Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Phát triển bền vững các làng nghề huyện Thạch Thất - Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.04 KB, 62 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình đẩy nhanh tốc độ CNH – HĐH đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ở khu vực nông thôn ngày càng mạnh, trong đó việc phát triển các làng nghề
CN – TTCN đóng vai trò không nhỏ. Với việc phát huy lợi thế, tiềm năng của các địa
phương về ngành nghề nông thôn đã tạo ra những nghề mới giúp bảo tồn giá trị
truyền thống, tạo ra bản sắc mới của làng xã trong các sản phẩm, từ đó thúc đẩy
ngành nghề nông thôn phát triển bền vững, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn theo hướng nâng cao tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp,
dịch vụ và nâng cao thu nhập của người dân nông thôn. Vì vậy phát triển ngành nghề
nông thôn được đánh giá là cách làm “rẻ” nhất để tạo việc làm và tăng thu nhập cho
người dân nông thôn.
Tuy nhiên, có một thực tế là hầu hết các ngành, các lĩnh vực chỉ chú trọng
phát triển kinh tế mà quên mất vai trò của sự phát triển bền vững về môi trường, và
sự phát triển của các làng nghề cũng không nằm ngoài thực tế đó. Những năm qua,
hầu hết các hoạt động kinh tế làng nghề vẫn còn mang tính tự phát và hoàn toàn
chịu sự chi phối bởi các yếu tố như thị trường, nguồn nguyên liệu,…Nhìn chung,
trình độ quản lý , trình độ lao động còn hạn chế, sự đầu tư mới và cải tiến công
nghệ sản xuất ở các làng nghề còn chậm, không đồng bộ và chủ yếu mang tính
ngắn hạn - phụ thuộc vào khả năng của từng tổ hợp sản xuất, từng hộ gia đình
hoặc giá trị sản phẩm tiêu thụ trên thị trường, mà ít có được những tính toán lâu
dài mang tính chiến lược,… chính vì vậy đã xảy ra nhiều sự cố về môi trường,
một số làng nghề bị mai một và các làng nghề phát triển thiếu bền vững. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để phát triển làng nghề một cách bền vững.
Xuất phát từ thực tế: Thạch Thất là huyện công nghiệp của tỉnh Hà Tây (cũ)
với rất nhiều làng nghề như nghề mộc, mây giang đan, cơ kim khí, chế biến thực
phẩm,… Cũng như bao làng nghề khác trong cả nước, các làng nghề huyện Thạch
Thất cũng đang phải đương đầu với những thách thức lớn, nhất là trong giai đoạn
hiện nay khi Hà Tây vừa sát nhập vào Hà Nội, phải giải quyết làm sao để vẫn duy trì
1
và phát triển các làng nghề trong một thủ đô yêu cầu khắt khe về môi trường là vấn
đề cần quan tâm. Đây chính là lý do em chọn đề tài: “ Phát triển bền vững các làng


nghề huyện Thạch Thất – TP.Hà Nội”. Với hi vọng thông qua việc đánh giá thực
trạng phát triển của các làng nghề trên địa bàn huyện Thạch Thất để từ đó đưa ra một
số phương hướng và giải pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại và đẩy mạnh phát
triển các làng nghề một cách bền vững, góp phần quan trọng vào quá trình CNH –
HĐH nông thôn.
Kết cấu của đề tài gồm ba phần chính:
Phần 1: Cơ sở lý luận về phát triển bền vững các làng nghề.
Phần 2: Thực trạng phát triển làng nghề huyện Thạch Thất – TP. Hà Nội.
Phần 3: Phương hướng và giải pháp phát triển bền vững làng nghề huyện
Thạch Thất – TP. Hà Nội.
Để hoàn thành chuyên đề này em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy
giáo PGS.TS Phạm Văn Vận và các cô các chú, các anh chị trong Phòng Tài chính kế
hoạch huyện Thạch Thất – TP. Hà Nội. Tuy nhiên do trình độ và thời gian có hạn nên
đề tài không thể tránh khỏi những thiếu xót. Kính mong các thầy cô và quý cơ quan
góp ý thêm giúp em hoàn có thể hoàn thiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn !
2
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CÁC LÀNG NGHỀ
I. Khái quát chung về phát triển bền vững
1. Khái niệm về phát triển bền vững
Phát triển là quy luật của cuộc sống, là quy luật tất yếu của tiến hoá đã và
đang diễn ra trên khắp hành tinh từ khi nó được hình thành. Nhưng phát triển như thế
nào là vấn đề mà chúng ta cần phải quan tâm. Xuất phát từ những yêu cầu của thực tế
khái niệm phát triển bền vững được hình thành. Vậy phát triển bền vững là gì ?
Phát triển bền vững là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới,
mặc dù quan niệm này còn tương đối mới mẻ và chưa có sự thống nhất trong cách
diễn giải. Do tầm quan trọng của mình, khái niệm phát triển bền vững vẫn đang được
xây dựng và định nghĩa về thuật ngữ này liên tục được sửa đổi, mở rộng và sàng lọc.

- Xuất phát từ góc độ bảo vệ môi trường, cũng là bảo vệ sự sống, vấn đề phát
triển bền vững được đề cập lần đầu tiên vào năm 1987 trong Báo cáo của Uỷ ban thế
giới về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc năm 1987: Phát triển bền vững
là “sự phát triển có thể đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không gây hại tới
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai.” Định nghĩa này được sử dụng
phổ biến nhất tại hầu hết các quốc gia trên thế giới.
- Hiện nay, quan niệm về phát triển bền vững được hiểu là quá trình đảm bảo
thực hiện đồng thời 3 lĩnh vực quan trọng và có mối quan hệ qua lại với nhau: Kinh
tế - Xã hội - Môi trường.
- Theo một định nghĩa mang tính thực tiễn hơn (định hướng thực tiễn), thì
phát triển bền vững là “ một quá trình quản lý danh mục các tài sản để duy trì và cải
thiện các cơ hội mà con người gặp được”. Phát triển bền vững bao gồm tính bền
vững về kinh tế, môi trường và xã hội, có thể đạt được bằng cách quản lý một cách
hợp lý các vốn vật chất, tự nhiên và con người.
3
- Ở Việt Nam, phát triển bền vững được hiểu một cách toàn diện: “Phát triển
bền vững bao trùm các mặt của đời sống xã hội, nghĩa là phải gắn kết sự phát triển
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, gìn giữ và cải thiện môi trường,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh”. Như vậy, phát
triển bền vững là sự phát triển trong mối liên hệ gắn kết chặt chẽ thực hiện 4 nhóm
mục tiêu lớn: mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội, mục tiêu môi trường và mục tiêu an
ninh - quốc phòng. Nếu không tính đến nhóm mục tiêu an ninh quốc gia thì mối quan
hệ qua lại giữa 3 nhóm mục tiêu lớn của phát triển bền vững có thể được mô tả như
sau:
Hình 1: Mối quan hệ giữa các nhóm mục tiêu phát triển bền vững
 Phát triển bền vững bao gồm các nội dung sau:
Phát
triển bền
vững
Mục tiêu kinh tế

tăng trưởng cao,
ổn định
Mục tiêu xã hội
Cải thiện xã hội
Công bằng xã hội
Phát triển NNL
Mục tiêu môi
trường
Cải thiện chất lượng
MT, bảo vệ MT, TNTN
4
Bền vững về mặt kinh tế: Đòi hỏi nền kinh tế phải tăng trưởng GDP và GNI
bình quân đầu người cao, cơ cấu kinh tế hợp lý, đảm bảo cho tăng trưởng ổn định,
lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chí phấn đấu cho tăng trưởng.
Bền vững về xã hội: Phát triển phải mang tính nhân văn, quá trình đó bao gồm
việc mở rộng cơ hội lựa chọn cho mọi người; nâng cao năng lực lựa chọn cho mọi
người; mọi người cùng tham gia vào quá trình phát triển và mọi người cùng được
hưởng lợi từ quá trình phát triển này.
Bền vững về môi trường: Đối với từng cá nhân cũng như cả loài người, môi
trường có 3 chức năng là không gian sinh tồn của con người; là nơi cung cấp tài
nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người; là nơi chứa
đựng, xử lý, tái chế các phế thải của con người. Vì thế môi trường bền vững là môi
trường luôn luôn thay đổi nhưng đảm bảo thực hiện cả 3 chức năng nói trên. Xã hội
phát triển bền vững là xã hội mà con người có cuộc sống chất lượng cao trên nền tảng
sinh thái bền vững.
Như vậy phát triển bền vững cũng có thể được gọi bằng một cách khác là phát
triển “bình đẳng và cân đối”, có ý nghĩa là duy trì sự phát triển mãi mãi cần cân bằng
giữa lợi ích của các nhóm người trong cùng một thế hệ và giữa các thế hệ, và thực
hiện điều này đồng thời trên cả 3 lĩnh vực quan trọng có mối liên hệ qua lại với nhau
– kinh tế, xã hội và môi trường. Phát triển bền vững là về sự bình đẳng, được định

nghĩa là sự bình đẳng về cơ hội làm giàu cũng như là về tính toàn diện của các mục
tiêu.
2. Các thước đo phát triển bền vững
Trong những năm qua khái niệm phát triển bền vững đã trở nên toàn diện và
dễ đo lường hơn. Nội dung của phát triển bền vững bao gồm bền vững trên cả 3 mặt
kinh tế, xã hội, môi trường, vì vậy chúng ta cần phải đánh giá trên cả 3 phương diện.
- Về mặt kinh tế, tính bền vững được đo lường thông qua chỉ tiêu: Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP); Tổng sản phẩm quốc dân (GNI); cơ cấu đóng góp trong GDP
và GNI; Thu nhập bình quân đầu người (GDP/người; GNI/người) ... Quy mô và tốc
5
độ tăng thu nhập bình quân đầu người là những chỉ báo quan trọng phản ánh và là
tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung. Sự gia tăng liên tục với tốc độ ngày
càng cao của chỉ tiêu này là dấu hiệu thể hiện sự tăng trưởng bền vững.
- Về mặt xã hội, cần đo lường các yếu tố tiêu cực gây phương hại cho tính
bền vững xã hội như thất nghiệp, bất bình đẳng thu nhập, nghèo đói, tình trạng giáo
dục và sức khỏe của người dân. Hiện nay thường sử dụng các chỉ tiêu như chỉ số phát
triển con người HDI; tỉ lệ thất nghiệp; hệ số bất bình đẳng về thu nhập; tỷ lệ nghèo
đói; chỉ tiêu phản ánh giáo dục và trình độ dân trí (tỷ lệ người lớn biết chữ, tỷ lệ
nhập học các cấp, số năm đi học trung bình,…); nhóm chỉ tiêu về tuổi thọ bình quân
và chăm sóc sức khoẻ (tuổi thọ bình quân tính từ thời điểm mới sinh, tỷ lệ trẻ em chết
yểu tính cho trẻ em chết trong vòng 1 năm hoặc trong thời gian 5 năm, tỷ lệ trẻ em
suy dinh dưỡng); …
- Về mặt môi trường, sử dụng các chỉ tiêu sau để đo lường: mức độ ô nhiễm
môi trường, mức độ cạn kiệt tài nguyên, mức độ che phủ rừng,…
II. Khái quát về làng nghề
1. Bản chất làng nghề và làng nghề truyền thống
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm trước
đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn. Việc hình thành các
làng nghề được bắt đầu từ những nghề ban đầu được dân cư tranh thủ làm trong lúc
nông nhàn để phục vụ đời sống hàng ngày.

Theo thời gian nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó, mang
lại lợi ích thiết thực cho dân cư phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Nghề phụ từ chỗ
chỉ phục nhu cầu riêng đã trở thành hàng hoá để trao đổi đã mang lại lợi ích kinh tế to
lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào các vụ lúa vụ màu. Từ chỗ một
vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng học theo, nghề từ đó lan rộng phát
triển trong cả làng hay nhiều làng gần nhau. Và cũng chính từ những lợi ích khác
nhau do nghề thủ công mang lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hoá, hình
thành những làng nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó. Các làng nghề
được hình thành.
6
Vậy làng nghề và làng nghề truyền thống được định nghĩa như sau:
- Làng nghề: là làng (thôn) có ngành sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp ở từng hộ trong làng tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc thu nhập chủ
yếu của người lao động trong làng (thôn).
- Làng nghề truyền thống: là làng nghề đã hình thành lâu đời, sản phẩm có
tính cách riêng biệt mang đặc thù riêng của địa phương, được nhiều nơi biết đến, sản
phẩm có giá trị kinh tế và văn hoá cao.
2. Các tiêu chí để xác định làng nghề
Việc xây dựng các tiêu chuẩn làng nghề nhằm tạo điều kiện thuận lợi phát
triển làng nghề CN – TTCN, dịch vụ gắn bó với hoạt động văn hoá du lịch, giao lưu
kinh tế và làm cơ sở để xây dựng và phát triển, xét công nhận làng nghề và thực hiện
các chính sách ưu đãi. Tuy nhiên mỗi địa phương lại có những tiêu chuẩn xác định
khác nhau.
* Một làng thôn được gọi là làng nghề của tỉnh Hải Dương nếu có đủ điều
kiện sau:
- Số hộ, lao động làm nghề CN – TTCN ở làng đạt từ 35% trở lên so với tổng
số hộ, lao động của làng.
- Tỷ trọng giá trị sản xuất và thu nhập từ CN – TTCN ở làng đạt 40% trở lên
trong tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.
- Thu nhập bình quân của lao động làng nghề CN – TTCN phải cao hơn thu

nhập bình quân của xã phường từ 10% trở lên.
- Chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có
hình thức tổ chức phù hợp, chịu sự quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương,
gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - văn hoá – xã hội của địa phương.
* Quy định về tiêu chuẩn làng nghề tiểu thủ công nghiệp của tỉnh Hà Nam:
- Đối với làng nghề mới:
+ Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, các quy định của địa phương.
7
+ Số lao động làm các nghề tiểu thủ công nghiệp của làng nghề đạt trên 50%
lao động của làng và tối thiểu 50 hộ trở lên.
+ Giá trị sản xuất của làng nghề chiếm tỷ trọng trên 70% trở lên so với tổng
giá trị sản xuất của làng.
- Đối với làng nghề truyền thống:
Làng nghề truyền thống phải đạt các tiêu chuẩn như trên; ngoài ra còn phải
đảm bảo có nghề sản xuất lâu đời tối thiểu là 50 năm và có ít nhất 30% số lao động
của làng làm nghề truyền thống có thu nhập ổn định và đạt giá trị sản xuất trên 50%
so với tổng giá trị sản xuất của làng.
Một khi được công nhận đạt tiêu chuẩn làng nghề, các làng nghề sẽ được đảm
bảo các quyền lợi sau đây:
+ Các hộ gia đình, cơ sở sản xuất trong làng nghề được ưu tiên hưởng các chế
độ ưu đãi về phát triển nghề và làng nghề của UBND tỉnh và các chính sách hiện
hành của Nhà nước.
+ Mỗi một làng nghề được UBND tỉnh hỗ trợ một lần 20 triệu đồng lấy từ
nguồn Quỹ khuyến công hàng năm, nhằm phục vụ cho các chương trình phát triển
ngành nghề và làng nghề địa phương.
Các làng nghề đạt tiêu chuẩn phải có trách nhiệm trong việc tích cực đầu tư,
mở rộng sản xuất, quan tâm cải tiến công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học, công
nghệ vào sản xuất nhằm đa dạng hóa mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng
khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường; bám sát nhu cầu thị trường để sản xuất mặt

hàng mới, du nhập nghề mới đồng thời chú trọng đảm bảo môi trường sinh thái quy
trì sự phát triển bền vững.
* Tiêu chí xác định làng nghề của tỉnh Hà Tây (cũ):
8
- Chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và mọi quyết
định hợp pháp của chính quyền địa phương.
- Số hộ hoặc lao động làm nghề CN – TTCN ở làng đạt 50% trở lên so với
tổng số hộ, lao động trong làng.
- Giá trị sản xuất hoặc thu nhập CN –TTCN ở làng chiếm tỷ lệ 50% trở lên so
với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm, đảm bảo vệ sinh môi trường
theo các quy định hiện hành.
- Có các hình thức tổ chức phù hợp, chịu sự quản lý Nhà nước của chính
quyền địa phương, gắn với mục tiêu kinh tế xã hội và làng văn hoá của địa phương.
- Tên làng do nhân dân bàn bạc, thống nhất và chính quyền địa phương xem
xét đề nghị.
Các tiêu chuẩn trên của làng phải ổn định và đạt từ 3 năm trở lên mới được UBND
tỉnh tổ chức xét công nhận làng nghề.
3. Phân loại làng nghề
3.1 Phân loại theo tính chất sản phẩm
Theo cách phân loại này có thể chia thành 5 nhóm chính:
- Nhóm thứ nhất: Nhóm các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như
gốm, sứ, chạm khảm gỗ, đá, mây tre đan,…
- Nhóm thứ hai: Nhóm các làng nghề chế biến thực phẩm như làm bánh, nấu
rượu, chế biến thuỷ hải sản,…
- Nhóm thứ ba: Nhóm các làng nghề sản xuất công cụ phục vụ quá trình sản
xuất như rèn, đúc, mộc, đóng thuyền,…
- Nhóm thứ tư: bao gồm các làng nghề sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu
dùng thông thường như dệt chiếu, làm nón, dệt vải, may mặc,…
- Nhóm thứ 5: gồm các nghề khác như trồng hoa, cây cảnh, xây dựng,… nhu
cầu về các sản phẩm này ngày càng tăng cùng với sự phát triển của xã hội.

3.2 Phân loại theo thời gian hình thành và phát triển của làng nghề
Cùng với xu thế phát triển của thời đại các làng nghề cũng tuân theo quy luật đào
thải và phát triển, những làng nghề phù hợp thì tồn tại ngược lại sẽ bị mai một và
9
dần biến mất. Mặt khác cũng có rất nhiều làng nghề mới xuất hiện. Vì vậy phân
loại theo tiêu chí này có thể chia thành 2 loại: làng nghề truyền thống và làng
nghề mới.
- Làng nghề truyền thống là những làng nghề tồn tại lâu đời, sản phẩm của
chúng vẫn được ưa chuộng cho tới tận bây giờ. Chúng ta có thể thấy được giá trị văn
hoá to lớn của nó, vì vậy cần phải giữ gìn nét văn hoá này để không bị mai một.
Đồng thời cũng thấy được từ đó những tiềm năng to lớn trong việc phát triển du lịch.
- Làng nghề mới là các làng nghề mới xuất hiện do tác động lan
toả của các làng nghề khác hoặc xuất hiện nhằm thoả mãn các nhu cầu
mới của thị trường.
4. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của làng nghề
4.1 Gắn liền với nông thôn và sản xuất nông nghiệp
Như chúng ta đã biết ở nông thôn thì sản xuất nông nghiệp là chính. Nhưng
sản xuất nông nghiệp chỉ mang tính thời vụ, thông thường người nông dân chỉ bận
bịu công việc đồng áng vào những ngày đầu hoặc cuối vụ, những ngày còn lại thì lại
khá nhàn hạ. Từ đó nhiều người đã tìm kiếm thêm công việc phụ để làm như đan lát,
dệt vải,… nhằm mục đích ban đầu là phục vụ chính nhu cầu hàng ngày của mình, về
sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình. Các nghề phụ dần phát triển ở nhiều hộ gia
đình và nhanh chóng phát triển thành các làng nghề TTCN. Xã hội ngày càng phát
triển kéo theo sự dư thừa lao động nông thôn ngày một tăng làm tăng nhu cầu giải
quyết việc làm tại chỗ cho họ; mặt khác nguyên vật liệu cho sản xuất TTCN thông
thường là các sản phẩm từ hoạt động sản xuất nông nghiệp vì vậy rất sẵn có; bên
cạnh đó nhu cầu tiêu dùng sản phẩm TTCN ngày một tăng,…đây là điều kiện thúc
đẩy sản xuất làng nghề phát triển.
4.2 Có truyền thống lâu đời, sản phẩm có tính thẩm mỹ cao và mang
đậm bản sắc dân tộc

Đa số các làng nghề Việt Nam đã có lịch sử phát triển lâu đời, trải qua bao
thăng trầm các làng nghề vẫn tồn tại và vươn lên mạnh mẽ cùng thời đại. Sự tồn tại
của nó như một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
10
Làng nghề truyền thống với các bí quyết nghề nghiệp riêng là sản phẩm độc
đáo của văn hoá Việt Nam. Đây là nơi hiện lưu giữ kho tàng di sản văn hoá vật thể và
phi vật thể vô cùng phong phú, nơi biểu hiện cụ thể, sinh động bản sắc văn hóa dân
tộc. Sản phẩm chính của làng nghề thường là sản phẩm thủ công được tạo ra từ bàn
tay khéo léo, óc sáng tạo và con mắt thẩm mỹ của các nghệ nhân vì vậy mỗi sản
phẩm chính là một tác phẩm nghệ thuật. Người nghệ nhân thổi vào trong tác phẩm
của mình cái hồn của núi sông, của quê hương, của con người,… chứa đựng trong đó
chính là một phần cuộc sống thật gần gũi, thật thân quen với họ. Kinh nghiệm kết
hợp với sự khéo léo sáng tạo của người nghệ nhân đã tạo nên những tác phẩm hết sức
tinh xảo mang trong đó những nét đặc sắc riêng biệt của từng địa phương, vừa hiện
đại, vừa truyền thống, từ đó tạo nên một sức hút kỳ lạ.
4.3 Sử dụng công nghệ lạc hậu, hiệu quả không cao
Quá trình sản xuất tại các làng nghề chủ yếu được thực hiện bằng phương
thức thủ công nên thường sử dụng công cụ thô sơ, kỹ thuật lạc hậu, nhiều sản phẩm
được tạo ra hoàn toàn dựa vào tay nghề của người thợ như đan lát, thêu thùa,…. Vì
vậy sản phẩm sản xuất ra mang tính chất đơn chiếc, tốc độ chậm, dễ gây lãng phí và
ô nhiễm môi trường, nên hiệu quả không cao, khó khăn trong việc thực hiện những
hợp đồng kinh tế lớn; các công nghệ được sử dụng trong các làng nghề cũng không
thể được thay thế hoàn toàn bởi công nghệ tiên tiến hiện đại mà chỉ có thể thay thế ở
một số khâu trong toàn bộ quá trình sản xuất. Mặt khác, các doanh nghiệp tại làng
nghề thường hoạt động nhỏ, lẻ, vốn ít nên việc đầu tư các thiết bị mới thay thế các
công nghệ lạc hậu là rất khó khăn từ đó làm giảm sức cạnh tranh của các làng nghề,
đặc biệt trong thời buổi thị trường cạnh tranh hết sức gay gắt cả về chất lượng lẫn chi
phí.
4.4 Lao động thủ công là chính, chủ yếu dựa vào sự khéo léo, lao động
không được đào tạo bài bản mà chủ yếu theo phương thức truyền nghề

Các nghề thủ công ra đời khi công nghệ kỹ thuật còn chưa phát triển, người
lao động phải làm hầu hết các công đoạn của quá trình sản xuất từ khâu chọn nguyên
liệu, sơ chế đến khâu cuối cùng là hoàn thiện sản phẩm. Các sản phẩm này để đủ sức
11
cạnh tranh phải hết sức tinh xảo vì vậy đòi hỏi tay nghề và sự sáng tạo cao của người
thợ cũng như kinh nghiệm trong nghề của họ. Họ có thể làm một mình từ khâu đầu
đến khâu cuối hoặc có thể chỉ làm một vài khâu trong quá trình tạo ra một sản phẩm
thể hiện sự chuyên môn hoá hơn trong quá trình sản xuất.
Kinh nghiệm của các người thợ được truyền qua các thế hệ như một cách để
lưu giữ các giá trị truyền thống. Tuy nhiên, việc truyền nghề này không được phổ
biến rộng ra nhằm mục đích gìn giữ những bí quyết riêng, vì thế giữ được những nét
riêng của từng làng nghề. Nhưng hạn chế là những bí quyết đó có thể bị thui chột và
biến mất khi không tìm được người thích hợp để truyền lại. Ngày nay, đã có sự thay
đổi trong cách truyền nghề, nó không chỉ dừng lại ở việc chỉ truyền nghề cho số ít
người nữa mà có thể mở rộng việc dạy nghề dưới nhiều hình thức đào tạo nghề như
học việc tại chính các cơ sở sản xuất hoặc thông qua các trung tâm dạy nghề,…nhờ
vậy mà quy mô của các làng nghề ngày càng được mở rộng.
4.5 Với hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu theo hộ gia đình,
một số tổ hợp sản xuất và các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo nên sự linh động
trong quản lý sản xuất kinh doanh
Như chúng ta đã biết, làng nghề đi lên từ sản xuất nhỏ tại các hộ gia đình. Với
hình thức sản xuất này, mọi cá nhân trong gia đình đều được huy động vào quá trình
sản xuất và quản lý. Do vốn đầu tư ít, hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ nên thường sử
dụng chính nhà mình làm cơ sở sản xuất kinh doanh, điều này còn có ưu điểm là tận
dụng được hết thời gian rảnh rỗi của mọi người trong gia đình, họ vừa sản xuất lại
vừa có thể quán xuyến việc nhà. Thông thường người chủ gia đình là người thợ giỏi
nhất và kiêm thêm công việc quản lý. Tuỳ vào khối lượng công việc mà họ có thể
thuê thêm lao động để phát triển sản xuất. Ngày nay, khi nhu cầu về các sản phẩm
làng nghề ngày một cao hơn thì việc sản xuất theo hộ gia đình không thể đáp ứng
được, vì vậy mà việc liên doanh, liên kết được đẩy mạnh, hình thành các tổ hợp sản

xuất, các hợp tác xã,…và cao hơn là hình thành các hiệp hội để có thể tạo điều kiện
cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng, giảm thiểu chi phí sản xuất, nâng cao khả
12
năng cạnh tranh, đồng thời giảm tác động tiêu cực đến môi trường làng nghề, từ đó
phát triển sản xuất. Việc đa dạng hoá các hình thức hoạt động cũng là một sự tất yếu.
5. Các nhân tố tác động đến sự phát triển của làng nghề
5.1 Cầu thị trường
Ba câu hỏi mà bất kỳ nhà sản xuất nào cũng phải đối mặt đó là:
- Sản xuất cái gì?
- Sản xuất cho ai?
- Sản xuất như thế nào?
Như vậy cầu về một hàng hoá nào đó là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng có tính
quyết định đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong một thời
kỳ nhất định nó vừa tác động trực tiếp đến việc nghiên cứu quyết định cung của
doanh nghiệp, lại vừa tác động đến mức độ và cường độ cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp làng nghề. Cầu thị trường phụ thuộc vào thị hiếu của người tiêu dùng cũng
như các yêu cầu về chất lượng, giá cả,… của họ. Sản phẩm đáp ứng được thị hiếu và
các yêu cầu của khách hàng thì sẽ được chấp nhận và có chỗ đứng trên thị trường,
còn ngược lại làng nghề đó sẽ dần bị mai một và lãng quên. Ngày nay, thu nhập của
người tiêu dùng ngày một tăng, yêu cầu của họ cũng khắt khe hơn, đặc biệt có rất
nhiều sản phẩm được sản xuất bằng công nghệ hiện đại có thể thay thế cho các sản
phẩm làng nghề, sự lựa chọn của người tiêu dùng ngày càng được mở rộng, vì thế sản
phẩm của làng nghề phải nổi trội hơn các sản phẩm khác thì mới có thể giữ vững vị
trí của mình trong lòng người tiêu dùng và khẳng định vị thế của mình trên thị
trường. Muốn vậy các doanh nghiệp làng nghề phải đổi mới mẫu mã, vẫn giữ được
những nét đặc trưng riêng, phát huy giá trị truyền thống kết hợp với giá trị hiện đại
nhằm nâng cao giá trị của sản phẩm.
5.2 Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
Đây là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của các làng nghề,
nó là nền tảng tạo môi trường kinh doanh, tác động trực tiếp tới các hoạt động sản

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp làng nghề nói
riêng. Để đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn, Đảng và Nhà
13
nước ta đã chú trọng phát triển các làng nghề CN – TTCN với việc đưa ra các chính
sách khuyến khích nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn, đào tạo lao động ngắn hạn,
về thông tin thị trường, và đặc biệt là phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn; đồng thời
cũng có các chính sách đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các cơ sở sản xuất, kinh
doanh ngành nghề nông thôn.
5.3 Các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
Đây là những nhân tố cần thiết cho quá trình sản xuất, nó bao gồm vốn, lao
động, nguyên vật liệu, công nghệ kỹ thuật. Những yếu tố này quyết định trực tiếp đến
tổng cung, hay khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong xã hội.
- Nguyên liệu: là yếu tố đầu vào quan trọng đối với mọi quá trình sản xuất, nó
quyết định đến chất lượng sản phẩm và chi phí sản xuất. Trước đây nguồn nguyên
liệu cho các làng nghề thường là nguồn tại chỗ nhưng ngày nay nguồn này dần bị cạn
kiệt và khan hiếm, dẫn đến phải nhập nguyên liệu từ nơi khác làm tăng thêm chi phí
vận chuyển mà giá nguyên vật liệu lại không ổn định, gây khó khăn cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của các làng
nghề. Vì vậy cần thiết phải ổn định nguồn nguyên liệu cho các làng nghề.
- Lao động: là nguồn lực sản xuất chính và không thể thiếu trong các hoạt
động kinh tế, nó có ý nghĩa quyết định tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của làng
nghề. Một nguồn lao động tham gia sản xuất tại các làng nghề có ổn định thì mới
đảm bảo cho các hoạt động sản xuất ổn định. Đặc biệt người lao động tại các làng
nghề phải làm hầu hết các công đoạn của quá trình sản xuất, quan trọng là sự khéo
léo, sáng tạo của người thợ vì vậy càng tỏ rõ tầm quan trọng của người lao động đối
với sự phát triển của làng nghề. Hiện nay, nguồn lao động nông thôn khá dồi dào, tuy
nhiên do phương thức đào tạo theo kiểu truyền nghề nên khối lượng lao động có kỹ
năng, lành nghề lại rất ít vì vậy hạn chế sự phát triển của các làng nghề. Ngoài ra đối
với người quản lý hoạt động của cơ sở sản xuất kinh doanh phải có kiến thức về kinh
doanh, quản lý. Vì vậy phải đảm được nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng

là điều kiện cần thiết cho phát triển bền vững các làng nghề.
14
- Vốn sản xuất kinh doanh: là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng, nó quyết
định quy mô sản xuất, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, đối với các doanh
nghiệp trong các làng nghề cũng không phải là ngoại lệ. Trước kia, vốn sản xuất của
các hộ gia đình tại các làng nghề thường là vốn tự có, rất nhỏ bé, nên quy mô sản
xuất cũng rất nhỏ. Ngày nay, do yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất và đầu tư sản xuất
theo chiều sâu nên có nhiều cách để tăng nguồn vốn của doanh nghiệp như tiếp cận
với nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng, hay liên kết hợp tác giữa các cơ sở sản
xuất,…từ đó đảm bảo cho sự phát triển của các làng nghề.
- Trình độ kỹ thuật công nghệ: tác động của nhân tố này đến sự phát triển của
các doanh nghiệp ngày càng mạnh mẽ. Mặc dù đối với hoạt động sản xuất của làng
nghề thì công nghệ hiện đại rất khó thay thế hoàn toàn công nghệ sản xuất cũ, tuy
nhiên việc đổi mới công nghệ vẫn là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp làng nghề.
5.4 Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng đó là hệ thống giao thông, mạng lưới điện, bưu chính viễn
thông, cơ sở y tế, giáo dục,…Mỗi nhân tố đều góp phần làm cho hoạt động sản xuất
được diễn ra liên tục. Để đảm bảo sự phát triển cho các làng nghề thì cũng phải chú
trọng đầu tư phát triển cơ sơ hạ tầng vì cơ sở hạ tầng nông thôn tương đối thiếu thốn
và yếu kém.
5.5 Yếu tố truyền thống, phong tục tập quán của địa phương
Đây là các nhân tố chi phối nhu cầu tiêu dùng và cả đời sống của dân cư, từ đó
ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất. Mặt khác, yếu tố truyền thống, phong tục tập
quán của địa phương cũng được phản ánh trong các sản phẩm của làng nghề tạo nên
nét độc đáo riêng và mang lại giá trị cao hơn cho sản phẩm làng nghề, từ đó thúc đẩy
sự phát triển của các làng nghề. Tuy nhiên, ngày nay tại các làng nghề còn tồn tại một
số quy định không văn tự, đó là các luật lệ làng nghề khá khắt khe cản trở việc mở
rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp làng nghề, từ đó kìm hãm sự phát triển
của làng nghề. Như vậy đây là yếu tố có tác động không nhỏ đến sự phát triển làng

nghề.
15
III. Phát triển bền vững làng nghề
1. Quan niệm về phát triển bền vững làng nghề
Xuất phát từ khái niệm phát triển bền vững, khai thác vào một bộ phận nhỏ
của nền kinh tế đó là làng nghề chúng ta có thể hiểu phát triển bền vững làng nghề
như sau:
“Phát triển bền vững làng nghề là việc cân đối các mục tiêu kinh tế - xã hội –
môi trường tại các làng nghề nhằm đáp ứng được các nhu cầu hiện tại cũng như trong
tương lai của cộng đồng dân cư sinh sống trong các làng nghề đó. Cụ thể hơn thì đó
là việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, gắn liền với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và việc bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường sống tại các làng
nghề”.
2. Yếu tố đảm bảo sự phát triển bền vững của làng nghề
Từ việc xem xét các yếu tố tác động đến sự phát triển của làng nghề có thể
chia ra thành 2 nhóm đó là nhóm yếu tố nội lực và yếu tố bên ngoài. Để đảm bảo phát
triển làng nghề một cách bền vững cần vận dụng tối đa nội lực kết hợp với các yếu tố
ngoại lực để các làng nghề phát triển đúng hướng.
2.1 Yếu tố nội lực: như vốn, lao động, công nghệ kỹ thuật
Đây là các yếu tố tạo nên sức mạnh từ bên trong của các doanh nghiệp, là các
yếu tố đảm bảo khả năng sản xuất và vận hành của doanh nghiệp. Để đảm bảo sự
phát triển bền vững của các làng nghề thì phải vận dụng tối đa nội lực, nội lực cộng
đồng mà quan trọng là vốn lao động cộng đồng, trong đó trình độ tay nghề và tính
truyền thống của ngành nghề là cơ sở quan trọng để xây dựng chiến lược phát triển
làng nghề.
2.2 Yếu tố bên ngoài: như chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; sự hỗ
trợ tạo điều kiện của các cấp, các ngành. Dưới sự tác động của các yếu tố bên ngoài
có thể tạo ra những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của các làng nghề. Các
làng nghề phải tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức để đi đến đích của sự phát
triển đó là phát triển bền vững.

3. Đánh giá tính bền vững của các làng nghề
16
3.1 Đánh giá tính bền vững về mặt kinh tế
Đó là xem xét các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất nhằm đảm
bảo cho các làng nghề đạt được tăng trưởng cao, ổn định và hiệu quả với cơ cấu kinh
tế hợp lý.
- Đối với các yếu tố đầu vào: cần xem xét mức độ ổn định của nguồn nguyên
liệu; nguồn lao động tại làng nghề có ổn định về mặt số lượng và đảm bảo về mặt
chất lượng (lành nghề, sáng tạo, khéo léo,…) hay không; quy mô nguồn vốn có đủ
lớn để phát triển sản xuất không. Sự ổn định lâu dài của các yếu tố này quyết định tới
năng lực sản xuất của các doanh nghiệp tại làng nghề, từ đó có thể thấy được khả
năng phát triển sản xuất về lâu dài của các làng nghề.
- Đối với đầu ra của quá trình sản xuất (vấn đề thị trường): có thị trường tiêu
thụ ổn định trong hiện tại và có khả năng mở rộng trong tương lai sẽ là điều kiện và
là động lực để các làng nghề duy trì được sự tăng trưởng cao, và lâu dài.
- Hiệu quả của phát triển làng nghề: thể hiện ở sự đóng góp vào giá trị sản
xuất của địa phương nhiều hay ít, và đóng góp của nó trong việc nâng cao mức sống
của lao động làng nghề.
3.2 Đánh giá tính bền vững về mặt xã hội
Các mục tiêu về mặt xã hội như giải quyết việc làm cho lao động dư thừa khu
vực nông thôn, xoá đói giảm nghèo và vấn đề bình đẳng trong xã hội,… liệu có đạt
được không và đạt được ở mức độ nào khi đã đạt được sự bền vững về mặt kinh tế
tại các làng nghề. Đây là các tiêu chí đánh giá bền vững về mặt xã hội.
3.3 Đánh giá tính bền vững về môi trường
Các làng nghề với sự khôi phục và phát triển nhanh về quy mô trong những
năm gần đây đã đóng vai trò tích cực đối với đời sống kinh tế - xã hội các địa
phương, góp phần quan trọng trong tiến trình CNH – HĐH,… Thế nhưng, sự phát
triển của này lại đồng hành với tình trạng chất thải không được xử lý, đổ bừa bãi gây
ô nhiễm cho cả môi trường nước, môi trường không khí và môi trường đất. Đến nay
17

tình trạng này đã phát tác những ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ cộng đồng. Như vậy
không thể đảm bảo mục tiêu về môi trường, dẫn đến thiếu bền vững trong phát triển
làng nghề. Vì vậy cần đo lường khối lượng chất thải (rắn, khí, nước) và mức độ ảnh
hưởng của nó đến cộng đồng, cùng với các biện pháp xử lý để đánh giá tính bền
vững về môi trường tại các làng nghề.
4. Vai trò của phát triển bền vững của các làng nghề
Cùng với sự chuyển mình của đất nước, các làng nghề cũng phát triển một
cách nhanh chóng và giữ một vị trí không nhỏ trong CNH – HĐH nông nghiệp, nông
thôn và sự phát triển chung của cả đất nước. Vai trò của phát triển bền vững làng
nghề thể hiện ở những mặt sau:
4.1 Giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn
Theo thống kê, 75% dân số nước ta sống ở nông thôn và 61% lực lượng lao
động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Sự chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH
nông nghiệp, nông thôn kéo theo sự gia tăng lao động dư thừa khu vực nông thôn
ngày một tăng do sự thu hẹp dần diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp và sự giải
phóng sức lao động do cơ giới hoá và áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất
nông nghiệp. Mặt khác, đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là mang tính thời vụ tạo
ra một lực lượng lớn lao động không có việc làm trong thời kỳ nông nhàn. Vì vậy
giải quyết việc làm cho họ là một vấn đề cấp bách. Sự phát triển các làng nghề đã
giải quyết được vấn đề này. Trước hết, các làng nghề phát triển đã tạo ra khối lượng
lớn công việc, công việc này lại không đòi hỏi lao động được đào tạo bài bản, có
trình độ cao vì vậy lao động nông thôn có thể đáp ứng. Thứ hai, thu nhập của lao
động làng nghề cao hơn 3 – 4 lần so với sản xuất nông nghiệp đơn thuần. Thứ ba, sự
phát triển làng nghề kéo theo sự phát triển của các ngành nghề, dịch vụ khác có liên
quan như vận chuyển, cung cấp nguyên vật liệu,… từ đó tạo thêm nhiều việc làm
nữa. Do vậy sự phát triển bền vững làng nghề giúp giải quyết việc làm tại chỗ cho lao
động nông thôn.
4.2 Tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hoá cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
18

Khối lượng sản phẩm sản xuất ra tại các làng nghề không chỉ đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, trong nước mà còn mang lại giá trị xuất khẩu cao, đặc biệt
là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Xuất khẩu sản phẩm làng nghề đóng vai trò quan
trọng trong việc đóng góp giá trị gia tăng cho nền kinh tế mỗi địa phương nói riêng,
cả nước nói chung, các sản phẩm làng nghề Việt Nam có mặt ở nhiều nước trên thế
giới, trong đó có các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, và Nhật Bản thu về hàng trăm
triệu đô la mỗi năm. Ta có thể thấy tốc độ gia tăng nhanh chóng của giá trị kim ngạch
xuất khẩu sản phẩm làng nghề trong cả nước thể hiện thông qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng giá trị xuất khẩu sản phẩm làng nghề
6.8
300
700
850
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
1991 2000 2005 2008
giá trị xuất khẩu
sản phẩm làng
nghê(triệu USD)
Với tốc độ tăng nhanh như vậy đóng góp của nó trong tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước cũng khá cao: năm 2007 kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 35
tỷ USD thì trong đó giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề như

gốm sứ, mây tre đan chiếm 714 triệu USD. Như vậy sự phát triển bền vững của các
làng nghề góp phần tạo nên sự tăng trưởng và phát triển bền vững của đất nước.
4.3 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH –
HĐH
Với sự phát triển mạnh mẽ của các làng nghề thời gian qua đã tạo ra cơ cấu
kinh tế mới, hợp lý, hiện đại ở khu vực nông thôn, điều này được thể hiện ở những
mặt sau:
19
- Làng nghề phát triển đã tạo ra việc làm cho lượng lớn lao động dư thừa ở
nông thôn (bao gồm lao động hoạt động sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ nông
nhàn; lao động không có việc do thu hẹp diện tích đất dành cho nông nghiệp và do cơ
giới hoá trong sản xuất nông nghiệp) và thu hút thêm một lượng lao động hiện đang
hoạt động sản xuất nông nghiệp do thu nhập từ hoạt động sản xuất CN – TTCN cao
hơn nhiều so với thu nhập từ sản xuất nông nghiệp đơn thuần. Như vậy nó làm thay
đổi cơ cấu lao động tại các làng nghề.
- Hoạt động sản xuất làng nghề phát triển đã đóng góp tích cực vào việc tăng
tỷ trọng của giá trị CN –TTCN, từ đó thu hẹp dần tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu
đóng góp vào tổng giá trị sản xuất của toàn địa phương. Sự dịch chuyển này phù hợp
với xu hướng phát triển chung của thế giới.
Trong xu thế hội nhập và mở cửa như hiện nay, làng nghề truyền thống đang
dần lấy lại vị trí quan trọng của mình trong đời sống kinh tế-văn hoá - xã hội. Những
làng nghề này như một hình ảnh mang đặm bản sắc dân tộc, khẳng định nét độc đáo
riêng không thể thay thế được, là một cách giới thiệu sinh động về đất nước, con
người của mỗi vùng, miền, địa phương. Vì vậy sự phát triển của làng nghề gắn liền
với sự phát triển du lịch. Lợi ích mang lại từ hoạt động du lịch làng nghề không chỉ
thể hiện ở con số tăng trưởng lợi nhuận kinh tế mà còn thể hiện ở sự phát triển kéo
theo của các dịch vụ khác. Từ đó thúc đẩy sự phát triển của các ngành dịch vụ, tăng
tỷ trọng ngành dịch vụ dẫn đến cơ cấu ngành nghề ở khu vực nông thôn đã thay đổi
theo hướng CNH – HĐH.
4.4 Tăng thu nhập, nâng cao mức sống dân cư và xây dựng nông thôn

mới hiện đại văn minh, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Thực tế đã cho thấy sự phát triển làng nghề mang lại thu nhập cao hơn cho
người lao động, thu nhập của người lao động ở làng nghề cao hơn gấp 3 – 4 lần so
với sản xuất nông nghiệp đơn thuần, tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực có làng nghề chỉ chiếm
3.7% trong khi mức bình quân của cả nước là 10.4%. Vì vậy sự phát triển bền vững
làng nghề là điều kiện để xoá đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
20
Khi thu nhập của người dân tăng lên đời sống vật chất và tinh thần của họ
cũng ngày càng được cải thiện. Nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ tốt hơn
tăng lên, từ đó thúc đẩy các ngành sản xuất hàng hoá và dịch vụ này phát triển. Để
đáp ứng các nhu cầu này thì đòi hỏi phải phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn như giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, mạng lưới điện, nước,… để phục vụ nhu cầu sinh
hoạt của dân cư và phục vụ phát triển sản xuất. Trình độ dân trí của người dân được
nâng cao, các phong tục tập quán lạc hậu, không phù hợp dần bị xoá bỏ, đời sống của
dân cư nông thôn ngày một văn minh hơn. Mặt khác, phát triển bền vững làng nghề
thì vấn đề bảo vệ môi trường rất được chú trọng, do vậy người dân được hưởng
những điều kiện sống tốt hơn, làm nên một nông thôn mới hiện đại, văn minh và thu
hẹp dần khoảng cách với thành thị.
4.5 Bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc
Việt Nam là quốc gia có bề dày truyền thống lịch sử, là một đất nước có nhiều
làng nghề truyền thống độc đáo. Điểm đặc trưng của làng nghề Việt Nam chính là có
sự gắn bó, tồn tại song song với lịch sử dân tộc, những sản phẩm làng nghề được làm
ra dưới bàn tay tài hoa của những nghệ nhân, mang những nét đặc trưng riêng và có
thể thấy trong đó cả một chiều dài lịch sử văn hoá bền lâu. Việc đem sản phẩm làng
nghề tới với các nước trên thế giới và phát triển du lịch làng nghề là một cách để gìn
giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá của dân tộc, làm cho người Việt Nam hiểu về
đất nước mình hơn và đồng thời giới thiệu với bạn bè thế giới về đất nước và con
người Việt Nam. Việc gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá thông qua phát triển du
lịch các làng nghề truyền thống giờ đây không chỉ là mối quan tâm của từng địa
phương hay từng quốc gia riêng lẻ. Chia sẻ kinh nghiệm về gìn giữ và phát huy bản

sắc, nội lực của riêng mình là những cách làm phù hợp để đạt được hiệu quả cao về
kinh tế lẫn văn hoá khi phát triển du lịch làng nghề.
IV. Kinh nghiệm phát triển làng nghề ở một số nơi và bài học kinh
nghiệm trong phát triển bền vững các làng nghề
1. Mô hình phát triển bền vững tại làng nghề trồng rau Nam Hồng - huyện
Đông Anh – Hà Nội.
21
Đây là mô hình phát triển bền vững của cộng đồng dân cư quy mô làng xã, mô
hình này được phát hiện và hoàn thiện trong phạm vi Dự án “ Môi trường Cộng
đồng” vào những năm 2000 – 2003. Đây là vùng cung ứng rau, hoa, quả quan trọng
cho vùng nội thành của thủ đô. Trong giai đoạn đô thị hoá nhanh của thủ đô Hà Nội
nhu cầu về rau xanh cho thành phố cũng không ngừng tăng lên, người dân xã Nam
Hồng cùng với việc cung ứng ngày càng nhiều rau, hoa, quả cho thị trường họ thu
được lợi nhuận lớn. Xét trên phương diện kinh tế người dân ở đây được hưởng lợi từ
quá trình phát triển nhanh của thành phố Hà Nội. Tuy nhiên vấn đề nảy sinh ở chỗ để
có nhiều rau, hoa, quả để mang ra thị trường bán, trong thời gian trước đây tại xã
Nam Hồng đã áp dụng quy trình canh tác lạc hậu, không đảm bảo vệ sinh để tăng
năng suất, điều này gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của người tiêu dùng. Vì vậy
Nam Hồng được chọn là địa điểm triển khai phương thức trồng rau, hoa, quả chất
lượng cao. Mô hình này là một định hướng rất có giá trị về kinh tế, xã hội và môi
trường.
- Về kinh tế, do sự co hẹp diện tích đất nông nghiệp đang diễn ra từng ngày tại
Nam Hồng, do đó, tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn đến tăng hiệu
suất sản xuất trên một đơn vị đất nông nghiệp là một việc không thể không làm.
- Về xã hội, hiện tượng mất đất nông nghiệp dẫn đến dư thừa lao động. Không
phải tất cả các khu công nghiệp sẽ được xây dựng tại đây đều có khả năng thu hút lao
động nông nghiệp dư dôi của địa phương. Các khu công nghiệp ngoại thành Hà Nội
có điều kiện thu hút các ngành công nghiệp trình độ cao. Lúc đó, nguồn nhân lực đòi
hỏi có trình độ tương ứng. Địa phương không thể ngay một lúc có nguồn nhân lực
theo yêu cầu đó. Sự dư thừa lao động nông nghiệp chắc chắn sẽ xảy ra. Để giảm nhẹ

áp lực của sự sư thừa, mô hình sản xuất rau an toàn, hoa chất lượng cao với hình thức
sản xuất quy mô lớn như ở Đà Lạt tỏ ra có nhiều ưu điểm. Một lượng lớn lao động
tham gia vào khâu dịch vụ liên quan tới bảo quản, lưu thông rau và hoa.
22
- Về môi trường, rau không an toàn đang là vấn đề nan giải cho người tiêu
dùng của Thủ đô. Người ta phải giảm lượng rau xanh, chuyển rau xanh thành rau
không xanh (các loại củ), chất lượng bữa ăn vì thế giảm sút.
Việc thực hiện dự án tại xã Nam Hồng đã đạt được những mục tiêu ban đầu
đề ra. Thành công của dự án nhờ vào các biện pháp có tính quyết liệt đã được thực
hiện sau:
a. Đối với sản xuất rau an toàn:
+ Nâng cao nhận thức của cộng đồng những người sản xuất rau tại xã Nam
Hồng về tác hại của rau không an toàn, những quy định của pháp luật về rau an toàn,
quy trình sản xuất rau an toàn, ứng dụng các mô hình sản xuất rau an toàn với năng
suất cao, về các loại thuốc bảo vệ thực vật và cách sử dụng.
+ Tăng cường kiểm soát quá trình sản xuất rau, bao gồm việc giám sát của
chính quyền xã, hợp tác xã, hội nông dân, các hộ nông dân cam kết sản xuất rau an
toàn và giám sát lẫn nhau, lập các hợp tác xã sản xuất rau an toàn dưới hình thức cổ
phần.
+ Chủ động trong việc xây dựng thương hiệu và uy tín của thương hiệu sản
phẩm. Sản xuất rau truyền thống của Việt Nam không chú ý đến việc xây dựng
thương hiệu của sản phẩm do đó khi xuất hiện vấn đề về rau không an toàn thì người
tiêu dùng thương hoang mang, không phân biệt được đâu là rau an toàn và rau không
an toàn. Do vậy cần khuyến khích các đơn vị sản xuất tạo dựng thương hiệu sản
phẩm theo các bước sau:
Bước 1: Thiết kế, đăng ký thương hiệu của hợp tác xã.
Bước 2: Sử dụng bao bị đựng sản phẩm của mình có cả thương hiệu và
các thông tin về rau an toan.
Bước 3: Lập hệ thống cửa hàng tiêu thụ riêng cho mình, bảng hiệu của
cửa hàng nhấn mạnh thương hiệu của sản phẩm và tính an toàn của sản phẩm bán tại

cửa hàng.
23
Bước 4: Quảng cáo thương hiệu bằng nhiều hình thức khác nhau.
+ Cơ quan quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm cần nhận thức rõ và khắc phục
các điểm yếu để làm tốt hơn công việc của mình.
b. Các biện pháp phát triển vùng trồng hoa chất lượng cao tại xã Nam
Hồng:
Về trồng hoa, so với Đà Lạt, Nam Hồng đi sau nhiều năm với quy mô nhỏ lẻ,
các loại hoa được trồng đơn điệu, giá thành thấp. Vì vậy để có thể phát triển vùng
trồng hoa chất lượng cao tại Nam Hồng, các biện pháp sau đây đã được áp dụng:
• Thay đổi giống hoa, chú trọng thị hiếu của thị trường.
• Thay đổi phương thức canh tác theo hướng chủ động hơn với thời tiết
khí hậu (sản xuất trong nhà kính, nhà lưới, tưới phun chủ động).
• Chú trọng khâu thu hái, bảo quản, vận chuyển, tiếp thị sản phẩm.
• Tổ chức lại cơ cấu sản xuất, hình thức hợp tác xã cổ phần cũng đã
được thực hiện tại Nam Hồng đối với các hộ trồng hoa.
2. Mô hình làng nghề chế biến gạo tại huyện Hoài Đức – TP.Hà Nội
Những năm qua với tốc độ đô thị hoá nhanh chóng, diện tích đất nông nghiệp
ngày càng giảm, tỷ lệ lao động không có việc làm tăng cao. Hoài Đức từ một huyện
thuần nông đã chuyển sang hướng phát triển làng nghề chế biến, xay xát gạo và các
sản phẩm từ gạo. Đây là hướng chuyển biến tích cực và mạnh mẽ đối với sự phát
triển của huyện Hoài Đức. Với vị trí gần kề trung tâm thủ đô Hà Nội, Hoài Đức có
nhiều lợi thế và tiềm năng cho phát triển kinh tế như công nghiệp, thương mại, dịch
vụ và đặc biệt là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sản xuất và chế biến
nông sản. Mô hình này gặt hái được nhiều thành công nhờ chú trọng những điểm sau:
- Để đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng
cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập thì đầu tư cải tiến dây truyền công
nghệ là một hướng đi hiệu quả. Việc đầu tư được tiến hành một cách hệ thống và có
24
bài bản: đầu tiên là đầu tư sử dụng dây truyền sản xuất gạo với công nghệ hiện đại và

đồng bộ, nhờ đó tỷ lệ thu hồi gạo từ thóc trong quá trình xay xát chế biến đạt tỷ lệ
cao 80%, gạo có chất lượng cao, sạch và an toàn; tiếp theo là xuống vùng nguyên liệu
để đầu tư giống kỹ thuật cho bà con nông dân, ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho họ
và đưa cán bộ kỹ thuật xuống hướng dẫn bà con nông dân cách gieo trồng, chăm sóc
thu hoạch, bảo quản nông sản sau khi thu hoạch một cách khoa học để đảm bảo chất
lượng nguyên vật liệu đầu vào. Đảm bảo vùng nguyên liệu, chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm của sản phẩm luôn là yếu tố sống còn của các doanh nghiệp. Việc
xây dựng mô hình liên kết giữa nhà nông, doanh nghiệp, nhà nước và nhà khoa học
đã tạo ra sản phẩm có chất lượng được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận.
Một phần khác được thu hồi từ quá trình sản xuất và chế biến gạo như tấm,
cám, gạo vỡ được cung cấp làm nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi cho 20 nhà
máy chế biến thức ăn gia súc ở Hoài Đức. Từ đó làm tăng giá trị gia tăng cho doanh
nghiệp.
- Vấn đề xây dựng thương hiệu cũng được chú trọng, nhờ vậy sản phẩm có
mặt ở thị trường trong nước và xuất khẩu, chẳng hạn như thương hiệu “hương đồng
quê”.
- Sức mạnh của hệ thống phân phối: sự vận động, phát triển của xu hướng
toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã tạo ra những cơ hội và thách thức trong kinh
doanh đối với cơ sở sản xuât dù nhỏ hay với quy mô lớn. Việc xoá bỏ hàng rào thuế
quan, tự do hoá thương mại làm cho doanh nghiệp muốn tồn tại phải nâng cao chất
lượng sản phẩm, phát triển mạnh hệ thống phân phối để mở rộng thị trường. Nắm bắt
được xu thế này các cơ sở chế biến tại Hoài Đức đã tích cực phát triển hệ thống phân
phối nhằm mở rộng thị trường trong nước và làm cơ sở trung gian bán cho các công
ty lớn khác thực hiện hoạt động xuất khẩu. Kênh tiêu thụ sản phẩm của cơ sở là bán
cho các đại lý, bán theo hợp đồng xuất khẩu của doanh nghiệp và bán cho công ty
lương thực phục vụ dự trữ quốc gia. Khi giá vật tư đầu vào tăng cao, hay tình hình
dịch bệnh sẽ đẩy giá thành lên cao, ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu, nhưng nếu có
25

×