Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Đề tài: Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK Ngân hàng Công thương pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.76 KB, 82 trang )

Lời mở đầu
Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu của mỗi dân tộc mỗi đất nước phải trải qua. Để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân ở nước ta, cần giải quyết đồng bộ
nhiều vấn đề quan trọng. Trong đó vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá.
Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế chính sách và biện pháp huy động được nhiều
vốn nhất và sử dụng vốn có hiệu quả.
Một trong những biện pháp thực hiện huy động mọi nguồn vốn có thể huy động được khơi động
mọi nguồn vốn trong nước, khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút một nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu
tư, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, đó là TTCK.
Đối với chúng ta, đây là vấn đề mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy để có một TTCK hợp lý,
đem lại hiệu quả cao đòi hỏi chúng ta có nhận thức và quan điểm đúng đắn về vấn đề này.
Nhằm góp phần vào lĩnh vực phát triển của TTCK của Việt Nam. Em chọn chuyên đề tốt nghiệp
với đề tài là: " Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK
Ngân hàng Công thương”.
Chương I
Những lý luận chung về công ty chứng khoán
và các hoạt động kinh doanh của công ty
1.1. Tổng quan về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK. ở
Việt Nam theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK 3 ngày 13/10/1998 của Uỷ ban chứng khoán nhà nướccông
ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Uỷ ban chứng
khoán nhà nướccấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ
công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
TTCK nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành đến
người đầu tư và tạo cho chứng khoán có tính thanh toán cao. Thông qua đó để huy động nguồn vốn từ nơi
nhàn rỗi để phân bố vào nơi sử dụng có hiệu quả. Do đó chúng ta có thể nói chức năng nhiệm vụ của công
ty chứng khoán như sau:
- Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến người sử dụng vốn (thông
qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành)


1
- Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp lệnh hoặc khớp giá)
- Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán (khoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt một cách
dễ dàng)
- Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh đóng vai trò nhà tạo lập
thương trường)
1.1.3. Vai trò
Các công ty chứng khoán có một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế cũng như trong hoạt
động chứng khoán hay nói cách khác, các công ty chứng khoán có vai trò hết sức quan trọng đối với những
chủ thể khác nhau trên TTCK
* Đối với tổ chức phát hành:
Mục tiêu tham gia vào TTCK của công ty phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành
các chứng khoán vì vậy thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các công ty chứng
khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành.
* Đối với nhà đầu tư:
Thông qua hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư công ty chứng khoán
có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng
hoá thông thường mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên đối
với TTCK sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho
những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư.
Nhưng thông qua các công ty chứng khoán với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp, sẽ giúp các
nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả.* Đối với TTCK
Đối với TTCK , công ty chứng khoán thể hiện hai vai trò chính:
(1) Góp phần tạo lập giá cả điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định.
Tuy nhiên để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các công ty chứng khoán
vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Cáac công ty chứng khoán là những thành
viên của thị trường, do đó họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ
cấp, các công ty chứng khoán cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá cả của
mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá các các công ty chứng khoán
Các công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ

những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều công ty chứng khoán đã dành
một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
2) Góp phần làm tăng tính thanh khoán của các tài sản tài chính, TTCK có vai trò là môi trường làm
tăng tính thanh khoán của các tài sản tài chính. Nhưng các công ty chứng khoán mới tạo ra cơ chế trao đổi
trên thị trường. Trên thị trường cấp 1 do cải thiện các hoạtđộng như bảo lãnh, phát hành chứng khoán hoá,
các công ty chứng khoán không những huy động được một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho
nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoán của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán
qua đợt phát hành sẽ được mua bán trao đổi trên thị trường trên thị trường cấp 2.
2
Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư. Trên thị trường cấp 2, do thực hiện các
giao dịch mua và bán các công ty chứng khoán giúp nhà đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và
ngược lại. Những hoạt động có thể làm tăng tính thanh khoán của những tài sản tài chính.
3). Đối với cơ quan quản lý thị trường: Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về TTCK
cho các cơ quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó. Các công ty chứng khoán thực hiện được vai
trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành các chứng khoán mở, vừa là trung gian mua bán chứng
khoán và thực hiện giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK là các thông tin cần phải
được công khai hoá dưới sự giám sát của các tài chính, cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin
vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các công ty chứng khoán vì
công ty chứng khoán có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin
về các cổ phiếu, trái phiếu và tài chính phát hành thông tin về các nhà đầu tư…Nhờ các thông tin này, các
cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị
trường.
Tóm lại, công ty chứng khoán là một tài chính chuyên nghiệp trên TTCK, các nhà phát hành đối với
cơ quan quản lý thị trường và đối với TTCK nói chung.
1.1.4 Mô hình hoạt động của công ty chứng khoán
Hiện nay, có ba loại hình tài chính cơ bản của công ty chứng khoán, đó là: công ty hợp doanh, công ty
TNHH, công ty cổ phần:
a. Công ty hợp doanh
- Là loại hình kinh doanh có từ 2 chủ sở hữu trở lên
- Thành viên của công ty chứng khoán hợp doanh bao gồm: thành viên góp vốn và thành viên hợp

doanh. Các thành viên hợp doanh chịu trách nhiệm vô hạn bằng tài sản của mình về các nghĩa vụ của công
ty. Các thành viên góp vốn không tham gia vào điều hành công ty họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong
phần vốn góp của mình đối với những khoản nợ của công ty.
* Công ty hợp doanh thông thường không được phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào.
b. Công ty cổ phần:
* Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu các công ty là các cổ đông.
* Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số
vốn đã góp vào doanh nghiệp
* Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra công chúng theo quy
định của pháp luật về chứng khoán hiện hành.
c. Công ty TNHH
* Thành viên của công ty trách nhiệm phải chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh
nghiệp.
* Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu. Do có những ưu điểm của loại hình công ty cổ
phần và công ty TNHH so với công ty hợp doanh, vì vậy hiện nay chủ yếu các công ty chứng khóan được
tổ chức dưới hình thức công ty TNHH và công ty cổ phần.
3
1.2. Các hoạt động của Công ty chứng khoán
1.2.1. Các hoạt động chính
1.2.1.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua bán, bán chứng khoán cho khách
hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch taih SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách
hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách hàng của mình các sản phẩm,
dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán. Và
trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới sẽ trở thành những người bạn, người chia sẻ những
lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết
định tỉnh táo.
Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn

cán trong công việc và với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi
giới không được xúi dục khách hàng mua, bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra những lời
khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng.
Kỹ năng của người môi giới chứng khoán được thể hiện trên các khía cạnh:
- Kỹ năng truyền đạt thông tin: Phẩm chất hay thái độ của người môi giới đối với công việc, với
bản thân và với khách hàng được truyền đạt rõ ràng đối tới hầu hết các khách hàng mà người môi giới thực
hiện giao dịch. Để thành công trong việc bán hàng (cung ứng dịch vụ mua, bán) người môi giới phải đặt
khách hàng lên trên hết và doanh thu của mình là yếu tố thứ yếu. Đây là điểm then chốt trong hoạt động
dịch vụ tài chính và phải được thực hiện ngay từ khi tiếp xúc với khách hàng.
- Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: có nhiều phương pháp để tìm kiếm khách hàng, nhưng tựu trung
có thể được gộp vào nhóm 6 phương cách sau: những đầu mối được gây dựng từ công ty hoặc các tài
khoản chuyển nhượng lại; những lời giới thiệu khách hàng; mạng lưới kinh doanh; các chiến dịch viết thư;
các cuộc hội thảo; gọi điện làm quen.
- Kỹ năng khai thác thông tin: một trong những nguyên tắc trong hàng nghề môi giới là phải hiểu
khách hàng, biết được khả năng tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Ngoài ra nó còn giúp
cho nhà môi giới tăng được khối lượng tài sản quản lý, có chiến lược khách hàng thích hợp.
1.2.1.2. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán.
Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc
các Công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời
khuyên phân tích tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ
khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau:
+ Theo hình thức của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp
gỡ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại) và tư vấn gián
tiếp (thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng.
4
+ Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: Bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho
khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách
hàng) và tư vấn uỷ quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, uỷ
quyền thực hiện của khách hàng).

+ Theo đối tượng hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn cho người phát
hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành,
xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch…. Và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa
chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho
khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian,
định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán …v.v.).
Nguyên tắc cơ bản của tư vấn:
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là
vốn chất xám mà họ đã bỏ ra, để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận (Hiệu
quả) cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi hết sức thận trọng trong việc đưa ra
các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể
thu về lợi nhuân lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về
cho mình khoản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn đó thành công hay
không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản
như sau:
+ Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá chị chứng
khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh
tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường .
+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên
cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có
thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối
cùng.
Trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về
những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.
5
+ Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư
vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học,
logic các vấn đề nghiên cứu.
1.2.1.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.
Để thực hiện thành công các đợt chào bán hàng chứng khoán ra công

chúng, đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các Công ty chứng khoán tư
vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh phân phối chứng khoán ra công
chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các Công ty chứng
khoán và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu
của Công ty chứng khoán.
Như vậy, nghiệp vụ sau bảo lãnh phát hành là việc Công ty chứng
khoán có chức năng bảo lãnh (sau đây gọi tắt là tổ chức bảo lãnh - TCBL)
giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng
khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng
khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên TTCK, tổ chức bảo lãnh
phát hành không chỉ có Công ty chứng khoán mà còn bao gồm các định chế
tài chính khác như ngân hàng đầu tư nhưng thông thường việc Công ty
chứng khoán nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối
chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát
hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối
chứng khoán cho các Công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên
khác.
Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu
bảo lãnh phát hành đến Công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán có thể
ký một hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại
chứng khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán cần phát hành, định giá
chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư
thích hợp. Để được phép bảo lãnh phát hành, Công ty chứng khoán phải đệ
trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh lên uỷ ban chứng khoán. Khi
6
các nội dung cơ bản của phương án phát hành được uỷ ban chứng khoán
thông qua. Công ty chứng khoán có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh, hoặc
thành lập nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đồng bảo lãnh giưã nghiệp đoàn
và tổ chức phát hành.
Khi uỷ ban chứng khoán cho phép phát hành chứng khoán và đến thời

hạn giấy phép phát hành có hiệu lực, Công ty chứng khoán (hoặc hiệp đoàn
bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng
khoán chủ yếu là:
+ Bán riêng cho tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm,
quỹ hưu trí.
+ Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có
quan hệ với tổ chức phát hành.
+ Bán rộng rãi ra công chúng.
Đúng đến ngày theo hợp đồng Công ty bảo lãnh phát hành phải giao
tiền bán cho tổ chức phát hành. Số tiền thanh toán là giá trị chứng khoán
phát hành trừ đi phí bảo lãnh.
1.2.1.4. Nghiệp vụ tự doanh
Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính
mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên
SGDCK hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá (quote driven) hoạt
động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này,
công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định
của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch
giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi
mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa
phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt
động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do
đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, công ty
chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình. Thậm chí luật
pháp ở một số nước còn quy định có 2 loại hình công ty chứng khoán là công ty môi giới chứng khoán chỉ
làm chức năng môi giới và công ty chứng khoán có chức năng tự doanh.
Khác với nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách
hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh công ty chứng khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn
7

của công ty. Vì vậy, công ty chứng khoán đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình
đọ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng
vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Yêu cầu đối với công ty chứng khoán
- Tách biệt quản lý: các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và
nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt
về: yếu tố con người; quy trình nghiệp vụ; vốn và tài sản của khách hàng và công ty.
- ưu tiên khách hàng: công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực
hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự
doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho các khách hàng trong quá trình giao dịch
chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các công ty
chứng khoán có thể sẽ dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách
hàng nếu không có nguyên tắc trên.
Góp phần bình ổn thị trường: Các công ty chứng khoán hoạt động tự doanh nhằm góp phần bình
ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định.
Luật các nước đều quy định các công ty chứng khoán phải dành một tỉ lệ % nhất định các giao dịch của
mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó, các công ty chứng khoán có nghĩa vụ mua
vào khi giá chứng khoán bị giảm và bán ra khi giá chứng khoán lên nhằm giữ giá chứng khoán ổn định.
- Hoạt động tạo thị trường: khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao
dịch. Để tạo thị trường cho các chứng khoán này, các công ty chứng khoán thực hiện tự doanh thông qua
việc mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những TTCK phát triển,
các nhà tạo lập thị trường (Market – Makers) sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị trường OTC
để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh
doanh chứng khoán khác. Như vậy, họ sẽ duy trì một thị trường liên tục đối với chứng khoán mà họ kinh
doanh.
- Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh:
Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt các lệnh mua và bán chứng
khoán trên Sở giao dịch, lệnh của hộ có thể thực hiện với bất kỷ khách hàng
nào không được xác định trước.
Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa hai Công ty chứng khoán

hay giữa Công ty chứng khoán với một khách hàng thông qua thương lượng.
Đối tượng của các giao dịch trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao
dịch ở thị trường OTC.
1.2.1.5. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư chứng
khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở
tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là
8
một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư,
khách hàng uỷ thác tiền cho Công ty chứng khoán thay mặt quyết định đầu
tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp nhận
theo yêu cầu (mức lợi nhuận kỳ vọng; rủi ro có thể chấp nhận….)
Quy trình của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát
bao gồm các bước sau:
+ Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: Công ty chứng khoán và khách
hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ đó đưa ra
các yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác.
+ Ký hợp đồng quản lý: CTCK ký hợp đồng quản lý giữa khách hàng
và Công ty theo các yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ thác, mục tiêu
đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên, phí quản lý danh mục đầu tư.
+ Thực hiệp hợp đồng quản lý: Công ty chứng khoán thực hiện đầu tư
vốn uỷ thác của khách hàng theo các nội dung đã được cam kết và phải đảm
bảo tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách hàng
và chính Công ty.
1.2.1.6. Lưu ký chứng khoán:
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán.
Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì trong giao dịch chứng khoán trên thị trường
tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty
chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khón (nếu phát
hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công

ty chứng khoán sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển
nhượng chứng khoán.
+ Kết thúc hợp đồng quản lý: Khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các
khoản phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi công ty
chứng khoán bị ngưng hoạt động, giải thể hoặc phá sản.
9
1.2.2 Các nghiệp vụ hỗ trợ
1.2.2.1. Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý tổ chức):
Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, Công ty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu
lãI, cổ tức chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài
khoản của khách hàng.
1.2.2.2. Nghiệp vụ tín dụng:
Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng
hoa hồng, Công ty chứng khoán còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao
dịch bán khống (short sale) hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ
(margin purchase).
Cho vay kỹ quỹ là hình thức cấp tín dụng của Công ty chứng khoán cho khách hàng của mình để họ
mua chứng khoán và sử dụng các loại chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ
cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do Công ty chứng khoán ứng trước thanh toán. Đến ký hạn thoả thuận,
khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc vay cùng với lãi cho Công ty chứng khoán. Trường hợp khách hàng
không trả được nợ, thì Công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.
1.2.2.3. Nghiệp vụ cầm cố chứng khoán cho vay
ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép Công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ
quản lý đầu tư. Theo đó, Công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vồn và tài
sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Công ty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu
tư.
1.3 Chất lượng hoạt động của CTCK
1.3.1 Khái niệm chất lượng hoạt động
Các CTCK cũng là một doanh nghiệp do đó chất lượng hoạt động được thể hiện ở hiệu quả kinh
doanh của công ty đó. Đối với CTCK thì được thể hiện ở hiệu quả của các nghiệp vụ kinh doanh của công

ty đó và được thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá sau.
1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá
Tất cả các doanh nghiệp tồn tại và phát triển đều phải đặt ra những mục tiêu cụ thể. Để đạt được mục
tiêu đó trước hết doanh nghiệp phải xác định cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với sự biến động
của thị trường. Đồng thời phải tiến hành đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Vậy hiệu quả kinh doanh
là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực
của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất.
Trong nền kinh tế thị trường một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả khi doanh nghiệp đó đạt được hiệu
quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thường dựa trên các chỉ
tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính.
10
1.3.2.1. Chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn:
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động trong quá trình kinh doanh, thể
hiện ở hệ số sinh lời của vốn kinh doanh:
Hệ số sinh lời của VKD =
Tổng lợi tức các hoạt động
Tổng vốn bình quân của các hoạt động
Chỉ tiêu trên cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn kinh doanh bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Nó có tác động khuyến khích và quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm đồng vốn trong các
khâu của quá trình kinh doanh.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh:
HQSD chi phí KD =
Doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần
Tổng chi phí kinh doanh
Vớí chỉ tiêu này sẽ phản ánh doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí kinh doanh thì sẽ đem lại bao
nhiêu đồng doanh thu thực thu hoặc doanh thu thuần.
Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần
Sức sinh lời của CPKD =
Tổng chi phí kinh doanh

ý nghĩa của chỉ tiêu này: Cứ một đồng chi phí kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng của từng loại tài sản:
Hiệu quả sử dụng của tài sản lưu động:
Lợi nhuận gộp hoặc lợi nhuận thuần
Khả năng sinh lời của TSLĐ =
Tổng giá trị tài sản lưu động bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản lưu động bình quân vào sản xuất
kinh doanh thì sẽ đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định:
11
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định và vốn cố định được đánh giá bằng nhiều chỉ tiêu nhưng chủ yếu
sử dụng những chỉ tiêu sau:
Tổng doanh thu
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định =
TSCĐ bình quân
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu:

Tổng lợi tức các hoạt động
Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu =
Tổng vốn chủ sở hữu bình quân
Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu được đánh giá bằng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Chỉ
tiêu này càng lớn thì hiệu quả càng cao và ngược lại.
1.3.2.2. Chỉ tiêu định tính.
Chỉ tiêu định tính để đánh giá hiệu quả kinh doanh là những chỉ tiêu không thể lượng hoá được
bằng con số. Chỉ tiêu này thường được đánh giá bởi thị trường, các nhà phân tích, đặc biệt là khách hàng. ở
công ty chứng khoán chỉ tiêu định tính được nói đến là vị thế và uy tín của công ty trên thị trường. Điều
này thể hiện ở định hướng hoạt động của công ty có phù hợp với tình hình thị trường, điều kiện thực tế của
chính doanh nghiệp cũng như yêu cầu của khách hàng hay không, chất lượng nhân sự trong công ty, vị trí
địa lý của trụ sở công ty có thuận lợi về giao thông, có ở trung tâm hay không, đặc biệt là có chiến lược
marketing phù hợp, từ đó công ty tạo ra được cách thức để thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt thì các chỉ tiêu định tính để đánh giá
hiệu quả kinh doanh của các công ty càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khi một công ty đạt được những
tiêu chuẩn định tính cũng đồng nghĩa với việc tình hình kinh doanh của công ty rất có hiệu quả, có vị thế
cạnh tranh cao trên thị trường và đạt được các tiêu chuẩn định lượng.
Chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chỉ tiêu định lượng là
tiền đề, là cơ sở để đạt được chỉ tiêu định tính, ngược lại chỉ tiêu định tính tác động trở lại để hoạt động
kinh doanh của công ty thêm hiệu quả.
12
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của công ty chứng
khoán.
1.4.1. Nhân tố khách quan
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế gắn liền với hoạt động của một công ty. Trong nền
kinh tế thị trường, bất kỳ một công ty nào cũng luôn quan tâm đến hiệu quả kinh doanh vì nó quyết định sự
sống còn của công ty. Hoạt động kinh doanh của công ty lại chịu chi phối bởi rất nhiều các yếu tố cả bên
trong lẫn bên ngoài công ty và chính vì thế hiệu quả kinh doanh của công ty cũng bị ảnh hưởng bởi các
nhân tố này.
Là một mắt xích quan trọng của thị trường, những biến đổi của thị trường đều tác động đến hiệu
quả kinh doanh của công ty. Nó có thể tạo cho công ty những nguy cơ hoặc cơ hội kinh doanh. Thị trường
chịu sự tác động của các chính sách kinh tế chính trị xã hội của một quốc gia và tình hình kinh tế của toàn
cầu. Những quốc gia có tình hình kinh tế chính trị xã hội ổn định, vững mạnh sẽ tạo được lòng tin đối với
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đó là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế cùng với hoạt
động tài chính tiền tệ. Vấn đề thu nhập quốc dân của một quốc gia và thu nhập bình quân đầu người chính
là những yếu tố tác động đến nhu cầu về số lượng hàng hoá, dịch vụ, về chủng loại, chất lượng, về thị
hiếu Trên cơ sở đó, hoạt động kinh doanh của các công ty nói chung và các công ty chứng khoán nói
riêng sẽ gặp nhiều thuận lợi. Các nhà đầu tư sẵn sàng hơn trong việc tham gia vào thị trường, các công ty
cũng sẵn sàng mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ làm tăng qui mô của thị trường nên những
công ty biết đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường sẽ là những công ty làm ăn có hiệu quả. Trong môi
trường này, sự tăng trưởng, các chính sách kinh tế, lạm phát, biến động tài chính tiền tệ, hoạt động của các
đối thủ cạnh tranh luôn tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Ngược lại những quốc gia
có tình hình kinh tế chính trị xã hội bấp bênh, kém ổn định, xung đột xảy ra liên miên gây ra những cơn

sốt, cú sốc, sức ép thị trường thì các công ty chứng khoán cũng khó có thể hoạt động kinh doanh một
cách có hiệu quả.
Bên cạnh đó, một môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các công ty tiến hành
thuận lợi các hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời điều chỉnh các hoạt động kinh tế theo hướng
không chỉ chú ý đến hiệu quả kinh doanh của riêng bản thân công ty mà còn phải quan tâm đến hiệu quả
của toàn xã hội. Cùng với điều này, thì nội dung của các chính sách quản lý kinh tế, chính sách quản lý về
chứng khoán và TTCK có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mọi hoạt động
kinh doanh chứng khoán đều phải nằm trong khuôn khổ của các quy định này. Chính vì thế, một chính sách
quản lý đúng đắn, phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán, dẫn đến sự phát
triển của TTCK và toàn bộ nền kinh tế, trái lại, một chính sách cứng nhắc, thiếu hợp lý sẽ gây nhiều trở
ngại cho sự phát triển của toàn bộ thị trường nói chung và đến sự phát triển của một công ty nói riêng.
13
Là một chủ thể quan trọng của TTCK, thì sự phát triển của TTCK cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Một khi TTCK phát triển, có nghĩa là hàng hoá trên thị
trường đa dạng và phong phú, nó sẽ tạo ra cho các nhà đầu tư và các công ty có điều kiện để đầu tư, để có
sự lựa chọn phù hợp nhất. Tuy nhiên, với một hệ thống bao gồm nhiều loại hàng hoá sẽ phát sinh những
khó khăn đối với các nhà đầu tư khi tự quyết định sự lựa chọn của mình. Vì vậy, nhất thiết nhà đầu tư sẽ
cần đến công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, khi TTCK phat triển sẽ xuất hiện nhiều loại rủi ro khó lường
trước, do đó công chúng cũng như công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong hoạt động kinh
doanh. Mặt khác, khi TTCK phát triển, công ty chứng khoán muốn tồn tại, phát triển và cạnh tranh được
với các công ty chứng khoán khác thì công ty không những buộc phải có những thay đổi cho phù hợp với
thị trường mà còn phải tiếp tục hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ
phía khách hàng và từ phía bản thân công ty.
Những nhà kinh doanh của các công ty chứng khoán là những người có trình độ hiểu biết nhất
định về TTCK, có thể làm những công việc khác nhau nhưng không phải bất cứ độ tuổi nào cũng tham gia
được. Họ tham gia vào lĩnh vực này với những mục đích khác nhau và nắm trong tay những thông tin trái
ngược nhau. Chính vì thế môi trường văn hoá xã hội sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả kinh
doanh của công ty cả theo chiều hướng tiêu cực và tích cực.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật công nghệ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả kinh
doanh của công ty. Sản phẩm của công ty chứng khoán là các dịch vụ cho kinh doanh nên yếu tố cạnh tranh

sẽ thể hiện ở mức độ thực hiện dịch vụ nhanh chóng, thoả mãn nhu cầu khách hàng. Muốn vậy, công ty
phải áp dụng kỹ thuật công nghệ phù hợp, từ đó nâng cao được năng suất, chất lượng và giảm được chi phí
trên một đơn vị sản phẩm. Nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng vòng quay vốn lưu
động, tăng lợi nhuận.
Không phải ngẫu nhiên mà trong cùng một môi trường kinh doanh, cùng chịu một chế độ quản lý
mà kết quả kinh doanh của các công ty lại khác nhau. Mà chính bởi có sự khác nhau về các nhân tố nội tại
giữa các công ty. Nhân tố nội tại chính là cơ sở vật chất, mục tiêu phát triển, uy tín của công ty, mạng lưới
khách hàng, khả năng của ban lãnh đạo, trình độ của cán bộ công nhân viên , tất cả các yếu tố này đều tác
động đến hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán. Vì vậy, để có thể đẩy mạnh và mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh, các công ty phải biết tận dụng những thế mạnh cũng như hạn chế những điểm yếu của
công ty mình.
1.4.2. Nhân tố chủ quan
Vốn phản ánh quy mô, tiềm lực của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có nguồn vốn lớn thường là
những doanh nghiệp có qui mô lớn, phạm vi hoạt động rộng. Và cũng chính vì thế, hiệu quả kinh doanh
phụ thuộc rất nhiều về vốn. Bên cạnh đó, trong công ty con người luôn đóng vai trò trung tâm. Mức độ
14
hiệu quả công việc của từng người sẽ ảnh hưởng tới hệ thống bởi vì tổng hợp hiệu quả của các cá nhân sẽ
được hiệu quả chung của công ty. Một công ty hoạt động có hiệu quả khi các cá nhân trong công ty có trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có tính tự giác, kỷ luật cao, đồng thời các thành viên trong công ty phải có
mối quan hệ bình đẳng, hoà hợp, tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau nỗ lực phấn đấu cho mục tiêu chung toàn
công ty. Thực tế cho thấy, những công ty mạnh trên thị trường đều là những công ty có đội ngũ cán bộ công
nhân viên có trình độ, tác phong khoa học và tính kỷ luật cao. Cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên thì
vấn đề về các nhà quản trị
15
ChươngII
Thực trạng các hoạt động kinh doanh chứng khoán
của công ty chứng khoán Công thương
2.1. Hoạt động của TTCK Việt Nam thời gian qua.
Năm 2003, TTCK Việt Nam trải qua một thời gian chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhiều nhân tố mang tính vĩ
mô như tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn do quá trình hội nhập quốc tế ban đầu cùng những thách thức

rất lớn do cạnh tranh đưa lại. Tăng trưởng kinh tế trong nước chưa thể hiện mức độ bền vững nhất định;
chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đủ mạnh, trong đó đáng lưu ý nhất là khu vực dịch vụ có xu hướng giảm
trong cơ cấu của GDP; bên cạnh đó, nhập siêu ở mức tương đối cao trong khi những biến động mạnh trong
khu vực thị trường nhà đất, vàng và ngoại tệ diễn ra trong suốt năm 2003; hiệu quả đầu tư chưa cao do mức
dộ thất thoát trong vốn đầu tư còn nhiều.
Mặc dù vậy, có thể nói, năm 2003 đã đánh dấu một bước chuyển mình mới của TTCK VN sau hơn 3 năm
đi vào hoạt động. Các hoạt động của thị trường tiếp tục diễn ra suôn sẻ với sự tham gia của trên 16.000 tài
khoản ( tăng trên 19% so với năm 2002 ). Tính đến tháng 4/2004 đã có 24 cổ phiếu được niêm yết trên
TTCK với tổng mức vốn hóa thị trường đạt trên 2.500 tỷ VND; trên 119 triệu trái phiếu được niêm yết với
tổng giá trị niêm yết đạt trên 11,9 ngàn tỷ VND. Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM (TTGDCK
Tp.HCM) đã tổ chức thành công 247 phiên giao dịch với tổng giá trị giao dịch đạt gần 3.000 tỷ VND, tăng
trên 177% so với năm 2002 trong đó giao dịch trái phiếu đạt gần 2.500 tỷ VND, chiếm trên 83% tổng giá
trị giao dịch trên thị trường. TTGDCK Tp.HCM đã đưa vào áp dụng thành công một số giải pháp kỹ thuật,
cho phép các nhà đầu tư đa dạng hóa các loại hình và phương thức giao dịch của minh; đồng thời tạo các
tiền đề hết sức cơ bản trong việc tiến tới chuẩn hóa một số các loại hình nghiệp vụ của thị trường. Công tác
quản lý thị trường tiếp tục được cải thiện đảm bảo khả năng vận hành và quản lý thị trường một cách hiệu
quả. Bên cạnh đó các tổ chức trung gian trên thị trường không ngừng tự hoàn thiện mình, xây dựng và
cung cấp dịch vụ tiện ích cho các nhà đầu tư, các tổ chức, đặc biệt tập trung vào một số nghiệp vụ có thế
mạnh. Các tổ chức niêm yết nói chung đã thực hiện khá tốt các nghiệp vụ và yêu cầu về công bố thông tin.
Năm 2003 cũng là năm có rất nhiều các sự kiện quan trọng đã diễn ra tác động không nhỏ đến TTCK VN,
có thể kể ra đây hàng loạt các sự kiện như: một số cổ phiếu mới được niêm yết tạo thêm hàng hóa cho thị
trường; một số các CTCK mới ra đời và đi vào hoạt động; lần đầu tiên chúng ta tổ chức một tuần lễ chứng
khoán hết sức quy mô nhằm cổ động mạnh mẽ việc tham gia vào TTCK của các nhà đầu tư; sử dụng các
biện pháp kỹ thuật nhằm kích thích sự năng động và hiệu quả của thị trường như điều chỉnh biên độ, chia
nhỏ lô giao dịch, đưa vào sử dụng các loại lệnh mới ATO…;Chính phủ cho phép nới rộng tỷ lệ nắm giữ của
các nhà đầu tư nước ngoài đối với cổ phiếu, không hạn chế đối với trái phiếu và sự tham gia rất mạnh của
nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường trong những tháng cuối năm 2003…Bên cạnh đó sự kiện hết sức
quan trọng đó là việc Chính phủ thông qua chiến lược phát triển TTCK VN đến năm 2010 và ban hành
nghị định 144 về chứng khoán và TTCK thay thế nghị định 48 của Chính phủ và trở thành văn bản có tính
pháp lý cao nhất điều chỉnh các hoạt động cuẩ TTCK VN. Nghị định mới này đã thực hiện thay đổi một

cách khá toàn diện về mặt nội dung cũng như phạm vi áp dụng và tạo ra hướng đi mới hết sức cụ thể trong
16
công tác quản lý, điều hành và phát triển TTCK cũng như đối với sự tham gia của các tổ chức cá nhân vào
thị trường.
2.2 Giới thiệu về Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt
Nam
2.2.1.Lịch sử hình thành và phát triển của công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt
Nam.
Căn cứ theo Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ và thông tư 04/1999/TT-NHNN5 ngày 01/11/1999 về việc cho phép các
tổ chức tín dụng thành lập công ty chứng khoán là điều kiện tiền đề cho việc
thành lập công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Theo
các văn bản này, các ngân hàng thương mại chỉ được phép thành lập công ty
chứng khoán độc lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên. Xét về điều kiện, Ngân hàng Công Thương Việt Nam đã hội tụ đầy đủ
các điều kiện thành lập công ty chứng khoán của một ngân hàng thương
mại. Đề án thành lập và dự thảo điều lệ công ty chứng khoán Ngân hàng
Công Thương Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt,
chấp thuận cho Ngân hàng Công Thương Việt Nam thành lập công ty chứng
khoán; đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ nhân sự chuẩn bị cho hoạt động kinh
doanh chứng khoán; hoàn thành hồ sơ xin Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
Tên giao dịch quốc tế: Incombank Securities Co.Ltd. (Viết tắt là IBS)
Thành lập theo quyết định số 126/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 01/09/2000 của
Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Giấy phép hoạt động số 07/GPHĐKD ngày 06/10/2000 do Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước cấp.
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0104000012 ngày 04/10/2000 do
Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội cấp. Trụ sở chính: Số 306 Bà Triệu - Quận Hai

Bà Trưng - Hà Nội.
17
Điện thoại: 84.4.9741764 – 84.4.9741054. Fax: 84.4.9741760
Email:
Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh: Số 153 Hàm Nghi, Quận I, TP.Hồ
Chí Minh.
Điện thoại: 84.4.9140200. Fax: 84.4.9140201. Email: ibs-

Vốn điều lệ: 55 tỷ đồng Việt Nam
2.2.2 Các lĩnh vực kinh doanh
Với số vốn điều lệ 55 tỷ VND, IBS được cấp giấy phép hoạt động cả
5 nghiệp vụ kinh doanh trên TTCK, đó là môi giới, tự doanh, quản lý danh
mục đầu tư, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương là công ty trực thuộc,
hạch toán độc lập của Ngân hàng Công Thương Việt Nam; thành viên của
Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty chứng
khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam được tổ chức theo mô hình chủ
tịch Công ty và Giám đốc được qui định tại luật Doanh nghiệp, là công ty
TNHH một thành viên. Bộ máy lãnh đạo công ty gồm chủ tịch công ty và
phó giám đốc, trong đó phó giám đốc trực tiếp phụ trách hoạt động tại chi
nhánh TPHCM. Công ty chính thức đi vào hoạt động ngày 16 tháng 11 năm
2000. Tháng 10 năm 2002 Công ty Chứng khoán Công thương được cải tổ
thành lập 6 phòng ban ở Hà Nội với 37 nhân viên. Chi nhánh thành phố Hồ
Chí Minh gồm 4 phòng ban với 20 nhân viên. Với việc sắp xếp bố trí lại các
phòng ban như trên công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam
đã tạo ra một mô hình mang tính đột phá so với các công ty chứng khoán
khác trên thị trường.
Ch t ch công tyủ ị
Giám cđố
Kế toán lưu ký

18
Phòng môi giới
V n phòngă
Phòng kinh doanh
Phòng môi gi iớ
Phòng t doanh, phát h nhự à
T v n niêm y tư ấ ế
K toán l u kýế ư
Ki m soátể
V n phòngă
Chi nhánh TP.HCM
2.2.3 Cơ cấu tổ chức của Công ty Chứng khoán Công Thương Việt Nam
Sơ đồ 3
*Phòng môi giới
Đại diện giao dịch của Công ty, môi giới chứng khoán. Trung gian
mua bán chứng khoán cho khách hàng. Tư vấn, cung cấp thông tin thường
xuyên về từng phiên giao dịch, thông tin tài khoản và các thông tin liên quan
tới chứng khoán, TTCK cho khách hàng. Tiếp nhận và xử lý lệnh mua, bán
chứng khoán. Tổ chức thực hiện giao dịch OTC (khi được phép). Tiếp thị
trực tiếp đến nhà đầu tư chứng khoán. Làm các dịch vụ hỗ trợ khách hàng có
liên quan đến nghiệp vụ môi giới. Quản lý các đại lý nhận lệnh và các đầu
mối phát triển dịch vụ của công ty, trên các địa bàn khác nhau. Đề xuất giải
pháp nâng cao chất lượng dịch vụ, kiến nghị phương hướng nghiên cứu đưa
ra các sản phẩm mới liên quan đến hoạt động môi giới.
*Phòng tự doanh phát hành
Kinh doanh chứng khoán cho công ty. Đại lý, bảo lãnh phát hành
chứng khoán. Phân tích thị trường và đề xuất các phương án tự doanh
chứng khoán cho Giám đốc Công ty. Tổ chức tự doanh chứng khoán theo
đúng quy trình tại trụ sở chính và lập báo cáo, phân tích đánh giá kết quả
hoạt động tự doanh toàn Công ty. Phối hợp các bộ phận trong Công ty thực

hiện công tác tiếp thị, xúc tiến phát triển thị trường và triển khai các sản
19
phẩm dịch vụ mới có liên quan. Đại lý bảo lãnh phát hành. Tìm kiếm, thiết
lập, duy trì quan hệ và xây dựng mạng lưới khách hàng sử dụng dịch vụ đại
lý phát hành, bảo lãnh phát hành và các dịch vụ có liên quan. Tổ chức triển
khai các hợp đồng đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành và các dịch vụ khác
có liên quan được ký kết với khách hàng.
* Phòng tư vấn, phân tích
Nghiên cứu, phân tích chứng khoán và TTCK. Tư vấn đầu tư, tư vấn
niêm yết, tư vấn cổ phần hoávà tư vấn tài chính. Làm đầu mối công tác tiếp
thị, xúc tiến phát triển thị trường. Quản lý danh mục đầu tư. Nghiên cứu,
phân tích. Nghiên cứu phát triển sản phẩm, dịch vụ mới. Nghiên cứu, phân
tích tình hình thị trường, ra các bản tin phân tích, bình luận về chứng khoán
và đánh giá các động thái của thị trường. Xây dựng hồ sơ doanh nghiệp. Dự
thảo các kế hoạch kinh doanh năm, quý, báo cáo tổng kết toàn Công ty. Tư
vấn đầu tư chứng khoán, chú trọng tư vấn mang tính trung, dài hạn, giá trị
đầu tư lớn, trên cơ sở hợp đồng có thu phí. Tư vấn niêm yết, tư vấn cổ phần
hoá và tư vấn tài chính. Cung cấp thông tin chứng khoán và TTCK cho
khách hàng và trong nội bộ Công ty. Đầu mối công tác tiếp thị, xúc tiến phát
triển thị trường cho Công ty. Xây dựng triển khai các phương án tiếp thị, tìm
kiếm đối tác tiếp nhận các dịch vụ của Công ty. Quản lý danh mục đầu tư.
Thực hiện quản lý danh mục đầu tư theo sự uỷ thác của khách hàng.
*Phòng kế toán tài chính và lưu ký
Quản lý tài chính, hạch toán kế toán, thanh toán giao dịch, lưu ký
chứng khoán, ngân quỹ. Quản lý tài chính. Dự thảo kế hoạch tài chính năm,
quý trình Giám đốc Công ty phê duyệt và giám sát kết quả thực hiện kế
hoạch được duyệt. Tổ chức quản lý nguồn vốn của công ty, tham mưu cho
Giám đốc quản lý tập trung vốn của Ngân hàng công thương Việt Nam cấp,
vốn tự có bổ sung, bảo toàn vốn đúng chế độ và giám sát các chi nhánh
thuộc công ty sử dụng vốn hiệu quả, đúng mục đích, đúng quy định của

20
pháp luật. Giám sát về mặt tài chính trong việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch mua sắm tài sản, quản lý trang thiết bị, tài sản của Công ty. Tham
mưu cho Giám đốc công ty các vấn đề về phân phối lợi nhuận, sử dụng các
quỹ, thu chi tài chính. Tham mưu cho Giám đốc công ty về xây dựng đơn
giá tiền lương, thanh toán tiền lương, thưởng Hạch toán kế toán, hạch toán
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại công ty. Theo dõi biến động tài khoản
tiền gửi, tiền vay của Công ty gửi ở các tổ chức tín dụng.
Phối hợp với các phòng ban có liên quan trong việc hạch toán kế toán
quản lý, điều hành vốn. Tổ chức kế toán giao dịch, hạch toánvà quản lý tình
hình hoạt động tài khoản tiền gửi, chứng khoán lưu ký của khách hàng mở
tại Công ty. Thanh toán giao dịch. Tham mưu cho Giám đốc Công ty trong
việc tổ chức thanh toán tập trung tại trụ sở chính và thống nhất trong toàn
công ty gắn với quá trình điều hành vốn theo đúng chế độ hiện hành, đảm
bảo mỗi khoản thanh toán an toàn, kịp thời, chính xác. Tham gia thanh toán
bù trừ với trung tâm giao dịch chứng khoán, thanh toán với các ngân hàng
liên quan.
*Lưu ký: Tổ chức thực hiện nghiệp vụ lưu ký, tiếp thị về lưu ký đối với cá nhân và pháp
nhân. Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư chứng khoán liên quan đến
hoạt động lưu ký chứng khoán. Tổ chức thực hiện hoạt động lưu ký thống
nhất từ trụ sở chính, chi nhánh và các đại lý giao dịch của Công ty. Quản lý
kho lưu ký. Ngân quỹ, thực hiện nhận và trả tiền, chứng khoán chứng chỉ
của khách hàng. Thu và chi tiền mặt nội bộ Công ty theo đúng quy trình thu
chi tiền mặt và chứng chỉ có giá hiện hành. Nộp và lĩnh tiền mặt tại các ngân
hàng thương mại. Quản lý an toàn két tiền mặt. Công tác báo cáo, kiểm tra,
kiểm soát và các nhiệm vụ khác. Lập và tổng hợp các báo cáo tài chính kế
toán, lưu ký, thống kê của toàn công ty theo đúng chế độ báo cáo thống kê
của Nhà nước, NH Công thương Việt nam, UBCKNN và các ban ngành liên
quan. Định kỳ hoặc đột xuất tiến hành kiểm tra công tác tài chính, lưu ký
21

của trụ sở chính và các chi nhánh để kịp thời phát hiện sai sót và có biện
pháp khắc phục, xử lý. Tổ chức thực hiện cơ chế, quy chế, quy trình nghiệp
vụ của công tác tài chính, kế toán, lưu kývà hệ thống tài khoản kế toán theo
phân cấp phù hợp với quy định pháp luật và của Bộ tài chính, đáp ứng yêu
cầu phát triển nghiệp vụ kinh doanh của Công ty. Tổng hợp và cung cấp số
liệu cho Ban điều hành Công ty định kỳ hoặc đột xuất để chỉ đạo hoạt động
kinh doanh.
*Phòng kiểm soát
Kiểm tra việc ghi chép sổ sách kế toán. Kiểm tra cách tính toán, đối
chiếu hoá đơn với ghi chép vào sổ.
*Văn phòng Công ty
Phòng hành chính - tổng hợp. Tổ chức cán bộ và đào tạo quản lý lao
động và tiền lương. Tổng hợp chương trình công tác của các phòng, ban. Bố
trí, sắp xếp chương trình làm việc hàng tuần của Ban điều hành Công ty. Bố
trí thư ký trong các cuộc họp theo yêu cầu của Giám đốc. Thực hiện công
tác văn thư, lưu trữ theo đúng quy định của pháp luật. Phối hợp với các bộ
phận liên quan tổ chức các cuộc họp, hội nghị, hội thảo của Công ty. Bố trí
phương tiện đi lại phục vụ hoạt động chung của công ty. Tổ chức đón tiếp,
bố trí nơi ăn ở và phương tiện đi lại cho khách đến làm việc với Công ty khi
Giám đốc yêu cầu. Thực hiện công tác lễ tân, tạp vụ. Tổ chức thực hiện công
tác an ninh, bảo vệ, giữ gìn an toàn tài sản và an ninh trật tự toàn Công ty.
Quản trị - tin học: Xây dựng kế hoạch mua sắm tài sản và triển khai
thực hiện việc mua sắm thiết bị, phương tiện làm việc của công ty theo đúng
quy định. Tổ chức bảo dưỡng tài sản cố định theo định kỳ. Xây dựng và
hướng dẫn thực hiện nội quy, sử dụng trang thiết bị của cơ quan. Quản lý hệ
thống tin học, gồm cả phần cứng và phần mềm, hệ thống mạng máy tính của
Công ty. Tổ chức cán bộ và đào tạo. Tham mưu cho ban điều hành xây dựng
bộ máy tổ chức nhân sự; sắp xếp, phân công lao động giữa các đơn vị trong
22
công ty đảm bảo phát huy tốt năng lực của từng cá nhân, đáp ứng yêu cầu

công tác kinh doanh. Giúp Giám đốc xây dựng kế hoạch đào tạo, quy hoạch
cán bộ, làm thủ tục đề bạt cán bộ thuộc thẩm quyền quyết định của Giám
đốc Công ty. Quản lý lao động và tiền lương. Tham mưu cho ban điều hành
công ty về chính sách, chế độ tiền lương đối với người lao động. Tham mưu
cho Giám đốc công ty trong việc tuyển dụng, ký kết, huỷ bỏ hợp đồng lao
động theo đúng Luật lao động và các quy định về quản lý lao động của Công
ty.
2.2.4 Môi trường cạnh tranh
Sự góp mặt của CTCK Ngân hàng Công thương đã nâng tổng số CTCK lên
12 trong đó có 5 công ty cổ phần và 7 công ty TNHH. Các CTCK đều hoạt
động ổn định tuân thủ các quy định pháp luật về chứng khoán và TTCK, các
quy định của ủy ban chứng khoán nhà nước. Các kết quả kinh doanh có
chiều hướng tốt lên, hầu hết có lãi sớm hơn so với dự kiến. Các chỉ tiêu
trong báo cáo tài chính cho biết tính đến hết ngày 31/12/2003 các CTCK đều
có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng thanh toán được đảm bảo.
Cạnh tranh gay gắt trong thị trường nhỏ với tốc độ phát triển tương đối
chậm ( theo ước tính của TTGD hiện có khoảng 16.000 nhà đầu tư trên thị
trường ); dẫn đến nhiều hoạt động cạnh tranh không lãnh mạnh. Ví dụ, mặc
dù đã có sự thõa thuận giữa các CTCK về việc không tiếp tục giảm phí môi
giới, VCBS vẫn sử dụng các hình thức khuyến mãi như dự đoán tỷ số bóng
đá để miễn giảm phí giao dịch nhằm thu hút các nhà đầu tư từ các CTCK
khác.
Hiện nay cơ cấu doanh thu của các CTCK đã có sự thay đổi đàng kể. Nếu
như trong thời gian đầu, doanh thu từ vốn kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn
trong doanh thu của CTCK và tiếp đến là các hoạt động tự doanh, môi giới
thì đến quý I/2004 doanh thu từ hoạt động tự doanh và môi giới chiểm tỷ
trọng đáng kể. Tính đến cuối thánh 12/2003 số lượng tài khoản của các nhà
23
đầu tư mở tại các CTCK lên tới 16.000 trong đó tài khoản của các nhà đầu
tư cá nhân là chủ yếu.

2.3 Thực trạng các hoạt động kinh doanh của Công ty
Sự kiện trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh
khai trương và đi vào hoạt động tháng 7/2000 đã đánh dấu một mốc quan
trọng trong sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam. Bên cạnh hình
thức gián tiếp thông qua các tổ chức tín dụng, giờ đây các doanh nghiệp và
nhà đầu tư còn có thể huy động và đầu tư vốn trực tiếp thông qua TTCK.
Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương là công ty thứ 7 đi vào hoạt
động trên thị trường. Ban đầu Ngân hàng Công Thương dự tính chấp nhận
thua lỗ trong ba năm, nhưng thực tế hoạt động cho thấy kết quả kinh doanh
khá khả quan, công ty liên tục làm ăn có lãi và tăng trưởng cao. Có được
điều này là do sự năng động nhạy bén của ban lãnh đạo công ty cũng như
đội ngũ nhân viên của các phòng ban. Mặt khác công ty cũng nhận được sự
hỗ trợ về con người, phương tiện vật chất kỹ thuật của Ngân hàng Công
Thương Việt Nam và sự quan tâm quan tâm chỉ đạo của Chính phủ tới thị
trường.
24
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 3 năm
(đơn vị tính: triệu đồng)
Năm
Chỉ tiêu
2001 2002 2003
Doanh thu 6.583 16.000
Chi phí HĐKD 1.300 6.700
Chi phí QLDN 2.800 3.200
LN + Lãi vay 2.483 6.100
Lợi nhuận 1.400 2.400 5.700
Nguồn: IBS
Trong đó đối với từng hoạt động được thể hiện như sau:
2.3.1 Phòng môi giới
Làm trung gian thực hiện lệnh mua, bán chứng khoán theo yêu cầu

của khách hàng. Tư vấn giúp khách hàng đưa ra những quyết định mua, bán
hợp lý. Cung cấp kịp thời tới khách hàng những thông tin giao dịch chứng
khoán sau từng phiên giao dịch, thông tin về tài khoản cá nhân khách hàng,
thông tin về các tổ chức niêm yết. Ngoài ra còn tổ chức các buổi thuyết
trình, bình luận xu thế biến động của thị trường, tổng hợp diễn biến giao
dịch trong tuần. Thực hiện lệnh mua bán chứng khoán thông qua hệ thống
các đại lý, qua điện thoại, fax Vì vậy số tài khoản của khách hàng mở tại
công ty tăng hàng năm. Tính đến cuối năm 2003 số tài khoản của khách
hàng mở tại công ty là 2.000 tài khoản chiếm khoảng 10% số lượng tài
khoản trên toàn thị trường. Trong đó có nhiều tài khoản của các tổ chức cá
nhân có vốn đầu tư lớn và giao dịch thường xuyên.
25

×