Nghiên cứu triết học
CÁCH MẠNG THÁNG
MƯỜI NGA VÀ TRIỂN
VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI HIỆN THỰC
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VÀ TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI HIỆN THỰC
PHÙNG VĂN THIẾT (*)
Khẳng định giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga
và triển vọng tươi sáng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong bài viết này, tác
giả tập trung làm rõ tính tất yếu, khách quan, hợp lôgíc và vai trò “đột phá
khẩu” của Cách mạng Tháng Mười Nga; nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; những mâu thuẫn mà chủ
nghĩa tư bản hiện thời không thể giải quyết được; xu hướng vận động trong
những điều kiện mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực từ thực tiễn cải tổ, đổi
mới.
Đã từ rất lâu, trong tâm khảm của những người cách mạng khắp năm châu bốn
biển, Cách mạng Tháng Mười Nga là sự kiện lịch sử vĩ đại, mở ra một thời đại
mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn cầu.
Chính vì thế, hiện nay, từ rất sâu trong tâm khảm của tất cả những ai còn thuỷ
chung với ngọn cờ của Cách mạng Tháng Mười, sự sụp đổ của hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới là một nỗi đau chung, một thất bại cay đắng, khó lòng biện
minh được trước lịch sử nhân loại.
Dẫu vậy, sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã có đủ thời gian và sự tỉnh táo để nhận ra rằng, lỗi
lầm là bởi chúng ta chứ không phải tại Cách mạng Tháng Mười. Bởi vì, trong
tính hiện thực lịch sử của nó, Cách mạng Tháng Mười vẫn, đã, đang và sẽ tiếp
tục giữ một vị trí xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của nó trong thời đại vốn đầy
biến động của chúng ta hôm nay.
1. Như chúng ta đã biết, gần 70 năm sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, cái
"bóng ma" luôn ám ảnh châu Âu đã trở thành hiện thực ở nước Nga bởi một
cuộc cách mạng "Mười ngày rung chuyển thế giới" - Cách mạng Tháng Mười.
Kể từ đó đến nay, nhất là khoảng hai thập kỷ trở lại đây, những kẻ thù đủ loại
của chủ nghĩa xã hội luôn tỏ ra hằn học với Cách mạng Tháng Mười. Họ coi
cuộc cách mạng này nhiều nhất cũng chỉ là "một sai lầm vĩ đại của lịch sử", là
một hiện tượng xã hội chính trị "thuần tuý Nga", thậm chí chỉ là một cuộc
chính biến bạo lực "thuần tuý lêninnít", v.v
Nhưng lịch sử đã chứng minh điều ngược lại. Từ trong bản chất của nó, Cách
mạng Tháng Mười là kết quả hợp lôgíc của sự vận động khách quan của lịch
sử, trước hết là sự vận động tổng hợp của các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa
tư bản đương thời; sau đó là kết quả hợp lôgíc của sự vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác về cách mạng vô sản của V.I.Lênin vào thực tiễn nước Nga những
năm đầu của thế kỷ XX.
Có một sự thật là, cả C.Mác và Ph.Ăngghen, vào thời đại của mình, đều tiên
đoán cách mạng vô sản chỉ có thể nổ ra và giành thắng lợi ở hàng loạt nước tư
bản chủ nghĩa, ít ra cũng là cùng một lúc ở các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển nhất. Nhưng, cũng còn một sự thật khác nữa, đó là việc cả C.Mác và
Ph.Ăngghen, vào những năm cuối đời, bằng việc mục kích những biến thái
mới của hệ thống tư bản chủ nghĩa, đã dự cảm một cách tinh tế rằng, "dù cho
kết cục của chiến tranh có như thế nào chăng nữa, thì cuộc cách mạng ở Nga
đã chín muồi và không bao lâu nữa sẽ bùng nổ ", khi nhìn thấy những tiền đề
cho sự xuất hiện của một kiểu "công xã Nga". Và, đi xa hơn nữa, các ông đã
dự báo: "Một khi tình hình đã dẫn đến cách mạng ở Nga thì bộ mặt của toàn
châu Âu sẽ biến đổi"(1). Nói cách khác, với sự mẫn cảm chính trị đặc biệt
của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiên đoán về sự nảy sinh những khả
năng mới của cách mạng vô sản trong bối cảnh có sự biến động của hệ thống
tư bản chủ nghĩa thế giới.
Trong khi đó, bản thân V.I.Lênin lại rất thận trọng với vấn đề nhạy cảm này. Đơn
giản không phải chỉ vì đây là vấn đề rất mới đối với nước Nga, mà còn vì và chủ
yếu vì, điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi cho một cuộc cách mạng như thế,
nếu nó nổ ra, theo di huấn của C.Mác và Ph.Ăngghen - sự ủng hộ của giai cấp vô
sản đã thắng lợi ở các nước tư bản phát triển - vẫn chưa có.
Chính vì thế, phải mất tới gần 20 năm, trên cơ sở phân tích những hệ quả tất
yếu do sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư
bản, nhất là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin mới có câu trả lời dứt
khoát cho vấn đề hóc búa này. Theo đó, "chủ nghĩa xã hội không thể đồng thời
thắng lợi trong tất cả các nước. Trước hết, nó thắng lợi trong một nước, hoặc
trong một số nước, trong khi các nước khác, trong một thời gian nào đó, vẫn
còn là những nước tư sản hay tiền tư sản"(2).
Chỉ sau đó và trên cơ sở đó, bằng sự phân tích khoa học về thời cuộc, về xã hội
Nga nói chung và sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga nói riêng,
V.I.Lênin mới đi đến kết luận rằng, nước Nga đã trở thành khâu yếu nhất trong
sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản sẽ mở đầu bằng
cuộc cách mạng ở Nga. Ông giải thích: "Những cái làm cho giai cấp vô sản
Nga, trong một thời gian nhất định, có thể là rất ngắn, trở thành con chim đầu
đàn của giai cấp vô sản cách mạng toàn thế giới, thì không phải là những phẩm
chất đặc biệt, mà chỉ là những điều kiện lịch sử đặc biệt thôi. Nước Nga là một
nước nông dân, một trong những nước lạc hậu nhất ở châu Âu. Chủ nghĩa xã
hội không thể ngay lập tức thắng lợi trực tiếp ở đó được…, nên tính chất nông
dân của nước Nga có thể làm cho cuộc cách mạng dân chủ – tư sản ở Nga có
một quy mô rộng lớn và làm cho cuộc cách mạng của chúng tôi trở thành màn
mở đầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới, thành một nấc tiến lên
cuộc cách mạng đó”(3).
Như vậy, có thể nói, lúc đầu xuất hiện với tư cách là kết quả của một tư duy
chính trị nghiêm túc, sáng tạo, phản ánh đúng đắn và tập trung xu hướng vận
động tất yếu của lịch sử tại điểm nút trong tiến trình phát triển tự nhiên của
nhân loại, nhưng ngay sau đó, đến lượt nó, thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười lại trở thành "đột phá khẩu" mở ra cả một thời đại mới.
2. Đương nhiên, vô luận thế nào thì chúng ta vẫn cứ phải quay về với một thực tế
là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới do Cách mạng Tháng Mười mở ra đã sụp đổ.
Và, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc những nguyên nhân dẫn đến thảm kịch
này cũng cho thấy, việc vi phạm những nguyên tắc lêninnít trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội vẫn là nguyên nhân cơ bản nhất.
Theo đó, không thể không lưu ý rằng, rất lâu sau khi Cách mạng Tháng Mười
thành công, V.I.Lênin vẫn luôn trung thành với di huấn của C.Mác và
Ph.Ăngghen về điều kiện bảo đảm thắng lợi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
một nước mà chủ nghĩa tư bản chưa phát triển đầy đủ. Trong các bài phát biểu
nhân kỷ niệm 3 năm Cách mạng Tháng Mười thành công, V.I.Lênin đều nhấn
mạnh vấn đề này. Ông thừa nhận: "Chúng ta đã bắt đầu sự nghiệp của chúng ta
hoàn toàn tin tưởng vào cuộc cách mạng thế giới Chúng ta đã đặt hy vọng
vào cuộc cách mạng thế giới. Chúng ta luôn biết và chúng ta sẽ không bao giờ
quên rằng sự nghiệp của chúng ta là một sự nghiệp quốc tế, và chừng nào trong
tất cả các nước, kể cả những nước giàu nhất và văn minh nhất, cách mạng chưa
nổ ra được thì chừng ấy thắng lợi của chúng ta mới chỉ là thắng lợi một nửa, và
có thể còn kém hơn nữa"(4). Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười sẽ không
thể bền vững "nếu nó không được cuộc cách mạng ở phương Tây ủng hộ.
Muốn đạt tới một thắng lợi bền vững, chúng ta phải đạt được thắng lợi của
cuộc cách mạng vô sản trong tất cả các nước tư bản, hoặc chí ít trong các nước
tư bản chủ yếu"(5).
Thế nhưng, hy vọng đó của V.I.Lênin đã không trở thành hiện thực. Nước Nga
đã phải một mình chiến đấu để tồn tại và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi
đó, chính sách cộng sản thời chiến, sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, đã bắt đầu bộc lộ như một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
cuộc khủng hoảng toàn diện của nước Nga đương đại. Số phận của chủ nghĩa
xã hội ở Nga và do vậy, cả triển vọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế
giới sau này, phụ thuộc một cách quyết định vào quyết sách chính trị mới của
V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga (B). Chính sách kinh tế mới (NEP) ra đời
trong hoàn cảnh ấy và với nó, V.I.Lênin thừa nhận: "Toàn bộ quan điểm của
chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản"(6). Nói cách khác, với
V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích Nga, NEP đã vượt qua ý nghĩa của một giải
pháp tình thế để trở thành một định hướng chiến lược lâu dài, thành rường cột
cho mô hình của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong điều kiện lịch sử mới.
Tuy nhiên, ngay tại quê hương của Cách mạng Tháng Mười, NEP của
V.I.Lênin cũng chưa có cơ hội và thời gian để phát huy tác dụng. Bởi vì, chỉ
một thời gian ngắn sau khi NEP ra đời, triệu chứng của một cuộc chiến tranh
thế giới mới nhằm vào Liên bang xã hội chủ nghĩa Xô viết ngày càng lộ rõ.
Trong bối cảnh nghiệt ngã ấy, cũng như những năm đầu tiên sau Cách mạng
Tháng Mười phải thực hiện chính sách cộng sản thời chiến, Nhà nước Xô viết
không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc áp dụng một cơ chế kế hoạch hoá
tập trung cao - cơ chế cho phép huy động tối đa các nguồn lực để nhanh chóng
biến nước Nga lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp, biểu trưng cho sức
mạnh hiện thực của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trước nguy cơ của một cuộc
chiến tranh xâm lược quy mô lớn đang đến gần.
Vai trò to lớn của mô hình "chủ nghĩa xã hội thời chiến" ở Liên Xô - nếu có
thể gọi như vậy - là không thể phủ nhận. Nhưng đáng tiếc là, trong một thời
gian dài, người ta đã tìm mọi phương cách để duy trì cái mô hình đặc biệt
mang tính lịch sử này như một mô hình của chủ nghĩa xã hội nói chung và đi
liền với nó là việc lãng quên những chỉ dẫn của V.I.Lênin về tính chất chiến
lược, lâu dài của NEP trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghã xã hội. Tình hình
ấy, cộng với những sai lầm chủ quan của các Đảng Cộng sản trên các lĩnh vực
tư tưởng, lý luận và xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa đã trở thành nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội
chủ nghĩa suy yếu và ngày càng lún sâu vào một cuộc khủng hoảng toàn diện
trên phạm vi toàn cầu.
Hơn nữa, bằng sức mạnh của tư duy biện chứng, chúng ta dễ nhận ra có một
cái gì đó rất giống nhau giữa tình cảnh của nước Nga trước khi bước vào giai
đoạn thực hiện NEP với tình cảnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực trước cải tổ,
cải cách và đổi mới. Cũng có một sự tương đồng nào đó giữa NEP của
V.I.Lênin với chiến lược cải tổ, cải cách và đổi mới của các Đảng Cộng sản.
Nhưng, một điều rõ ràng là, đã có sự khác nhau về nguyên tắc trong thái độ
của các Đảng Cộng sản đối với vấn đề hệ trọng này. Hệ luỵ của nó, do đó,
cũng có sự khác nhau về căn bản: sự sụp đổ hay sự phục hồi của chủ nghĩa xã
hội hiện thực. Nói cách khác, cải tổ, cải cách, đổi mới là tất yếu, nhưng sự sụp
đổ không phải là tất yếu. Điều đó cũng có nghĩa là, tương lai và triển vọng của
chủ nghĩa xã hội hiện thực phụ thuộc một cách trực tiếp vào nhân tố chủ quan,
trước hết là vào bản lĩnh chính trị, tầm cao trí tuệ và tính năng động, sáng tạo
của các Đảng Cộng sản trong quá trính cải tổ, cải cách và đổi mới. Bí quyết
của mọi bí quyết cho thành công của công cuộc này, trên phương diện mà
chúng ta đang nghiên cứu, là phải kiên định một cách sáng tạo những nguyên
tắc lêninnít trong NEP. Nhận định trên đây không phải là kết quả suy diễn của một
tư duy tư biện, mà trái lại, đó là một bài học xương máu được rút ra từ thực tế lịch
sử.
3. Mặc dù luôn cần thiết những màn giáo đầu về lý luận, nhưng bản thân các
cuộc cách mạng lại không được thực hiện bởi các đơn đặt hàng.Vì thế, bài học
rút ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, trước hết và trên hết phải là bài
học về phát huy tinh thần cách mạng của quần chúng công nông dưới sự lãnh
đạo của một Đảng Cộng sản chân chính, dũng cảm và không ngừng sáng tạo.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, hệ thống tư bản chủ nghĩa đã bị phá vỡ
một mảng lớn, cục diện trên bản đồ chính trị thế giới, vì thế, đã có sự thay đổi căn
bản. Trong bối cảnh ấy và từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên bang Xô
viết, V.I.Lênin đã tiếp tục hoàn thiện lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, với đề xuất về
những điều kiện bảo đảm cho nó trở thành hiện thực. Trên thực tế, tất cả các nước
lựa chọn sự phát triển xã hội theo con đường này, với những cách thức khác nhau,
đều khai thác, tận dụng những điều kiện ấy.
Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, nhất là trước
những lời tuyên bố hung hăng của các triết gia và chính trị gia tư sản về cái gọi là
"cái chết tất yếu của những cuộc thử nghiệm cộng sản", không ít người tỏ ra nghi
ngờ về tính hiện thực của quá trình phát triển xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, khi cho rằng, những điều kiện bảo đảm cho nó đã mất.
Cần có quan điểm biện chứng trong nhận thức về những điều kiện cần thiết
cho một cuộc chuyển đổi xã hội. Bản thân những điều kiện ấy không phải là
bất biến. Hoàn cảnh lịch sử mới sẽ quy định những điều kiện mới, cần thiết
cho các cuộc chuyển đổi này. Sự thay đổi của những điều kiện không hề xoá
bỏ tính quy luật của sự phát triển xã hội, mà chỉ thay đổi cách thức, bước đi
của nó trong hiện thực mà thôi.
Trong tình hình hiện nay, có thể khả năng thích ứng của chủ nghĩa tư bản là rất lớn
do việc ứng dụng nhanh nhạy các thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, cũng như khả năng mẫn cảm trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội, nhưng khả năng đó là có giới hạn do chính bản chất của xã hội ấy
quy định. Mâu thuẫn cơ bản quy định sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản
không mất đi trong quá trình "điều chỉnh", mà trái lại, ngày càng gay gắt. Thực tiễn
lịch sử đang cho thấy, mỗi bước điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản, trong mối liên hệ
tất yếu của nó, không những không góp phần vào việc giải quyết căn bản các vấn
đề của thời đại, mà còn làm cho những vấn đề ấy trầm trọng thêm. Chế độ tư bản
chủ nghĩa không những không phải là tương lai của nhân loại, mà trái lại, nó đang
dẫn đến một thế giới ''không thể chấp nhận đư[jc". Đây không chỉ là kết luận của
những người cộng sản. Không ít học giả tư sản cũng rút ra kết luận như vậy, khi phân
tích thực trạng và xu hướng phát triển của xã hội tư bản hiện nay(7).
Ngay ở các nước đã diễn ra các cuộc "cách mạng" dưới đủ sắc màu để thủ tiêu chủ
nghĩa xã hội, thì bản thân chủ nghĩa tư bản cũng đang mất dần ánh hào quang giả
tạo ban đầu. Không chỉ các tầng lớp nhân dân, mà ngay cả những người lãnh đạo ở
đây cũng từng bước nhận ra rằng, một mô hình vay mượn của phương Tây không
phải là cứu cánh giúp đất nước họ thoát khỏi các cuộc khủng hoảng ngày càng trầm
trọng. Hệ giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội đã từng bị "đạp đổ" trước đây, giờ
đang trở thành nhu cầu thiết thân của khối quần chúng ngày càng đông đảo. Và,
điều đó cũng có nghĩa là, những người cộng sản chân chính ở đây đang có thêm
những điều kiện thuận lợi để chuẩn bị cho tương lai và triển vọng của chủ nghĩa xã
hội.
Cuối cùng, cũng cần nói thêm một điều là, mặc dù lịch sử không có chỗ cho những
"nếu như", nhưng rất có thể tình cảnh hiện nay của chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ tốt
hơn, nếu như những điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa mà V.I.Lênin đã khái
quát không bị hậu thế tiếp cận và vận dụng với nhiều lệch lạc. Theo đó, tính chất lỗi
thời của chủ nghĩa tư bản thường được đồng nghĩa với việc "bỏ đi" tất cả những gì
thuộc về chủ nghĩa tư bản nói chung; còn bản chất tốt đẹp của chính đảng kiểu mới,
của chủ nghĩa xã hội thì lại thường được xem như một cái gì đó đương nhiên, nhất
thành bất biến. Những chủ trương học hỏi, kế thừa những thành tựu mà loài người
đạt được trong chế độ tư bản chủ nghĩa, một thời gian dài, hoặc là vắng bóng trong
các chương trình nghị sự của chúng ta, hoặc nếu có cũng không được triển khai một
cách nghiêm túc. Đi liền với nó và với sự "giúp sức" của một căn bệnh dễ nhiễm
nhưng khó thấy mà V.I.Lênin đã cảnh báo – “bệnh kiêu ngạo cộng sản” - nên chúng
ta không tin và không muốn tin về những sai lầm, những khuyết tật, những cuộc
khủng hoảng bên trong của chủ nghĩa xã hội. Và, lịch sử đã bắt chúng ta phải trả giá
cho căn bệnh ấu trĩ, tả khuynh ấy. Thêm vào đó, sự ủng hộ quốc tế thường được đồng
nghĩa với sự giúp đỡ một chiều, vô điều kiện và không hoàn lại của các nước xã hội
chủ nghĩa đi trước. Trong khi đó, các nước xã hội chủ nghĩa này, đặc biệt là Liên Xô,
luôn phải căng mình ra để đảm trách vai trò là trụ cột của hoà bình, là thành trì của
cách mạng thế giới, nhưng lại không nhận được sự giúp đỡ cần thiết, tương ứng.
Thực tế cho thấy, đó chính là một "lỗi hệ thống" mà những kẻ thù của chủ
nghĩa xã hội đã sớm phát hiện ra, bám lấy và tìm mọi phương sách, nhất là
phương sách chạy đua vũ trang, để làm cạn kiệt tiềm năng phát triển của nhà
nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh nhất này và qua đó, kéo theo sự khủng
hoảng của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, toàn bộ những vấn đề đã đề cập đến trên đây, tự bản thân nó,
không hề chứng minh cho sự "cáo chung của lịch sử" như kẻ thù của chúng ta
tuyên bố. Trái lại, nó chỉ nói lên rằng, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa là một sự nghiệp vĩ đại, nhưng cũng hết sức khó khăn và
gian khổ. Con đường phát triển chưa từng có tiền lệ trong lịch sử này, do tính
chất đặc biệt của nó quy định, luôn có quyền đòi hỏi cho mình những điều
kiện tương ứng - những điều kiện không những phải phản ánh được hoàn
cảnh cụ thể của mỗi nước, mà còn phải phản ánh được đặc điểm của thời
cuộc ở các giai đoạn khác nhau của lịch sử.
Những điều kiện đó hiện nay, đối với trường hợp Việt Nam, theo quan điểm
của Đảng ta là: "Chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; đảm bảo vững chắc quốc phòng
và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"(8).
Vì thế, cái mất đi sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa không phải là
tính hiện thực của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, mà là những nhận thức còn ấu trĩ và giản đơn của chúng ta về con
đường ấy. Thời đại hiện nay, với tất cả tính chất quanh co và phức tạp vốn có
của nó, vẫn cho thấy, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là một tất yếu không thể đảo ngược. Rất có thể, những thắng lợi liên
tiếp của các lực lượng cánh tả và xã hội chủ nghĩa ở châu Mỹ La tinh vừa qua
sẽ đem lại cho chủ nghĩa xã hội hiện thực những luồng gió mới, những gợi ý
mới. Nhưng, rõ ràng rằng, những thành tựu to lớn về nhiều mặt của các nước
xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam, đã, đang và sẽ tiếp tục là động
lực mới cho xu hướng phát triển này của thế giới trong thời đại hiện nay./.
(*) Đại tá, phó giáo sư, tiến sĩ, Chủ nhiệm Khoa Triết học, Học viện Chính trị
– Quân sự.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 19. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002, tr. 181, 171.
(2) V.I.Lênin. Toàn tập, t. 30. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 173.
(3) V.I.Lênin. Sđd., t.31, tr. 110 – 111.
(4) V.I.Lênin. Sđd., t.42, tr. 2- 4.
(5) V.I.Lênin. Sđd., t.42, tr. 25.
(6) V.I.Lênin. Sđd., t.45, tr. 428.
(7) Xem: Rône Duymông. Một thế giới không thể chấp nhận được. Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1990.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 69.