Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Báo cáo " So sánh cách biểu đạt ý nghĩa bị động trong hai ngôn ngữ: Pháp và Việt " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.72 KB, 15 trang )

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261
247
So sánh cách biểu đạt ý nghĩa bị động trong hai ngôn ngữ:
Pháp và Việt
Đinh Hồng Vân*

Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN,
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 10 tháng 11 năm 2007
Tóm tắt. Kết quả nghiên cứu t-rên lý thuyết cũng như khảo sát ngữ liệu cho thấy ở cả hai ngôn ngữ
Pháp và Việt đều có những phương tiện biểu đạt ý nghĩa bị động với những đặc thù riêng của mỗi
ngôn ngữ. Việc thể hiện ý nghĩa bị động trong tiếng Pháp phổ biến hơn trong tiếng Việt. Tuy nhiên,
lối nói tiếp thụ-bị
động hay nói cách khác là việc xử dụng các cấu trúc để biểu đạt ý nghĩa bị động
đang có xu hướng gia tăng trong tiếng Việt và đi kèm với xu hướng này là sự xuất hiện của một số
cấu trúc mới được dùng để thể hiện ý nghĩa bị động. Nguyên nhân có thể là do ảnh hưởng của giao
thoa ngôn ngữ qua tiếp xúc và dịch thuật. Một trong những biện pháp có thể giảm bớt khó khăn
của người Việt Nam học tiếng Pháp khi phải sử dụng dạng bị động là tăng cường việc hướng dẫn
người học chủ động so sánh đối chiếu dạng bị động tiếng Pháp với lối nói tiếp thụ-bị động tiếng Việt.
1. Đặt vấn đề
*

Theo các nhà nghiên cứu, ý nghĩa bị động
tồn tại ở hầu hết các ngôn ngữ, sự khác biệt là
ở cách biểu đạt ý nghĩa này. Một trong những
phương tiện thường được sử dụng để biểu
đạt ý nghĩa bị động là dạng bị động. Đối với
các ngôn ngữ châu Âu thì dạng bị động là
một hiện tượng quen thuộc nhưng cho đến
hiện nay vẫn còn có nhiề
u quan niệm khác


nhau về dạng bị động nói chung và dạng bị
động trong tiếng Pháp nói riêng. Trong tiếng
Việt thì đây là một hiện tượng ngữ pháp
đang phát triển vì vậy cách quan niệm về
dạng bị động trong ngôn ngữ này còn rất
________
* ĐT: 84-4-7548151
E-mail:
khác biệt: có quan niệm cho rằng tiếng Việt
không có dạng bị động, có quan niệm cho
rằng trong tiếng Việt có tồn tại dạng bị động.
Khi học tiếng Pháp hay khi phải chuyển dịch
giữa hai ngôn ngữ này, người Việt Nam
không khỏi lúng túng.
Tuy nhiên, mục đích của bài viết này
không phải là để bàn về sự tồn tại hay không
tồn tại của dạng bị động mà chỉ thử tìm hiểu,
so sánh cách biểu đạt ý nghĩa bị động trong
tiếng Pháp và trong tiếng Việt. Với mục đích
đó, bài viết sẽ xem xét một cách cụ thể các
vấn đề về cấu trúc, ý nghĩa và vai trò của
dạng bị động để trả lời câu hỏi đâu là những
cấu trúc phổ biến nhất trong tiếng Pháp và
trong tiếng Việt thường được dùng để biểu
đạt ý nghĩa bị động? Bài viế
t này cũng sẽ dựa
trên một số văn bản đã được dịch từ tiếng
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

248

Pháp sang tiếng Việt để có thể tìm hiểu về
những phương tiện tương đương cho phép
chuyển dạng bị động từ tiếng Pháp sang
tiếng Việt.
2. Những quan niệm chung về dạng bị động
Dạng là gì? Theo quan niệm chung, dạng
là một phạm trù được dùng trong việc mô tả
cấu trúc câu hoặc mệnh đề chủ yếu liên quan
đến động từ, để thể hiện cách mà các câu có
th
ể lựa chọn mối quan hệ giữa chủ ngữ và bổ
ngữ của động từ, mà không làm thay đổi
nghĩa của câu. Phạm trù dạng được thể hiện
bằng những hình thức khác nhau tùy theo
từng ngôn ngữ. Chẳng hạn như ở tiếng La-
tinh, dạng được thể hiện bằng hình thái của
động từ. Ví dụ như với động từ "yêu,
thương", cùng được chia ở
thức chỉ định, thì
hiện tại nhưng có hình thức khác nhau ở
dạng chủ động và ở dạng bị động :
Dạng chủ động Dạng bị động
amo amor
amas amaris
amat amatur
amamus amamur
amatis amamini
amant amantur
Trong khi đó ở tiếng Pháp hoặc tiếng Anh
thì lại không có hình thái riêng biệt cho dạng

bị động, dạng này được thể hiện bằng sự kết
hợp giữa trợ động từ être, trong tiếng Pháp, to
be, trong tiếng Anh, với phân từ quá khứ. Ví dụ:
- Jacques a surpris le voleur. (Jacques đã bắt
gặp tên trộm.)
- Un voleur a été surpris par la police… (Tên
trộm đã bị công an bắt quả tang.)
- Millions of people have read that book.
(Hàng triệu người đã đọc cu
ốc sách này.)
- That book has been read by millions of people
(Cuốn sách này đã được hàng triệu người đọc).
Chẳng hạn như ở tiếng La-tinh, dạng
được thể hiện bằng hình thái của động từ,
trong khi đó ở tiếng Pháp thì lại không có
hình thái riêng biệt cho dạng bị động, dạng
này được thể hiện bằng sự kết hợp giữa trợ
động từ être với phân từ quá khứ. Dạng bị
động là mộ
t hiện tượng ngữ pháp phổ biến ở
nhiều ngôn ngữ. Song, mỗi trường phái ngữ
pháp đều có cách quan niệm riêng về hiện
tượng ngữ pháp này.
Trong ngữ pháp truyền thống, dạng bị
động được coi là một phạm trù hình thái học
thuần tuý. Có thể đây là do chịu ảnh hưởng
của cách quan niệm ở các ngôn ngữ như tiếng
La-tinh hoặc Hy-lạp. G. Mauger [1], p.199] đã
xếp dạng bị động vào m
ục chia động từ của

tiếng Pháp. Trong ngữ pháp ngữ pháp cải
biến-tạo sinh, dạng bị động được coi là một
hiện tượng ngữ pháp phổ quát gắn liền với
phép cải biến bị động hay quá trình bị động
hóa. N. Chomsky [2, p.88] câu bị động là kết
quả của sự cải biến từ các câu chủ động
tương ứng. Theo quan niệm loại hình học cú
pháp thì dạng bị độ
ng gắn liền với sự phân
biệt về loại hình học cú pháp điển hình giữa
các ngôn ngữ "thiên chủ ngữ" và các ngôn
ngữ "thiên chủ đề". Sự phân biệt này do Ch.
N. Li và S. A. Thompson [3] đề ra lần đầu tiên
năm 1976 trong công trình "Subject and topic: a
new typology of language". Theo các tác giả này,
bị động là một hiện tượng ngữ pháp điển
hình của ngôn ngữ thiên chủ ngữ. Ngữ pháp
ngữ nghĩa - chức năng muốn kết hợp cả
hai
cách quan niệm của ngữ pháp cải biến -tạo
sinh và loại hình học cú pháp để phân tích
hiện tượng bị động. Các tác giả thuộc trường
phái này (Givón, Dixon, Palmer) cho rằng bị
động là một hiện tượng ngữ pháp vừa có tính
phổ quát vừa có tính loại hình: tính phổ quát
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

249
được thể hiện qua các đặc điểm ngữ nghĩa-
chức năng của dạng bị động, còn tính loại

hình được thể hiện qua các đặc điểm hình
thái cú pháp. Do vậy, dạng bị động được
được phân tích trên cả ba phương diện. Về
dụng học, dạng bị động được dùng để tránh
nêu tác thể, tập trung mô tả kết quả của hành
động và để thiết l
ập liên kết chủ đề. Về cấu
trúc ngữ nghĩa, từ chủ động sang bị động thì
sẽ có một sự thay đổi về ý nghĩa do có một sự
thay đổi của các tham tố ngữ nghĩa cơ bản là
tác thể, đích thể và động từ. Về hình thái cú
pháp, chủ ngữ của câu bị động biểu hiện đích
thể, còn thì tác thể thì bị tỉ
nh lược, nếu xuất
hiện thì thường đi sau một giới từ (by, par) và
giữ vai trò bổ ngữ chỉ tác nhân; động từ thì biến
từ hình thái diễn đạt hành động thành hình
thái thể hiện trạng thái của đích thể chủ ngữ.
3. Những lý luận phổ biến liên quan đến
dạng bị động của tiếng Pháp
Nhìn chung, dạng bị động tiếng Pháp
được định nghĩa là sự
đối lập với dạng chủ
động trên ba khía cạnh: sự hoán đổi vị trí
giữa chủ ngữ và bổ ngữ trực tiếp; sự thay đổi
của động từ; ở dạng bị động, động từ được
chia với trợ động từ "être"; sự hiện diện của
một giới từ (PAR hoặc DE) trước bổ ngữ chỉ
tác nhân. Thường thì bổ ngữ chỉ tác nhân bị
tỉnh lược. Cho đến nay, có ít nhất là năm cách

định nghĩa khác nhau về dạng bị động dựa
trên: nghĩa; hình thái; cú pháp; cả nghĩa lẫn
hình thái; cả hình thái lẫn cú pháp.
3.1. Định nghĩa dựa trên ngữ nghĩa
Các nhà ngữ pháp thường đối lập dạng
chủ động, khi chủ ngữ thực hiện hành động,
với dạng bị động, khi chủ ngữ chị
u sự tác
động của hành động. Theo R. L. Wagner et J.
Pinchon [4, p. 46]: "Dạng bị động là dạng có chủ
ngữ của động từ thể hiện đối tượng của hành
động (tức là bổ ngữ chỉ đối tượng ở dạng chủ
động)". Cách định nghĩa này đã bị phê phán
từ lâu, vả lại chính các tác giả thuộc trường
phái này cũng đã chỉ ra những hạn chế của
nó. Họ
cho rằng cách định nghĩa này chỉ để
đối lập các nghĩa khác nhau của bản thân một
động từ.
3.2. Định nghĩa dựa trên hình thái
Dạng bị động được coi là một dạng thức
của động từ và được đối lập với dạng chủ
động. Theo G. MAUGER, một tác giả tiêu
biểu của cách định nghĩa này: "Tiếng Pháp
không có dạng bị động đặc thù. Chính sự kết hợ
p
của trợ động từ être với phân từ quá khứ đóng
vai trò của dạng bị động." [1], p. 199]. Thực
chất, quan niệm này chỉ xét trên phương diện
thuần tuý hình thức, cơ bản dựa vào phép

biến đổi dạng động từ chủ động sang bị
động. Vì thế nó dễ được người học tiếp thu,
áp dụng phép chuyển đổi. Song hạn chế của
quan niệm này là làm cho h
ọ thường tiếp thu
một cách máy móc, nhiều khi đưa ra những
câu bị động khó chấp nhận trong tiếng Pháp:
"*La ville est traversée par une grande voiture"
(*Thành phố bị đi xuyên qua bởi một chiếc ô tô to).
Mặt khác, cách quan niệm này có thể bị phản
bác cả trên hai phương diện. Về mặt hình
thức, không thể chỉ có sự thay đổi về hình
thái của động từ mà không có những thay đổi
khác trong câu; cần phải thấy dạng bị
động là
một hiện tượng liên quan đến cả câu. Về mặt
ngữ nghĩa, việc phân biệt thực hiện và chịu
đựng hành động cũng không đủ vì có nhiều
câu thực sự là câu chủ động nhưng chủ ngữ
lại thực sự chịu tác động. Như vậy, hình thái
có thể là một điều kiện cần nhưng chưa phải
là một điề
u kiện đủ để xác định dạng bị động.
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

250
3.3. Định nghĩa dựa trên cú pháp
Theo tinh thần của lý thuyết ngữ pháp cải
biến, lấy cơ sở là câu, J. Dubois [5], p.50] đã
đề ra một giải pháp: "dạng bị động" vừa là một

phạm trù ngữ pháp, gắn liền với động từ, vừa
là một kiểu cấu trúc cú pháp. Ông lấy câu hạt
nhân gồm một danh ngữ (SN
1) và một động
ngữ (SV) gồm một động từ một danh ngữ
(SN
2) làm cơ sở: "Phép cải biến bị động có chức
năng cơ bản là đảo ngược trật tự của các danh
ngữ mà vẫn giữ nguyên vai trò của chúng trên
bình diện nghĩa. Phép cải biến bị động thay đổi
chức năng ngữ pháp của SN
1 nhưng không làm
ảnh hưởng tới vai trò tác thể của nó."
3.4. Định nghĩa dựa trên cả ngữ nghĩa lẫn hình thái
E. A. Referovskaïa và A. K. Vassilieva [6],
p.183] cho rằng: "Hệ liên tưởng của dạng bị
động là các tổ hợp phức, gọi là "phân tích tính".
Các tổ hợp này được hình thành dựa trên các
"thời" của trợ động từ être và phân từ quá khứ
của động từ cần chia… Các dạng thức bị động
được sử
dụng để chỉ ra rằng chủ ngữ của câu chịu
đựng tác động của hành động…". Ngay cả khi
hai tiêu chí này không được kết hợp với nhau
một cách tường minh trong định nghĩa về
dạng bị động dựa trên ngữ nghĩa thì sự kết
hợp này vẫn hàm ẩn trong các ví dụ: ngoài sự
đối lập liên quan đến chủ ngữ của câu, một
bên chính chủ ngữ là chủ thể hành động, m
ột

bên chủ ngữ phải chịu tác động của hành
động, các ví dụ cho định nghĩa này luôn bao
gồm tổ hợp [être + phân từ quá khứ].
3.5. Định nghĩa dựa trên cả hình thái lẫn cú pháp
Đây là cách định nghĩa hiện đang được
nhiều nhà ngôn ngữ nêu ra trong nhiều sách
ngữ pháp. Nhóm tác giả của Đại học Tổng
hợp Strasbourg gồm Martin Riegel, Jean-
Christophe Pellat và René Rioul [7] cũng coi
dạng bị động vừa là một phạm trù của "
hình
thái học động từ", vừa liên quan đến toàn bộ
cấu trúc câu, hoặc một dạng câu đặc biệt. Sau
khi giới thiệu định nghĩa về dạng bị động
gồm trợ động từ être được chia theo thời và
thức của động từ chính với phân từ quá khứ
là những biểu hiện phạm trù của động từ, các
tác giả đã nhấn mạnh vấn
đề dạng bị động
của động từ ảnh hưởng đến toàn bộ cấu trúc
câu. Vì vậy hầu hết các nội dung liên quan
đến bị động được các tác giả phát triển trong
phần cú pháp.
4. Những phương diện cơ bản của dạng bị
động trong tiếng Pháp
Để có một cách nhìn tương đối hoàn
chỉnh, chúng ta sẽ xem xét dạng bị động
trong tiếng Pháp trên hai phương diện cấu
trúc hình thức và ng
ữ nghĩa.

4.1. Dạng bị động nhìn từ phương diện cấu trúc
hình thức
Dạng bị động đã được tất cả các nhà ngữ
pháp đề cập đến và tất nhiên là nó được
giảng dạy một cách có hệ thống ở mọi
chương trình. Tuy nhiên, hiện tượng ngữ
pháp này của tiếng Pháp không đơn giản như
đã được giới thiệu trong các giáo trình:
- Không phải lúc nào chính các chủ ngữ
và bổ ngữ đối tượng của câu chủ động xuất
hiện lại ở trong câu bị động dưới hình thức
ban đầu của chúng. Chẳng hạn: "du lait - sữa"
trong câu "Les chats boivent du lait (Những con
mèo uống sữa) không thể xuất hiện lại y
nguyên như vậy trong câu bị động: "* Du lait est
bu par les chats (*Sữa bị uống bởi những con mèo).
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

251
- Hoặc như đại từ chủ ngữ "Je" của câu
chủ động "J'ai vu ce film" (Tôi đã xem phim
này." khó có thể trở thành bổ ngữ chỉ tác nhân
trong câu bị động "*Ce film a été vu par moi"
(*Phim này đã được xem bởi tôi).
- Trong một số trường hợp, không phải là
chủ thể hành động xuất hiện trở lại dưới
dạng bổ ngữ chỉ tác nhân mà là một bổ ngữ
chỉ địa đ
iểm: "La bouteille contenait ces objets"
(Cái chai đựng những vật này). "Ces objets

étaient contenus dans la bouteille"(Những vật
này được đựng trong chai)
Vì vậy, cần phải phân tích những yếu tố
thường được sử dụng để định nghĩa dạng bị
động trong tiếng Pháp như hình thái học
động từ bị động, sự hoán đổi vị trí giữa chủ
ngữ và bổ ngữ trực tiếp, tiêu chí đồng nghĩa
giữ
a câu bị động và câu chủ động tương ứng,
vấn đề bổ ngữ chỉ tác nhân, hành động phải
chịu đựng. Đây sẽ là cơ sở để đề ra một số
tiêu chí để có thể giảm bớt khó khăn của việc
nhận diện dạng bị động của tiếng Pháp.
4.1.1. Vấn đề hình thái học động từ bị động
"Hình thái học động từ b
ị động"
(morphologie verbale passive) là một trong
những nội dung cơ bản trong các nghiên cứu
về dạng bị động tiếng Pháp. Hay nói cách
khác thì nét đặc trưng của dạng bị động, nếu
không muốn nói là duy nhất, là tổ hợp gồm
động từ "être" và phân từ quá khứ (être + PP),
trong đó động từ "être" được coi là trợ động
từ của dạng bị động. Thậm chí một số tác gi

như G. Mauger hay R. L. Wagner et J.
Pinchon còn nói "chia động từ ở dạng bị động"
(conjugaison passive) và để dạng bị động vào
bảng chia động từ.
Tuy nhiên, quan niệm này có những điều

bất cập. Trước tiên, để bảo đảm tính nhất
quán, người ta chỉ có thể nói về hình thái học
khi đề cập đến những sự thay đổi về hình
thức của một từ. Còn đối vớ
i những dạng
phức hợp của động từ, dù là chủ động hay bị
động thì, về mặt nguyên tắc, chúng phải
được xếp vào lĩnh vực cú pháp. Mặt khác,
nếu chỉ thuần tuý thay một động từ chủ động
bằng một động từ bị động, thì chưa đủ để
biến một câu chủ động thành một câu bị
động vì nếu không có sự thay đổi về ch
ủ ngữ
thì có khi giữa những câu thu được sẽ xuất
hiện một quan hệ trái nghĩa chứ không phải
là quan hệ đồng nghĩa:
- Le roi a chaleureusement salué le Premier
ministre.
- Le roi a été chaleureusement salué par le
Premier ministre.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng câu thứ
hai là một câu bị động nhờ vào ngữ động từ,
nhưng đó không phải là câu bị động của câu
thứ nhất. Như vậy ta có thể khẳng định rằng
nếu chỉ dự
a vào dạng thức của động từ
không thôi thì chưa đủ để chúng ta đem đối
lập một câu chủ động với một câu bị động.
4.1.2. Sự hoán đổi vị trí giữa chủ ngữ và bổ
ngữ của động từ

Sự khác nhau về vị trí của chủ thể hành
động và bổ ngữ chỉ đối tượng ở các câu bị
động và câu chủ động tương ứ
ng là một tiêu
chí cú pháp thường được sử dụng để xác
định câu bị động. Khi thì tiêu chí này được sử
dụng kết hợp với tiêu chí về hình thái, khi thì
nó được sử dụng như một đặc trưng cơ bản
duy nhất của dạng bị động (chẳng hạn như
trong quan niệm của J. Dubois [5]).
Hệ quả trực tiếp là dạng bị động không
chỉ là một hiện tượng củ
a động từ mà là một
hiện tượng của câu và nó đòi hỏi phải có một
sự liên hệ với một cấu trúc khác, đó là một
câu chủ động, có như vậy thì người ta mới có
thể nói đến sự hoán đổi vị trí của các yếu tố.
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

252
Tiêu chí về sự hoán đổi vị trí còn có một
hệ quả nữa là nó khiến những câu kiểu "Il a
été procédé à une enquête par la police" bị loại
khỏi danh sách cấu trúc bị động vì không có
câu chủ động tương ứng.
Như vậy tiêu chí về sự hoán đổi vị trí có
thể là cần thiết nhưng không nên hiểu nó theo
một cách cứng nhắc.
4.1.3. Vấn đề bổ ngữ chỉ tác nhân
Cho đến nay, hai giới từ thườ

ng được kể
đến nhiều nhất khi nói đến bổ ngữ chỉ tác
nhân đó là PAR và DE. Tuy nhiên, theo nhiều
tác giả thì còn có một số giới từ khác cũng
được sử dụng để đánh dấu bổ ngữ chỉ tác
nhân trong câu bị động như à, avec, entre,
dans. Song các dẫn chứng về khả năng đánh
dấu bổ ngữ chỉ tác nhân của các giới từ này
đều không có sức thuyế
t phục. Ví dụ như giới
từ "à" được kể đến như một giới từ được
dùng để đánh dấu bổ ngữ chỉ tác nhân.
Nhưng ngoài trường hợp "mangé aux mites,
aux vers, etc. - bị mối ăn" đã được M. Grévisse
[8] nêu ra trong cuốn Le Bon Usage thì hầu
như không có một ví dụ nào khác cho việc
dùng giới từ này trong thành phần bổ ngữ chỉ
tác nhân nữa. Vậy, chừng nào ch
ưa tìm được
câu bị động sử dụng giới từ "à", ngoài một số
câu "kinh điển" thì chừng đó chưa nên đưa
"à" vào danh sách các giới từ có thể được sử
dụng để dẫn nhập bổ ngữ chỉ tác nhân vào
trong cấu trúc bị động hoặc nếu có thì cũng
nên nói rõ rằng đây là một trường hợp ngoại
lệ, mang phong cách cá nhân.
Kết quả phân tích về mứ
c độ sử dụng hai
giới từ "par" và "de" cho thấy nhìn chung là
"par" được sử dụng nhiều hơn "de" để đánh

dấu bổ ngữ chỉ tác nhân. Khi nghiên cứu khả
năng phân bố của "par" và "de" trong từng
nhóm động từ như các động từ chỉ sự nhận
thức (connaître), chỉ sự tri giác (regarder), chỉ
sự đi kèm (accompagner), chỉ sự
trợ giúp
(aider), chỉ sự chấp nhận (accepter), chỉ thành
phần cấu tạo (composer), chỉ vị trí (précéder),
chỉ tình cảm (aimer) thì thấy nếu động từ chỉ
trạng thái thì cả hai giới này đều có thể được
dùng để đánh dấu bổ ngữ chỉ tác nhân nhưng
"par" có vẻ phổ biến hơn; nếu động từ chỉ
hành động thì "par
" được dùng phổ biến hơn,
đôi khi chỉ có giới từ này là được chấp nhận
(như trường hợp của các động từ adopter,
refuser, composer, former,…). Đối với những
động từ chỉ tình cảm như "aimer" chẳng hạn
thì chủ ngữ của câu bị động là nguồn thì giới
từ "de" lại phổ biến hơn, nhưng khi những
động từ này có mang ý nghĩa chỉ hành
động
thì bổ ngữ tác nhân lại phải đi sau "par".
4.1.4. Các kiểu cấu trúc bị động có mặt trong
ngữ liệu
Việc khảo sát ngữ liệu cho thấy: trong
tiếng Pháp, ý nghĩa bị động có thể được biểu
đạt bằng một cấu trúc đầy đủ nhưng cũng có
thể bằng một cấu trúc giản lược. Ở mức độ tối
thiểu, cấu trúc giả

n lược đó có thể là phân từ
quá khứ bị động mang các dấu hiệu về giống
số của danh từ mà nó bổ nghĩa; ở mức độ cao
nhất là câu bị động. Một cấu trúc bị động đầy
đủ bao gồm bốn thành tố: một chủ ngữ ngữ
pháp, động từ "être", một phân từ quá khứ, và
có thể một bổ ngữ gián tiếp hoặc mộ
t trạng
ngữ hay một bổ ngữ chỉ tác nhân, một yếu tố
có thể bị tỉnh lược. Các thành tố này có thể
được biểu thị trong mô hình sau :
PPR = SN
2 + être + PPP + par SN1
Trong đó PPR là mệnh đề bị động, par
SN1 là bổ ngữ chỉ tác nhân, SN2 là chủ ngữ
ngữ pháp, PPP là phân từ quá khứ bị động.
Từ công thức điển hình của dạng bị động
hoàn chỉnh này, trên thực tế, sự kết hợp của
các thành tố là rất đa dạng. Trong ngữ liệu có
các cấu trúc bị động sau :
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

253
FF1: "être + pp" không có tác thể
FF2: "être + pp + PAR + tác thể"
FF3: "être + pp + DE + tác thể"
FF4: Cấu trúc bị động có PP nhưng không
có động từ "être"
FF5: Cấu trúc bị động với động từ phản
thân

FF6: "se faire, se laisser + động từ nguyên
thể"
FF7: Cấu trúc bị động có cấu trúc vô nhân
xưng
Trong số các kiểu cấu trúc biểu đạt ý
nghĩa bị động này có những cấu trúc thường
xuyên được sử dụng, có những cấu trúc ít
được sử dụng hơ
n.
Trong tổng số 1.730 câu bị động tiếng
Pháp thống kê được trên ngữ liệu thuộc các
phong cách văn chương, hành chính công vụ,
khoa học, báo chí – công luận và sinh hoạt
hàng ngày, thì hai cấu trúc phổ biến nhất là
FF1 và FF4 với 1.281 câu, chiếm 75,35%.
Ngoài ra, việc so sánh tỷ lệ câu bị động có
trong ngữ liệu còn cho thấy thứ nhất là việc
sử dụng dạng bị động phụ thuộc vào lứa
tuổi, cụ thể là người l
ớn có xu hướng sử dụng
nhiều dạng bị động hơn là trẻ em; thứ hai là
ngay trong một phong cách, như phong cách
khoa học chẳng hạn, dạng bị động được sử
dụng trong ngôn ngữ viết (30,70%) nhiều hơn
là trong ngôn ngữ nói 6,04%).
Tỷ lệ các cấu trúc bị động trong ngữ liệu
Văn chương Hành chính công vụ Báo chí khoa học Sinh họat hàng ngày Tổng số/Tỷ lệ
FF1 120 19,67% 87 36,40% 310 35,92% 14 77,77% 531 30,69%
FF2 91 14,91% 42 17,57% 51 5,90% 1 5,55% 185 10,69%
FF3 10 1,63% 4 1,67% 9 1,04% 23 1,32%

FF4 290 47,54% 95 39,74% 363 41,83% 2 11,11% 750 43,35%
FF5 62 10,16% 4 1,67% 121 14,02% 1 5,55% 188 10,86%
FF6 22 3,60% 8 0,92% 30 1,73%
FF7 15 2,45% 7 2,92% 1 0,11% 23 1,33%
610 12,44% 239 69,47% 863 30,70% 18 3,55% 1.730
4.2. Dạng bị động nhìn từ phương diện ngữ nghĩa
4.2.1. Vấn đề đồng nghĩa giữa câu bị động và
câu chủ động
Thường thì các nhà nghiên cứu cho rằng
chỉ có thể kết luận một câu nào đó là bị động
nếu có một câu chủ động tương ứng với nó.
Tuy nhiên, ở một số trường hợp trong tiếng
Pháp, khó có thể biết đó là câu bị động hay
không vì có s
ự lẫn lộn giữa phân từ quá khứ
bị động với tính từ; ví dụ :
1 - L'enfant était lié/attaché à sa mère. (Đứa
bé bện/gắn bó với mẹ nó).
2 - On avait lié/attaché l'enfant à sa mère.
(Người ta đã buộc/trói đứa bé vào mẹ nó).
3 - L'enfant avait été lié/attaché à sa mère.
(Đứa bé đã bị buộc/trói vào mẹ nó).
Rõ ràng là giữa câu 1 và câu 2 không hề
có một sự đồng nghĩa nào: câu 1 không hề
mang ý nghĩa vật lý ("trói/buộc") của câu 2.
Nếu như chúng ta muốn giữ nguyên nội
dung thông tin về các mặt thờ
i - thể của câu 2
thì phải công nhận là chỉ có câu 3 là câu bị
động tương ứng của câu 2. Thực vậy, động từ

của câu 3 có mang ý nghĩa vật lý của động từ
ở câu 2.
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

254
Với tình trạng hiện tại, câu 1 chỉ có thể có
nghĩa tâm lý mà thôi. Mà theo nghĩa tâm lý
thì lié và attaché phải được coi là tính từ hơn
là một phân từ quá khứ và vấn đề không
tương ứng giữa câu chủ động với câu bị động
chỉ xảy ra khi, ngay từ đầu, câu 1 được coi là
câu bị động. Vấn đề thực sự ở đây là việc giải
thích nghĩa vật lý của câu 1 vì ngay cả khi nó
đượ
c coi như vậy thì cũng không có câu chủ
động tương ứng với nó tuy rằng cả "lié" và
"attaché" đều là phân từ quá khứ. Theo hướng
này thì câu 1 có vai trò biểu thị kết quả của
một hành động hơn là bản thân hành động.
Liệu câu này có thể được coi là câu bị động
hay không? Nếu có thì câu chủ động tương
ứng là câu nào?
Trong một số trường hợp, giữa hai câu
chủ động và bị động có một sự
tương xứng
trên phương diện hình thức nhưng không
tương xứng về thể (aspect). Vấn đề này nảy
sinh chủ yếu đối với trường hợp câu chủ
động có động từ ở dạng đơn giản (forme
simple): lúc này, sự việc được trình bày dưới

dạng chưa hoàn thành. Trong khi đó, câu bị
động tương ứng lại có một động từ ở dạng
phứ
c hợp (forme composée), ấy vậy mà dạng
này lại thường được coi như là để thể hiện
các sự việc đã kết thúc. Điều này lại càng
đúng đối với những câu bị động không có bổ
ngữ chỉ tác nhân hoặc bổ ngữ tình huống.
Chẳng hạn như rõ ràng là hai câu sau đây
không có chung một ý nghĩa :
- On ferme la porte (Người ta đóng cửa)
- La porte est fermée (Cửa đóng)
Sự đối lậ
p thể hoàn thành - thể không
hoàn thành có thể được mô tả như là sự đối
lập giữa một tiến trình với kết quả của tiến
trình đó. Như vậy là phải lựa chọn một trong
hai giải pháp đặt ra với câu "La porte est
fermée":
+ Nếu đây được coi là một câu bị động do
hình thức động từ thì hệ quả sẽ là không nhất
thiết phải có sự đồng nghĩa gi
ữa hai câu chủ
động và bị động;
+ Hoặc ngược lại, nếu sự đồng nghĩa là
một tiêu chí để định nghĩa cho dạng bị động
thì đây không phải là câu bị động.
Đôi khi, sự xuất hiện của các từ chỉ lượng
có thể phá vỡ sự đồng nghĩa giữa câu chủ
động và bị động tương ứng. Ví dụ "Marie n'a

pas invité beaucoup d'amis" (1) và "Beaucoup
d'amis n'ont pas été invités par Marie" (2). Câu
(1) cho bi
ết là Marie đã mời ít bạn bè. Câu (2)
chỉ cho biết là nhiều bạn bè không được mời,
chứ không cho biết là Marie đã mời nhiều
hay ít bạn.
4.2.2. Vấn đề "hành động phải chịu đựng"
Tiêu chí "hành động phải chịu đựng" đòi hỏi
câu bị động phải có một động từ thể hiện
hành động. Tuy nhiên, trên thực tế, động từ
của rất nhiều câu bị độ
ng "truyền thống"
không thể hiện hành động. "Subir" là một
động từ tiêu biểu cho những động từ không
thể hiện hành động nhưng vẫn xuất hiện
trong câu bị động. Hiện tượng tương tự cũng
xảy ra với nhiều động từ khác, những động
từ được coi là để miêu tả trạng thái như
"devoir, contenir, posséder".
Nhìn chung quan niệm về câu bị động
dựa trên tiêu chí ng
ữ nghĩa này là không chặt
chẽ, nó làm nảy sinh ra quá nhiều vấn đề khi
phải xác định một cách chính xác cái gọi là
dạng bị động.
4.2.3. Bị thể bị biến đổi
"Bị thể bị biến đổi" là một tiêu chí ngữ
nghĩa khác cũng thường được đề cập đến khi
người ta bàn về dạng bị động, đó là chủ ngữ

trong câu bị động bị biế
n đổi do tác động của
hành động. Tuy nhiên những động từ như
"aimer" được dùng ở dạng bị động thì khó có
thể nói là chủ ngữ bị động bị biến đổi do tác
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

255
động của hành động, vì chủ ngữ đó là nguồn
của trạng thái tâm lý.
Với những phân tích trên đây, dạng bị
động được định nghĩa như sau: "Trong tiếng
Pháp, dạng bị động được cấu tạo bằng một phân
từ quá khứ mà chủ ngữ không phải là chủ thể
hành động và có thể được kết nối với chủ ngữ
bằng động từ "être" mang nội dung ý ngh
ĩa thời-
thể." Định nghĩa này có thể giúp giải quyết
được những vấn đề bất cập đã được nêu ra
trên đây.
Tóm lại, việc một động từ ngoại động trực
tiếp có thể dùng được ở dạng bị động hay
không phải được xét trong một phạm vi lớn
hơn, chứ không phải riêng trong bản thân
động từ. Nhiều khi, khả năng này có thể đượ
c
lý giải bằng "sự tương hợp ngữ nghĩa" giữa
động từ, chủ ngữ và bổ ngữ, tức là trên bình
diện toàn câu.
5. Việc diễn đạt ý nghĩa bị động trong tiếng

Việt
Ở tiếng Việt, bị động là một trong những
vấn đề đã được bàn đến khá nhiều nhưng cho
đến nay vẫn chưa có quan niệm thống nhất:
có quan niệm cho rằng ti
ếng Việt không có
cấu trúc bị động, ngược lại có quan niệm cho
rằng tiếng Việt có cấu trúc bị động. Tuy nhiên
cả hai trường phái đều công nhận rằng tiếng
Việt có những phương tiện cần thiết để biểu
đạt ý nghĩa bị động? Tác giả Nguyễn Minh
Thuyết [9] lập luận: do tiếng Việt khác hẳn
các ngôn ngữ Ấn-Âu về nguồn gốc cũng như

loại hình nên các phạm trù ngữ pháp: giống,
cách, ngôi, thời, thức, dạng vốn là đặc tính
của các ngôn ngữ này không thể xuất hiện
trong tiếng Việt. Tác giả này cho rằng tiếng
Việt diễn đạt ý nghĩa bị động bằng phương
tiện từ vựng là các động từ bị và được.
Nguyễn Kim Thản [10], tr.205] khẳng định:
"Tuy không dùng hư từ để biểu thị dạng bị
động
nhưng tiếng Việt lại dùng cấu trúc cú pháp để
biểu thị ý nghĩa bị động". Về phương tiện đánh
dấu lối nói tiếp thụ - bị động, trong bài viết:
"Quá trình hình thành thế đối lập giữa ba từ
"được, bị, phải”, Nguyễn Tài Cẩn đã khẳng
định rằng “[ ] ngay từ bây giờ - không cần phải
chứng minh gì thêm - cũng đã có thể kế

t luận
được rằng đó là ba từ: - Thứ nhất, dùng để diễn
đạt ý nghĩa tiếp thụ; - Thứ hai, dùng để diễn đạt ý
nghĩa tình thái.” [11]. Trong cuốn “Ngữ pháp
tiếng Việt - từ loại”, Đinh Văn Đức cho rằng:
“Trong số các động từ tiếng Việt có một nhóm
những động từ kiểu như: cần, muốn, có thể, toan,
định, dám, bị, được rõ ràng là những động t

trống nghĩa. Ở chúng các ý nghĩa từ vựng là rất
ít, chúng đã được ngữ pháp hoá nhưng lại chưa
trở thành những từ thực sự, những động từ này
có nội hàm rất hẹp nên ngoại diên phải rộng
Trong khi diễn đạt các ý nghĩa: yêu cầu (cần), khả
năng (có thể), ý định (toan, định, dám), nguyện
vọng (mong, muốn), quan hệ bị động (bị, được)
các độ
ng từ này được sử dụng hoàn toàn theo
cách đánh giá của người nói đối với thực tại. Đó
là một quan hệ thể hiện nhận thức chủ quan: khi
ta nói: "Tôi được khen" hay "Tôi bị phạt" thì các
từ "được" "bị", một mặt là phương tiện diễn đạt
ý nghĩa ngữ pháp bị động nhưng bị động ở đây có
thể được hiểu theo sắc thái "may" hay "rủi", mà
"may" hay "rủi" là theo nhậ
n thức và đánh giá
của người nói- do đó bị và được cũng lâm thời trở
thành những từ tình thái ” [12], tr.139].
Các tác giả Nguyễn Hồng Cổn và Bùi Thị
Diên [13] cũng cho rằng: "[…] trong các ngôn

ngữ phân tích tính điển hình như tiếng Việt, ý
nghĩa bị động chủ yếu được biểu hiện bằng hư từ
và trật tự từ, và bị động có dáng dấp của một
phạm trù thu
ần tuý cú pháp. Từ cách nhìn đó,
chúng tôi cho rằng mặc dù trong tiếng Việt không
tồn tại dạng bị động với tư cách là một phạm trù
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

256
hình thái học thuần tuý, nhưng ý nghĩa bị động
với tư cách là một loại ý nghĩa ngữ pháp (đối lập
với ý nghĩa chủ động - ngoại động) vẫn được biểu
hiện bằng các phương tiện ngữ pháp nhất định là
hư từ và trật tự từ, và vì vậy tiếng Việt vẫn có các
cấu trúc bị động và câu bị động".
Tóm lại, có thể khẳ
ng định rằng tiếng Việt
có cấu trúc thể hiện ý nghĩa bị động được đặt
trong tương ứng với cấu trúc chủ động và có
những đặc điểm sau:
5.1. Về ngữ nghĩa
- Chủ ngữ trong câu chủ động tương ứng
luôn ở vai tác thể (chủ thể hành động).
- Còn chủ ngữ trong câu thể hiện ý nghĩa
bị động có vai nghĩa điển hình nh
ất là bị thể
(đối tượng của hành động).
Ví dụ:
Câu chủ động Câu bị động

Ba đánh Nam. Nam bị Ba đánh.
Gió lay đổ bụi cây. Bụi cây bị gió lay đổ.
5.2. Về cấu trúc hình thức
Câu thể hiện ý nghĩa bị động trong tiếng
Việt có cấu trúc hình thức như sau :
- Chủ ngữ: chủ ngữ của câu thể hiện ý
nghĩa bị động chính là bổ ngữ trực tiếp của
câu chủ động tương ứng.
Ví dụ:
Câu chủ động Câu bị động
Thầy giáo phạt học sinh. Học sinh bị thầy giáo phạt.
- Động từ: trong câu thể hiện ý nghĩa bị
động, động từ chính là tổ hợp của một trong
hai từ bị, được với ngoại động từ tương ứng
trong câu chủ động.
Câu chủ động Câu bị động
Thầy giáo phạt học sinh. Học sinh bị thầy giáo phạt.
- Bổ ngữ chỉ tác nhân: bổ ngữ chỉ tác
nhân của câu thể hiện ý nghĩa bị động chính
là chủ ngữ trong câu chủ động tương ứng và
có thể bị lược bỏ, điều này hoàn toàn trùng
hợp với bản chất của câu bị động của các
ngôn ngữ phương Tây.
Câu chủ động Câu bị động
Thầy giáo phạt học sinh. Học sinh bị phạt.
- Trong cấu trúc của một số câu thể hiện ý
nghĩa bị động của tiếng Việt, có xuất hiện từ
“bởi”. Từ này nếu xuất hiện thì sẽ đứng giữa
động từ và bổ ngữ chỉ tác nhân.
Ví dụ:

Câu chủ động Câu bị động
Thầy giáo phạt học sinh. Học sinh bị phạt bởi thầy giáo.
Tuy nhiên kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ
xuất hiện của “bởi” rất thấp (0,46%). Điều đó
cho thấy rằng cách diễn đạt ý nghĩa bị động
với sự tham gia của từ "bởi" này hiện nay
chưa phải là phổ biến lắm, đây không phải là
một cấu trúc cơ bản trong tiếng Việt. Vả lại,
lối nói này vẫn còn b
ị nhiều nhà nghiên cứu
phê bình, cho đó không phải là tiếng Việt hay
là lối diễn đạt tiếng Việt rập khuôn theo các
ngôn ngữ châu Âu. Nhưng chắc chắn nó có
ảnh hưởng đến văn phong của giới trẻ vì nó
liên tục xuất hiện trên vô tuyến, ở các chương
trình ca nhạc “MTV I like”, “Ở nhà chủ nhật”
và các câu giới thiệu nhà tài trợ cho các
chương trình phim truyện, sách báo
5.3. Cấu trúc bị động hiện có trong tiếng Việt
Trong thời đại mở cửa nền kinh tế, hội
nhập quốc tế, với các hoạt động chuyển giao
công nghệ thì việc sử dụng các cấu trúc bị
động như hiện nay là một tất yếu khách
quan, và chắc chắn là số lượng câu bị động sẽ
ngày càng tăng trong tiếng Việt. Quá trình thu
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

257
thập tư liệu, trên 101 bài báo cũng như báo
cáo khoa học, đã cho phép thống kê được tất

cả là 2.634 câu trong đó có 425 câu thể hiện ý
nghĩa bị động. Có thể chia các cấu trúc bị động
trong ngữ liệu theo các loại cơ bản như sau:
VF1: SN
2 + được + V
VF2: SN
2 + được + SN1 + V
VF3: SN
2 + bị + V
VF4: SN
2 + bị + SN1 + V
VF5: SN
2 + được + V + bởi + SN1
VF6: SN
2 + bị + V + bởi + SN1
VF7: khuyết thiếu "bị/được"
Tỷ lệ cấu trúc bị động trong ngữ liệu tiếng Việt
Tổng số cấu trúc bị động/tổng số câu VF1 VF2 VF3 VF4 VF5 VF6 VF7
425/2634 268 41 55 12 7 2 40
16,13% 63,05% 9,64% 12,94% 2,82% 1,64% 0,47% 9,41%
309 (72,70%) 67 (15,76%) 9 (2,11%)
376 (88,47%)
VF2 + VF4 = 53 (12,47%)

Như vậy có thể nói rằng trong tiếng Việt,
ý nghĩa bị động được thể hiện thông qua các
câu có cấu trúc cơ bản như sau :
bị thể + bị/ được + tác thể + động từ
Hoặc
bị thể + bị/ được + động từ + bởi + tác thể

Trong các câu có cấu trúc kiểu này đã thu
thập được thì chủ thể hành động (tác thể) sẽ
đảm đương vai trò bổ ngữ chỉ tác nhân và có
thể xuất hiện ở hai vị trí:
Vị trí thứ nhất là: đứng ngay sau từ. Đó là
các cấu trúc F2 và F4 (53 câu chiếm 12,47%
tổng số câu bị động). Trong trường hợp này
không có giới từ “bởi”. Ví dụ : "Quá trình biên
soạn chương trình SGK mới được Bộ triển khai
một cách tích cực và khẩn trương".
Vị trí thứ hai là: đứng ở cuối câu, sau giới
từ “bởi”: "Bí mật hạt nhân bị rò rỉ bởi virus máy
tính". Loại câu này khá giống với cấu trúc câu
bị động trong các thứ tiếng Anh, Pháp và
thường bị các nhà nghiên cứu cho là loại câu
tiếng Việt bị Tây hoá. Thực vậy, loại câu này
không phổ biến lắm so với loại câu có bổ ngữ
chỉ tác nhân đứng ngay sau từ bị hoặc được:
chỉ có 9 trong tổng số 425 câu, tức là chỉ
chiếm 2,11%.
5.4. Cấu trúc bị động có sự xuất hiện của từ "do"
Mặc dù hầu hết các tác giả nói về vấn đề
vấn đề biểu đạt ý nghĩa bị động trong tiếng
Việt đều không nói đến từ "do", việc khảo sát
ngữ liệu vẫn cung c
ấp một loạt cấu trúc thể
hiện ý nghĩa bị động có sự xuất hiện của từ
"do". Theo các tác giả Nguyễn Kim Thản và
Nguyễn Phú Phong [14], p.95] thì (N
2 + do +

N
1 + V) là một cấu trúc bị động. Vả lại, theo
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học,
2000, do - "2. Biểu thị điều sắp nêu ra là chủ thể
hoạt động tạo ra hoặc tác động quyết định đến cái
vừa nói đến.". Trong ngữ liệu của bài viết có 15
câu thể hiện ý nghĩa bị động có sự xuất hiện
của t
ừ “do”. Nếu những cấu trúc này được coi
là bị động thì tổng số cấu trúc bị động trong
ngữ liệu sẽ là 440 và tỷ lệ của cấu trúc này sẽ
là 3,40%, cao hơn tỷ lệ cấu trúc bị động có bởi
(9/440 câu, 2,04%). Cấu trúc này có mô hình sau:
bị thể + do + tác thể + động từ
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

258
6. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động tiếng
Pháp sang tiếng Việt
Cách các học giả có uy tín chuyển dịch
dạng bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt là
những kinh nghiệm quý báu cho những ai
phải làm công tác dịch thuật. Chính vì vậy,
cách chuyển dịch dạng bị động trong tác
phẩm Miếng da lừa của nhà văn người Pháp
Honoré de Balzac của các dịch giả có uy tín là
Nguyễn Văn Vĩnh [15] (nă
m 1928) và Đỗ Đức
Dục [15] (năm 1973), và cách chuyển dịch
dạng bị động có trong bản Hiến Pháp Cộng

hòa Pháp năm 1958 [16] đã được dùng làm
căn cứ cho việc khảo sát này.
6.1. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động trong tác
phẩm Miếng da lừa

6.1.1. Bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh
Theo số liệu thống kê, trong tác phẩm
Miếng da lừa bằng tiếng Pháp có 603 cấu trúc
bị động. Nhưng vì bản dịch của Nguyễn Văn
Vĩnh hiện được lưu trữ ở Thư viện Quốc gia
Việt Nam, đã bị hư hỏng nhiều nên việc so
sánh chỉ dựa trên những trang bản dịch còn
đọc được. Trong phầ
n tài liệu bằng tiếng
Pháp tương ứng với phần bản dịch còn đọc
được có 356 câu có cấu trúc bị động. Chỉ 39
trong tổng số 356 câu này là được chuyển
thành một câu có cấu trúc bị động trong bản
dịch của Nguyễn Văn Vĩnh, chỉ bằng 10,95%
số lượng câu có cấu trúc bị động của bản gốc.
Trong 39 câu có cấu trúc bị động trong bản
dịch, 17 câu có sự xuất hiệ
n của "bị/được/phải":
il courait avec la prestesse d’un voleur pris en
flagrant délit [15, p.92]
(Anh ta chạy như thằng ăn cắp bị đuổi vậy.)
và 22 câu không có sự xuất hiện của hai từ này:
La peine de mort va, dit - on, être abolie en
faveur de la révolutionde juillet… [15, p.113]
(Tôi nghe Tử - hình sắp bỏ, vì việc cách mệnh

tháng bảy mới rồi.)
Như vậy, ở dịch giả này, phần lớn câu có
cấu trúc bị động của bản gốc đã được chuyển
d
ịch thành câu có cấu trúc chủ động trong
tiếng Việt. Trong số câu có cấu trúc bị động
trong bản dịch thì loại cấu trúc không có
"bị/được" lại chiếm ưu thế. Lý do có thể là vào
thời kỳ này, tiếng Việt mới chỉ tiếp xúc chủ
yếu là với tiếng Pháp, còn tiếp xúc với các thứ
tiếng khác thì vẫn rất hạn chế. Mặt khác, có
thể là vào thời kỳ đó, người Vi
ệt Nam chưa
có thói quen diễn đạt bằng các cấu trúc bị
động. Đây cũng có thể là một nguyên nhân
đã khiến cho các nhà nghiên cứu tiếng Việt
thời kỳ đầu thế kỷ 20 đã đưa ra những nhận
xét cho rằng người Việt Nam "ghét lối nói này".
6.1.2. Bản dịch của Đỗ Đức Dục
Việc khảo sát trên bản dịch của Đỗ Đức
Dục cho thấy: 173/356 (48,59%) câu có cấu
trúc bị
động của bản gốc đã được chuyển
sang tiếng Việt bằng câu có cấu trúc bị động.
Trong số 173 câu tiếng Việt có cấu trúc bị
động này, có 128 câu có sự xuất hiện của hai
từ "được/bị", không câu nào có từ "phải".
Điểm khác biệt lớn nhất trong cách biểu đạt ý
nghĩa bị động ở hai bản dịch này là số lượng
câu có cấu trúc bị động ở bản d

ịch của Đỗ
Đức Dục nhiều gấp gần 4,5 lần so với bản
dịch của Nguyễn Văn Vĩnh (39/173). Có
nhiều câu có cấu trúc bị động trong bản gốc
đã được chuyển thành câu chủ động trong
bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh và thành một
câu có cấu trúc bị động trong bản dịch của Đỗ
Đức Dục. Việc chuyển dịch câu sau đây là
một ví d
ụ:
Puis le lendemain, brisé comme un cheval
d’escadon par mon père… [16, p.129].
Cứ hôm nay được đi chơi thì ngày mai lại
phải đóng đủ yên cương đai khấu như là con ngựa
của thầy đội kỵ-mã (Nguyễn Văn Vĩnh).
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

259
Rồi hôm sau lại bị cha tôi kiềm chế như con
ngựa nhà binh bị đóng cương (Đỗ Đức Dục).
Nhận xét thứ hai nếu như trong số 39 câu
có cấu trúc bị động trong bản dịch của
Nguyễn Văn Vĩnh chỉ có 17 câu có sự tham
gia của "bị/được/phải" (43,58%) thì trong bản
dịch của Đỗ Đức Dục, tỷ lệ này là 128/173 câu
(73,98%). Sự khác biệt này có thể được gi
ải
thích bằng việc các dịch giả luôn luôn phải
lựa chọn các biện pháp tu từ để có thể có cách
diễn đạt gần với thói quen tiếp nhận ngôn

ngữ của người đọc, nên có thể coi hai bản
dịch này như là những tấm gương phản
chiếu xu hướng gia tăng của việc sử dụng cấu
trúc bị động của người Việt Nam. Nhận xét
thứ ba là Nguyễn Vă
n Vĩnh có dùng từ "phải"
trong các cấu trúc bị động nhưng từ này
không xuất hiện trong các cấu trúc bị động
của Đỗ Đức Dục. Và điều này cũng trùng hợp
với xu hướng sử dụng từ "phải" để thể hiện ý
nghĩa bị động trong tiếng Việt.
6.2. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động trong Hiến
pháp CH Pháp 1958
Trong bản Hiến pháp CH Pháp 1958 có cả
thảy là 344 câu, trong đó có 219 câu có cấu
trúc bị động, chiếm 63,66%. Khi khảo sát trên
bản dịch của Nhà pháp luật Việt - Pháp,
chúng tôi thấy có 159 câu có cấu trúc bị động.
Như vậy là số câu có cấu trúc bị động trong
bản dịch bằng 72,60% số câu có cấu trúc bị
động trong bản gốc. Nếu chúng ta không tính
đến đặc thù phong cách chức năng thì chúng
ta lại thấy xu hướng gia tăng của việc sử
dụng cấu trúc bị độ
ng trong tiếng Việt. Thật
vậy, ở bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh vừa
xét trên đây, số câu có cấu trúc bị động mới
chỉ là 10,95%, sang đến bản dịch của Đỗ Đức
Dục thì tỷ lệ này đã là 48,59% và đến bản dịch
của Nhà pháp luật Việt - Pháp thì tỷ lệ này

lên tới 72,60%. Tuy sự so sánh này là khập
khiễng vì trên hai loại phong cách khác nhau,
nhưng nó cũng phần nào cho thấy xu h
ướng
vận động của tiếng Việt trong quá trình tiếp
xúc với các ngôn ngữ khác trên thế giới.
6.3. Bàn luận
Các kết quả so sánh và phân tích trên đây
cho thấy những nét tương đồng và dị biệt
giữa hai ngôn ngữ Pháp và Việt trong cách
biểu đạt ý nghĩa bị động.
Về mặt hình thức, trong dạng bị động của
tiếng Pháp và trong lối nói bị động của tiếng
Việt, chủ thể hành
động (tác thể) không giữ
vai trò chủ ngữ của câu, trong khi đó thì đối
tượng của hành động (bị thể) lại đảm nhận
vai trò này. Thứ hai, 75% bổ ngữ chỉ tác nhân
bị tỉnh lược trong tổng số câu bị động tiếng
Pháp thống kê được và 74,59% trong tiếng
Việt. Đôi khi, trong cả hai thứ tiếng, ngay cả
đối tượng của hành động cũng bị tỉnh lược.
Khi từ "bở
i" được dùng để đánh dấu chủ thể
hành động thì nó trùng hợp với các giới từ
PAR hoặc DE của tiếng Pháp, và rất có thể
đây là kết quả của thao tác chuyển dịch từ
một số tiếng nước ngoài, như tiếng Anh hoặc
tiếng Pháp sang tiếng Việt. Tuy nhiên, cách
diễn đạt này đang có chiều hướng gia tăng,

đáp ứng nhu cầu nhấn mạnh vai trò chủ thể

hành động.
Về mặt chức năng và ý nghĩa, trong cả hai
thứ tiếng, cấu trúc bị động được dùng để
hướng sự chú ý của người tiếp nhận thông tin
vào bị thể. Trong cả hai thứ tiếng, cấu trúc bị
động đều được dùng khá phổ biến trong các
ngôn ngữ thuộc phong cách hành chính -
công vụ, báo chí và khoa học để thể hiện tính
khách quan của thông tin cũng là một nét
chung đáng quan tâm.
Nét khác biệt nổi b
ật giữa hai ngôn ngữ
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

260
này là sự biến đổi của động từ trong tiếng
Pháp, trong khi động từ không hề thay đổi
trong tiếng Việt ngoại trừ việc chèn thêm các
từ "bị/được" vào phía trước động từ trong câu
bị động, và đôi khi các từ này cũng vắng nốt.
Nét khác biệt thứ hai về mặt hình thức là vị
trí của bổ ngữ chỉ tác nhân khi nó xuất hiện
trong các cấu trúc bị động của ti
ếng Pháp và
tiếng Việt: trong tiếng Pháp, nó hay đứng sau
quá khứ phân từ, còn trong tiếng Việt thì nó
hay đứng sau đối tượng và trước động từ.
Nét khác biệt đáng quan tâm hơn cả đó là

dạng bị động tiếng Pháp không thể hiện nhận
định của người nói về ảnh hưởng của tác
động lên đích thể, còn trong tiếng Việt thì các
hư từ bị/được vừa đánh dấu cấ
u trúc bị động
vừa mang ý nghĩa tình thái "tích cực/tiêu cực",
thể hiện sự đánh giá của người nói về ảnh
hưởng của tác động lên đích thể. Vì vậy khi
dịch Pháp - Việt cần phải biết rõ tác giả có ý
định đánh giá hay không để lựa chọn giữa
"bị/được" hoặc "do"; còn khi dịch Việt - Pháp,
nếu có sự đánh giá của người nói thì việc sử
dụng dạ
ng bị động tiếng Pháp còn phải được
kết hợp với các biện pháp từ vựng khác nữa.
Ngoài ra, như nhận xét của một số nhà ngôn
ngữ, người Việt Nam ít dùng câu bị động.
Trong một bài giảng bằng tiếng "Mouvements
moléculaires et niveaux d'énergie - Méthode laser
pour la phase gazeuse" có tới 229 cấu trúc bị
động, còn trong bản dịch sang tiếng Việt chỉ
còn 125 câu thuộc lối nói tiếp thụ - bị động.
Có nghĩa là nhiều cấu trúc bị độ
ng của tiếng
Pháp đã được dịch sang lối nói chủ động
trong tiếng Việt.
Như vậy, trong quá trình dạy dạng bị
động của tiếng Pháp cho người Việt Nam,
chúng ta cần chú ý đến việc liên hệ, so sánh
để giúp người học có thể nắm được những

nét tương đồng và dị biệt giữa hai ngôn ngữ
để có thể sử dụng dạng bị động của tiếng
Pháp một cách t
ự nhiên hơn và cũng tránh
được những giao thoa ngôn ngữ không đáng
có trong quá trình dịch thuật để góp phần gìn
giữ vốn ngôn ngữ của dân tộc.
7. Kết luận
Tóm lại, việc nghiên cứu trên lý thuyết
cũng như khảo sát ngữ liệu cho thấy ở cả hai
ngôn ngữ Pháp và Việt đều có những phương
tiện biểu đạt ý nghĩa bị động với những đặc
thù riêng của mỗi ngôn ngữ
. Nếu như trong
tiếng Pháp việc thể hiện ý nghĩa bị động
tương đối phổ biến thì trong tiếng Việt cách
làm này ít phổ biến hơn. Tuy nhiên, qua khảo
sát trên các tài liệu dịch cũng như trong các
thể loại văn bản khác nhau, ta thấy rằng việc
sử dụng các cấu trúc để biểu đạt ý nghĩa bị
động đang có xu hướng gia tăng trong tiếng
Việt và đi kèm với xu hướ
ng này là sự xuất
hiện của một số cấu trúc mới trong tiếng Việt
được dùng để thể hiện kiểu ý nghĩa này.
Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là do
ảnh hưởng của giao thoa ngôn ngữ qua tiếp
xúc và dịch thuật. Một trong những biện
pháp có thể giảm bớt khó khăn của người
Việt Nam học tiếng Pháp khi phải sử dụng

dạng bị động là tăng cường vi
ệc hướng dẫn
người học chủ động so sánh đối chiếu dạng
bị động tiếng Pháp với lối nói tiếp thụ - bị
động tiếng Việt.
Tài liệu tham khảo
[1] G. Mauger, Grammaire pratique du français
d'aujourd'hui, Librairie Hachette, Paris, 1968.
[2] N. Chomsky, Structures syntaxiques, Traduction
publiée aux Editions du Seuil, Paris, 1957.
[3] Ch. N. Li, S. A. Thompson,"Subject and Topic: a
new typology of Language", Subject and Topic,
Academic, New York, 1976.
Đinh Hồng Vân / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 23 (2007) 247-261

261
[4] R. L. Wagner, J. Pinchon, Grammaire du français –
Classique et moderne, Hachette Université (1980),
Paris, 1962.
[5] J. Dubois, Grammaire structurale du français: le
verbe, Larousse, Paris, 1967.
[6] E. A. Referovskaia, A.K. Vassilieva, Essai de
grammaire français - Cours théorique, Léningrad,
1973.
[7] M. Riegel, J.Ch. Pellat, R. Rioul, Grammaire
méthodique du français, PUF - Linguistique
Nouvelle, Paris, 1996.
[8] M. Grevisse, Le Bon Usage, Treizième édition,
Duculot, Paris, 1993.
[9] Nguyễn Minh Thuyết, "Vai trò của được, bị

trong câu bị động tiếng Việt", Những vấn đề các
ngôn ngữ Phương Đông, Viện ngôn ngữ học, Hà
Nội, 1986, tr.204-207.
[10] Nguyễn Kim Thản, Động từ trong tiếng Việt, NXB
KHXH, Hà Nộ
i, 1977.
[11] Nguyễn Tài Cẩn, "Quá trình hình thành thế đối
lập giữa ba từ "Bị, được, phải", Ngôn ngữ, Số 2,
1978, tr.20.
[12] Đinh Văn Đức, Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1986.
[13] Nguyễn Hồng Cổn, Bùi Thị Diên, "Dạng bị động
và vấn đề câu bị động trong tiếng Việt", Tạp chí
Ngôn ngữ, Số 7, 2004, tr.1.
[14]
Nguyễn Phú Phong, Le syntagme verbal en
vietnamien, Mouton, Paris, 1976.
[15] H.De. Balzac, Miếng da lừa, Người dịch: Nguyễn
Văn Vĩnh, NXB Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1928.
[16] H.De. Banzăc, Miếng da lừa, Người dịch: Đỗ Đức
Dục, NXB Văn học, Hà Nội, 1973.
[17] Nhà pháp luật Việt-Pháp, Hiến pháp Cộng hòa
Pháp 1958, Hà Nội, 2003.
Expression of passive meaning in French and Vietnamese
Dinh Hong Van
Department of French Language and Culture, College of Foreign Languages, VNU,
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam


The results of theoretical research and survey of linguistic materials show that there are

means to convey the passive meaning in both languages - French and Vietnamese, each of which
has its own characteristics. In French, the presentation of passive meaning is more common than
that in Vietnamese. However, the mode of expressing the passive, or in other words, the use of
syntactic structures to indicate the passive meaning tends to increase in Vietnamese. Going along
with it is the appearance of some new structures used to express the passive meaning. The reason
could be the cross-linguistic interference through communication and translation. One among
possible solutions to reduce difficulties for Vietnamese learners learning French is to teach them
to be active in comparing and contrasting the passive voice in French with the equivalent mode
in Vietnamese.

×