể vô cảm trong những việc làm sai trái của
con người đối với tự nhiên”. Bằng truyện ngắn của mình, Nguyễn
Ngọc Tư muốn khẳng định tự nhiên có sinh mệnh riêng của nó.
Trong chỉnh thể sinh thái con người-thiên nhiên phụ thuộc lẫn nhau,
con người hành xử với tự nhiên như thế nào thì sẽ được mơi trường
tự nhiên đáp trả lại như thế. Con người phải có nhìn nhận lại trong
q trình khai hóa tự nhiên.
TIỂU KẾT
Thiên nhiên, con người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
mang dấu ấn văn hóa vùng Nam Bộ.Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
như là một bức tranh văn hóa đa sắc màu. Ở đó, thiên nhiên mang
đặc trưng cảnh sắc vùng quê sông nước cùng với con người giàu
nghĩa tình, đơn hậu, lạc quan, hào sảng. Nguyễn Ngọc Tư phơi bày
hiên trạng sinh thái tại vùng đất này, bên cạnh đó, nhà văn để con
người tự nhận thức về mối quan hệ giữa con người với môi trường


16
sinh thái. Bằng thức nhận và cách tư duy mới mẻ của nhân học sinh

thái, Nguyễn Ngọc Tư muốn đề cập, dự báo về nguy cơ cạn kiệt dần
của thiên nhiên do sự thiếu ý thức, vô trách nhiệm trong khi khai
thác, sử dụng bừa bãi tài nguyên thiên nhiên.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
TỪ GĨC NHÌN NHÂN HỌC SINH THÁI
3.1. Nhân vật
3.1.1. Nhân vật hồn nhiên, chất phác mà đầy ắp lo âu khắc
khoải
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đọng lại hình ảnh những con
người hồn nhiên, tinh nghịch, yêu đời. Đó là những đứa trẻ thơ với
suy nghĩ trong veo về con người, thiên nhiên, vạn vật. Đó là những
con người yêu quê hương xứ sở, nét đẹp văn hóa truyền thống. Nét
hồn nhiên ấy thấm đượm trong suy nghĩ, hành động và đời sống văn
hóa hằng ngày. Con người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, họ
vô cùng hồn nhiên trong suy nghĩ, thong thả với đời. Cuộc sống của
họ gắn liền với những hệ hình sinh thái mà họ đi qua. Trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư, thế giới nhân vật hiện lên hết sức sinh động.
Đó là hình ảnh những con người hồn nhiên, chất phác yêu đời nhưng
cũng mang nhiều nỗi buồn lo âu, khắc khoải về thế giới tự nhiên,
hoang dã đã mất, đang mất và sẽ mất. Điểm nổi bật dễ nhận thấy
trong các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là họ mang
đậm tính cách, tâm hồn của người dân vùng sông nước Nam Bộ.
3.1.2. Nhân vật phản tỉnh
Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư luôn sự phản tỉnh thường
xuất hiện trong các nhân vật phản tỉnh để ý thức được các giá trị đẹp


17

đẽ, quý giá, cao cả của con người và tự nhiên cũng như sự quan trọng
trong hoạt động của con người với môi trường sinh thái, đồng thời
thấy được giới hạn trong mức chịu đựng của tự nhiên. Thiên nhiên
như là nhân chứng quan trọng trong hành trình phản tỉnh của con
người.
3.2. Không gian nghệ thuật
3.2.1. Không gian thiên nhiên
Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, không gian thiên nhiên
chiếm một phần không nhỏ. Không gian chủ đạo làm bối cảnh trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thường là không gian vùng đồng bằng
Nam bộ. Bên cạnh đó, Nguyễn Ngọc Tư đang xu hướng chuyển dịch
dần ra không gian biển khơi rộng lớn. Không gian thiên nhiên trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là một sự chiêm nghiệm, khám phá
của nhà văn. Mỗi bức tranh thiên nhiên là một thế giới riêng, cảnh
đời riêng, cảm nhận riêng của nhà văn về thế giới.
3.2.2. Khơng gian tâm trạng
Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư cịn hiện diện một khơng
gian khác đó chính là khơng gian tâm trạng đầy âu lo, khắc khoải.
Không gian này là không gian để con người chiêm nhiệm về hiện
thực đời sống. Nó diễn ra cả bên trong đời sống tinh thần của nhân
vật, nó tồn tại trong suy nghĩ, trong sự hồi tưởng. Không gian khiến
con người phải suy nghĩ, lo âu về cái đã mất, đang mất, sẽ mất và cái
đã hình thành, đang hình thành, sẽ hình thành. Con người cần có sự
trãi nghiệm nhất định thì mới ý thức con người là nạn nhân trong mối
quan hệ với thiên nhiên và về nỗi bất an sinh thái.
3.3. Ngơn ngữ nghệ thuật
3.3.1. Giàu hình ảnh và đậm tính biểu cảm
Ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư không chỉ
mang đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên, cuộc sống đậm



18
đà hương sắc Nam Bộ mà còn khiến người đọc rung động sâu sắc
trước hình ảnh sơng nước thân thuộc gắn với đời sống sinh hoạt của
người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long.
3.3.2. Đậm màu sắc phương ngữ Nam Bộ
Nguyễn Ngọc Tư đã sử dụng phương ngữ Nam Bộ một cách
khéo léo chứ không lạm dụng, đưa chúng vào đúng ngữ cảnh và chỉ
dùng khi cần thiết. Tác giả vận dụng nó một cách hợp lí, tự nhiên,
mộc mạc rất bình dân, đời thường
3.4. Giọng điệu nghệ thuật
3.4.1. Giọng ưu tư tha thiết
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư chứa một giọng nhẹ nhàng,
đằm thắm ẩn trong đó là dịng tâm trạng. Giọng văn ấy được thể hiện
lối kể chuyện chậm rãi, các nhân vật hay thiên về xúc cảm.
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư mang một âm điệu tràn đầy sâu
lắng và xúc động. Hịa mình vào thế giới truyện ngắn của chị, ta như
đắm chìm vào một dịng sơng dạt dào, sâu lắng, như một câu hị thấm
đượm tình người
3.4.2. Giọng tranh biện, chất vấn
Nguyễn Ngọc Tư không chỉ nhẹ nhàng đưa ra những căn
nguyên về thảm họa sinh thái. Cùng với quan niệm con người là một
phần trong hệ thống sinh thái. Tự nhiên cũng là sinh mệnh bình đẳng
với con người, có khả năng phản biện lại thế giới loài người bằng
nhiều cách. Sự tranh biện, chất vất hành động của con người trở nên
mạnh mẽ trong sáng tác Nguyễn Ngọc Tư. Như rung lên hồi chuông
cảnh báo về sự khủng hoảng môi trường. Thấy được niềm tuyệt
vọng, nỗi bất an, nỗi đau trước sự mong manh của sinh loài tự nhiên.
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư hé mở cho chúng ta thấy sự bỏ quên
tự nhiên, cần nhìn nhận lại mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.




×