Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

nghiên cứu triết học công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở việt nam một số vấn đề đặt ra và hướng giải quyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 17 trang )








Nghiên cứu triết học
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM: MỘT SỐ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT

















CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở
VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT


TRẦN ĐẮC HIẾN (*)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
Cụ thể là: 1. Chưa thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng hiện
đại; 2. Tạo ra áp lực lớn về việc làm cho nông dân bị thu hồi đất canh tác; 3. Làm
gia tăng sự phân hoá giàu nghèo; 4. Gây ô nhiễm môi trường,… Trên cơ sở đó,
tác giả luận chứng những biện pháp cần thiết để giải quyết, khắc phục những vấn
đề nảy sinh nhằm nâng cao hiệu quả của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn.
Hiểu một cách chung nhất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình phát triển
sản xuất và quản lý kinh tế, xã hội dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học – công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Ngày nay,
quá trình công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là con đường tất yếu để phát triển của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
những nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam.
Ở Việt Nam, chủ trương công nghiệp hoá lần đầu tiên được đưa ra tại Đại hội
lần thứ III của Đảng (năm 1960), với quan điểm: xây dựng một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa cân đối, hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công
nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,
đồng thời phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một
nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại. Quan điểm này
tiếp tục được khẳng định tại Đại hội lần thứ IV (năm 1976) và thời gian hoàn
thành xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa cũng được xác định cụ thể, đó
là sau khoảng 20 năm. Tuy nhiên, sự nóng vội trong việc xác định bước đi cũng
như sai lầm trong sự lựa chọn ưu tiên giữa công nghiệp và nông nghiệp đã dẫn
đến những khó khăn trầm trọng về kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước. Với
tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đại
hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã nghiêm khắc chỉ ra những hạn chế, sai lầm
trong chủ trương thực hiện công nghiệp hoá những năm 1976 - 1980; đồng thời,
chỉ ra nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong chặng đường tiếp theo. Đến Đại
hội lần thứ VII (1991), việc chuẩn bị tiền đề để chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được hoàn thành cơ bản. Đặc biệt, tại
Đại hội lần thứ IX (2001), Đảng đã thông qua Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, trong đó
lấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn làm trọng tâm. Đại
hội lần thứ X của Đảng (năm 2006) tiếp tục khẳng định: “đẩy mạnh hơn nữa
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ
các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân”(1).
Đến nay, việc thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn đã đạt được những thành tựu đáng kể, tạo sự chuyển biến tích cực
trong kinh tế nông thôn cũng như trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, đồng thời kéo theo nhiều đổi thay ở các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội nông thôn. Mặc dù vậy, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc thể hiện sự bất
cập, hạn chế của quá trình này cũng đã xuất hiện và có diễn biến phức tạp, đòi
hỏi phải được nhận thức và giải quyết. Cụ thể là:
Thứ nhất, về cơ bản, quá trình công nghiệp hoá hiện còn chưa thúc đẩy sự phát
triển của nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Theo quy luật, trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, cùng với sự phát
triển kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp sẽ chuyển dần từ thuần trồng trọt, sản
xuất lương thực sang đa dạng hoá cây trồng, rồi đa dạng hoá sản xuất nông
nghiệp, tỷ trọng chăn nuôi, thuỷ sản, cây ăn quả, cây công nghiệp tăng dần;
trong cơ cấu kinh tế nông thôn, tỷ trọng các ngành nghề phi nông nghiệp cũng
dần chiếm ưu thế. Nhưng thực tế phát triển ở nước ta thời gian qua cho thấy,
việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn diễn ra rất chậm chạp, chủ yếu dưới
dạng làng nghề, phân tán rải rác khắp nơi với quy mô nhỏ và công nghệ đơn
giản. Nguyên nhân chủ yếu là do, trong nhiều năm, hầu như mọi nguồn lực ở
các địa phương đều tập trung cho công nghiệp hoá, mà có phần xem nhẹ hoặc
đầu tư chưa thoả đáng cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nói cách khác,

công nghiệp hoá đã góp phần đô thị hoá nông thôn nhiều hơn là hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn. Một số năm gần đây, Chính phủ đã có nhiều cố gắng
tăng mức ngân sách đầu tư phát triển nông thôn (nông lâm nghiệp, thuỷ lợi, giao
thông nông thôn, điện sinh hoạt ), song nhìn chung tỷ trọng còn thấp so với
tổng đầu tư xã hội và nhà nước. Điều đó dẫn đến cơ sở hạ tầng nông thôn còn ở
mức thấp kém, khoa học - kỹ thuật chậm phát triển. Mặc dù Chính phủ khuyến
khích sự hợp tác giữa “bốn nhà” (Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và nhà
doanh nghiệp) trong quá trình phát triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá hiện
đại, nhưng trên thực tế, sự hợp tác này vẫn chưa có hiệu quả. Trong khoảng 15
năm gần đây, một số thành tựu công nghệ sinh học đã được ứng dụng trong sản
xuất nông nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt), song còn hạn chế về quy mô, mức độ
và do vậy, chưa thực sự nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của
sản phẩm hàng hoá nông nghiệp trên thị trường; việc cơ giới hoá cũng được áp
dụng trong sản xuất nông nghiệp, nhưng lao động thủ công vẫn phổ biến và
chiếm khoảng 70%.
Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã góp phần
thúc đẩy sự ra đời và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị.
Tuy nhiên, không thể không tính đến một mặt trái là quá trình đó làm giảm số
lượng đất sản xuất nông nghiệp, làm tăng số nông dân không có đất canh tác,
dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng lớn, tạo ra áp lực về lao động, việc làm
ở nông thôn. Ở những tỉnh có tốc độ công nghiệp hoá nhanh, các khu công
nghiệp ra đời hàng loạt, đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng sang
phát triển công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng nhiều. Theo báo
cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường về thực hiện Kế hoạch sử dụng đất giai
đoạn 2001 - 2005, tổng diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi để chuyển sang đất
phi nông nghiệp trên địa bàn toàn quốc là 366,44 nghìn ha (chiếm 3,89% đất
nông nghiệp đang được sử dụng), trong đó diện tích đất trồng lúa đã thu hồi để
xây dựng các khu công nghiệp là 15.383 ha, xây dựng đô thị là 70,322 ha, xây
dựng hạ tầng là 136,175 ha. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi phần lớn là
vùng đất tốt, có cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc canh tác, lại tập trung vào một

số xã có mật độ dân số cao, trong đó có xã bị thu hồi 70 - 80% tổng diện tích đất
canh tác(2). Kết quả tổng hợp từ các địa phương cho thấy, có khoảng 10 - 20%
số hộ bị thu hồi 100% đất sản xuất, khoảng 20% số hộ bị thu hồi 2/3 đất sản
xuất, còn lại khoảng 60% số hộ bị thu hồi 1/2 diện tích. Trung bình mỗi hộ nông
dân có khoảng 1,5 lao động và mỗi ha đất thu hồi sẽ ảnh hưởng tới việc làm của
trên 10 lao động nông nghiệp. Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp trong
những năm qua đã ảnh hưởng tới đời sống của 627.495 hộ gia đình, khoảng
950.000 lao động và 2,5 triệu nông dân(3). Khi ruộng đất bị Nhà nước thu hồi để
sử dụng vào mục đích phát triển công nghiệp, các thành viên của nhiều gia đình
nông dân trở thành thất nghiệp ngay trên quê hương mình và sống dựa vào số
tiền đền bù đất bị thu hồi. Do không có kế hoạch đầu tư cho việc học nghề, tạo
việc làm mới nên số tiền đền bù rồi cũng bị tiêu dùng hết, người nông dân lại đổ
ra thành phố kiếm việc làm thuê, làm mướn
Những năm qua, công tác giải quyết việc làm cho lực lượng lao động thất
nghiệp thuộc khu vực nông nghiệp và nông thôn chưa được các cấp, các ngành
chức năng quan tâm đúng mức, vì tư tưởng cho rằng đó là việc của nông dân và
chính quyền địa phương. Việc thu hút lao động tại chỗ vào làm việc tại các khu
công nghiệp được xác định là ưu tiên số một, là trách nhiệm của các ngành, các
cấp và nhất là các địa phương có khu công nghiệp, là nghĩa vụ của các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp, nhưng trên thực tế chưa giải quyết được bao
nhiêu. Tỉ lệ nông dân và con em của họ vào làm việc ở các doanh nghiệp trong
các khu, điểm công nghiệp rất thấp, chỉ khoảng 15 - 20%. Tình trạng thất nghiệp
trong nông dân đang trở nên phổ biến và là vấn đề xã hội cấp thiết cần được các
ngành chức năng quan tâm giải quyết, nếu không sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn
định xã hội không chỉ ở khu vực nông thôn, mà cả khu vực thành thị.
Bên cạnh đó, việc phát triển các khu công nghiệp vừa góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng đất, song cũng có phần làm lãng phí đất đai. Rõ ràng là, trên cùng
một diện tích đất, đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ đem lại
hiệu quả cao hơn nhiều so với sản xuất thuần nông. Bình quân 1 ha đất nông
nghiệp chỉ sử dụng 4 - 5 lao động, tạo ra giá trị kinh tế khoảng 10 triệu

đồng/năm; trong khi đó, cũng với diện tích này, các khu công nghiệp, khu chế
xuất sử dụng từ 80 - 100 lao động, tạo ra khoảng 30 tỷ đồng/năm. Tuy nhiên,
việc lãng phí đất đai do tình trạng quy hoạch “treo” quá lâu, dự án thiếu tính khả
thi, hoặc không thể lấp đầy quá 60% diện tích là khá phổ biến. Theo thống kê
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 6/2007, cả nước đã có 148 khu công
nghiệp, khu chế xuất (145 khu công nghiệp và 3 khu chế xuất) với tổng diện tích
đất tự nhiên là 32.120 ha, được phân bố trên 49 địa phương. Tuy nhiên, mới chỉ
có 90 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên là
19.790 ha, 58 khu công nghiệp đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng
và xây dựng cơ bản(4). Nhiều khu công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy rất thấp. Chẳng
hạn, khu công nghiệp Tân Hương (Tiền Giang) rộng 197 ha, từ năm 2004 đến
nay mới cho thuê được 1ha; khu công nghiệp Nam Đông Hà (Quảng Trị) rộng
99 ha, từ năm 2004 đến nay mới cho thuê được 3 ha; khu công nghiệp Ninh
Phúc (Ninh Bình) rộng 334 ha, từ năm 2003 đến nay mới cho thuê được 48 ha
Trong khi đất khu công nghiệp bị bỏ hoang hoá thì người nông dân lại trở thành
“tha nhân”, không có đất để sản xuất. Tất cả những cái đó dễ gây tâm lý ức chế,
bất bình trong nông dân khi có sự tác động khách quan hoặc chủ quan.
Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và đang góp phần thúc đẩy tốc độ
phân hoá giàu nghèo ở nông thôn. Do kinh tế nông thôn chủ yếu vẫn là nông
nghiệp (khoảng 75% GDP nông thôn là từ nông nghiệp) nên thu nhập của nông
dân tăng chậm. Chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa dân cư nông thôn với
thành thị và giữa các vùng nông thôn đang doãng ra khá mạnh. Nếu như trong
thời kỳ bao cấp, chênh lệch về thu nhập ở nông thôn là không đáng kể, hầu như
chưa có sự phân hoá giàu nghèo, thì khi chuyển sang cơ chế thị trường, định
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với những tác động của các quy luật
sản xuất hàng hoá và thị trường, quá trình phân hoá giàu nghèo ở khu vực nông
thôn đã diễn ra với tốc độ khá nhanh. Khoảng cách giữa thu nhập của nhóm hộ
giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất ngày càng lớn. Mức chênh lệch này ở miền
Bắc và miền Trung thấp hơn so với miền Nam và Tây Nguyên. Nếu phân chia
thu nhập của số hộ nông dân thành 5 nhóm, mỗi nhóm chiếm 20% thì thu nhập

của nhóm hộ giàu sẽ gấp 6 - 7 lần thu nhập của nhóm hộ nghèo. Dân số ở nông
thôn chiếm khoảng 80% dân số cả nước, nhưng thu nhập chỉ bằng một nửa tổng
thu nhập quốc dân của 20% dân số sống ở thành thị. Sự phân hoá giàu nghèo làm
cho một bộ phận nông dân không đủ tiền chi trả những dịch vụ y tế, giáo dục,
không có điều kiện nâng cao trình độ nhận thức về chính trị, xã hội, về đời sống
văn hoá tinh thần
Sự phân hoá giàu nghèo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường là điều
không thể tránh khỏi. Sự phân hoá này có ý nghĩa tích cực nhất định đối với sự
phát triển kinh tế. Bởi vì, nó kích thích các cá nhân phải phát huy tính chủ động,
sáng tạo, làm việc chăm chỉ, cần mẫn và tìm cách vươn lên làm giàu, tăng thu
nhập, nâng cao mức sống của mình để tránh rơi vào tình trạng đói nghèo. Do
vậy, trên một ý nghĩa nhất định, sự phân hoá giàu nghèo hợp lý là một biểu hiện
của công bằng xã hội được thiết lập, là một động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Nó kích thích người lao động tự nâng cao địa vị xã hội, mức sống… bằng chính
năng lực của bản thân họ. Điều này khác hẳn với sự cào bằng thu nhập trong
thời kỳ bao cấp dẫn đến triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, vì kẻ lười nhác và
người chăm chỉ, kẻ bất tài và người có năng lực đều được hưởng kết quả gần
như ngang nhau. Tuy nhiên, sự phân hoá giàu nghèo ở nông thôn đang tiểm ẩn
nguy cơ dẫn đến những phân hoá xã hội sâu sắc hơn về lối sống và vị thế xã hội,
về đẳng cấp và giai tầng; tiềm ẩn nguy cơ làm nảy sinh và gia tăng các mâu
thuẫn xã hội, làm xói mòn và suy giảm quan hệ gắn kết cộng đồng làng xã vốn rất
bền vững. Hiện nay, sự phân hoá giàu nghèo ở nông thôn nước ta chưa gay gắt đến
mức trở thành nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp làm nảy sinh các mâu thuẫn xã hội.
Nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời, nó sẽ là một nhân tố có khả năng dẫn
đến các xung đột, gây bất ổn định xã hội.
Thứ tư, một mặt trái khác của công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, đó là làm
ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của cộng đồng dân
cư ở nông thôn. Những năm qua, hoạt động của nhiều nhà máy trong các khu
công nghiệp đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Hiện nay, tình trạng ô
nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp đang có những diễn biến hết sức phức

tạp. Do các nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhiều doanh nghiệp chưa chú
trọng đúng mức nhiệm vụ bảo vệ môi trường, các chất độc hại được thải trực
tiếp ra môi trường xung quanh mà không qua xử lý, hoặc có xử lý nhưng không
đảm bảo yêu cầu về an toàn môi trường. Nhìn chung, hầu hết các khu công
nghiệp trên cả nước chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về môi trường theo
quy định. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2006, trong
số 134 khu công nghiệp hiện đang hoạt động, chỉ có 33 khu công nghiệp đã xây
dựng xong công trình xử lý nước thải tập trung, 10 khu công nghiệp đang xây
dựng, còn lại 91 khu công nghiệp chưa có công trình xử lý nước thải(5). Bình
quân một ngày đêm các khu công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn,
lỏng, khí và chất thải độc hại khác. Điều này làm cho cộng đồng dân cư nơi có
khu công nghiệp đang hoạt động và các cộng đồng dân cư lân cận phải đối mặt
với tình trạng ô nhiễm môi trường; từ đó, gây bất bình, dẫn đến những phản ứng
và đấu tranh quyết liệt của nông dân. Nhiều nơi, hàng trăm người dân tập trung
để phản đối, thậm chí có hành động quá khích cản trở hoạt động của các nhà
máy gây ô nhiễm môi trường, không cho lập bãi đổ chất thải, rác thải gần khu
vực dân cư sinh sống. Có lúc mâu thuẫn này bùng phát gay gắt, trở thành “điểm
nóng” về an ninh trật tự. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã quy định, người
gây ô nhiễm phải bồi thường thiệt hại, nhưng cho đến nay vẫn chưa có những
hướng dẫn cụ thể về xác định thiệt hại, giám định thiệt hại để làm căn cứ đòi bồi
thường, buộc các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường phải chịu trách nhiệm
về hậu quả do mình gây ra. Nếu hoạt động gây ô nhiễm môi trường trên đây
không được ngăn chặn, khắc phục kịp thời, kiên quyết sẽ tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ
thành các xung đột gay gắt giữa cộng đồng dân cư ở nông thôn với doanh nghiệp,
cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Thứ năm, mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang tác động
tiêu cực đến đời sống văn hoá, tinh thần của cộng đồng dân cư ở nông thôn.
Nông thôn truyền thống là nơi phát sinh và lưu giữ nền văn hoá truyền thống của
dân tộc. Văn hoá truyền thống, xét cho cùng, là nhân tố quan trọng của sự phát
triển kinh tế - xã hội bền vững. Tuy nhiên, những năm qua, dưới tác động do

những mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá và nền
kinh tế thị trường, nhiều giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống tốt đẹp ở nông
thôn đã và đang bị xâm hại, làm biến dạng, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn
hoá tinh thần của cộng đồng dân cư ở nông thôn. Một bộ phận nông dân bị tha
hoá về đạo đức, bắt đầu có dấu hiệu của lối sống thực dụng, coi trọng vật chất
hơn tình nghĩa, chạy theo lợi nhuận đơn thuần mà không tính đến lợi ích của
người khác hoặc của cộng đồng. Quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng
làng xã vốn hồn nhiên và chân chất dần bị chi phối bởi sự tính toán hơn thiệt.
Thậm chí, đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột nghiêm trọng giữa
anh em, bà con ruột thịt chỉ vì những lợi ích vật chất thuần tuý.
Trong những năm qua, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ,
cùng với sự xuất hiện nhiều thị trấn, thị tứ, những trục đường giao thông mới ở
các vùng nông thôn. Sự thay đổi này tác động mạnh mẽ tới an ninh trật tự ở
nông thôn. Đời sống vật chất được cải thiện, sự phát triển của các phương tiện
nghe nhìn… đã tạo điều kiện cho một bộ phận trong nông dân, nhât là số thanh
niên lười biếng, “học đòi” trở nên hư hỏng. Nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội
đã xuất hiện và đang có diễn biến phức tạp. Các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ
bạc, số đề, mê tín dị đoan, mại dâm cũng có chiều hướng gia tăng, đang tàn phá
sự bình yên của xã hội nông thôn và các gia đình nông dân. Một số loại tội phạm
nguy hiểm trước đây chưa từng xảy ra ở nông thôn thì nay đã xuất hiện và diễn
biến phức tạp trên diện rộng. Những phần tử này thường kích động, gây rối trật
tự công cộng,
Ngoài ra, những rủi ro trong làm ăn kinh tế, những bất hạnh trong cuộc sống của
người nông dân cũng là một trong những lý do khiến các hoạt động mê tín dị
đoan có chiều hướng gia tăng, nhiều hủ tục lạc hậu được khôi phục, phát triển ở
nông thôn. Những hiện tượng này đôi khi hoà lẫn vào trong các hoạt động tôn
giáo, tín ngưỡng. Đặc biệt, nạn “buôn thần, bán thánh” xảy ra khá phổ biến trong
đời sống tôn giáo - tín ngưỡng và trong một số lễ hội làng. Những hiện tượng này
không những làm giảm tính thiêng liêng, sự trong sáng của các sinh hoạt văn hoá,
tôn giáo và tín ngưỡng cộng đồng, mà còn tác động tiêu cực đến đời sống văn hoá

tinh thần ở nông thôn.




CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN Ở VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG GIẢI
QUYẾT (Tiếp theo)

TRẦN ĐẮC HIẾN (*)

Trong những năm tới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
sẽ tiếp tục làm biến đổi mạnh mẽ thể chế kinh tế, cơ cấu xã hội, cục diện
lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp, các vùng miền trên cả nước; đồng thời
kéo theo sự biến đổi sâu sắc về quan niệm và tư tưởng trong các tầng lớp
dân cư nông thôn. Sự biến đổi này, một mặt, đem lại sức sống mạnh mẽ
cho phát triển kinh tế - xã hội nông thôn; mặt khác, sẽ tiếp tục có những
tác động tiêu cực đối với nông thôn như đã phân tích trên đây. Để khắc
phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập đó, cần thực hiện đồng bộ, hiệu
quả một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai và việc bồi
thường, hỗ trợ tái định cư và tạo việc làm cho nông dân khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp để sử dụng cho các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế. Những năm qua, hệ
thống pháp luật về đất đai cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo
được khuôn khổ pháp lý quan trọng để các địa phương vận dụng vào thực
tiễn. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện đã và đang bộc lộ một số
hạn chế bất cập, cần được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Những vấn đề nổi
cộm là: thuế sử dụng đất và thuế thu nhập cá nhân từ chuyển quyền sử
dụng đất; trình tự, thủ tục bồi thường, khung giá đất bồi thường, nhất là giá

đền bù tối thiểu đối với đất nông nghiệp, gắn với chính sách tái định cư,
giải quyết việc làm, bảo đảm đời sống của nông dân không còn hoặc còn ít
đất sản xuất; việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về đất đai; sự thống
nhất trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất đai.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện
và kiên quyết xử lý nghiêm túc, triệt để những tổ chức, cá nhân có hành vi
tiêu cực, tham nhũng, vi phạm luật đất đai nhằm tăng cường giáo dục, răn
đe đối với những người khác, đồng thời củng cố lòng tin trong nhân dân
vào tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hai là, các Bộ, ngành chức năng cần đẩy mạnh công tác quy hoạch, quản
lý các khu công nghiệp trên phạm vi cả nước nhằm khai thác và sử dụng có
hiệu quả quỹ đất cũng như lực lượng lao động tại chỗ; hạn chế đến mức
thấp nhất việc sử dụng đất nông nghiệp của nông dân để xây dựng khu
công nghiệp. Việc lập quy hoạch các dự án chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp phải được tính toán một cách toàn diện, phù hợp với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của từng vùng và cả
nước. Gắn quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp với phát triển các ngành
nghề, đặc biệt là phát triển các ngành nghề truyền thống của địa phương để
tạo thêm nhiều việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn.
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần tăng cường chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm
tra hoạt động của các doanh nghiệp sau khi đã được duyệt dự án và cấp đất
nhằm đảm bảo thực hiện đúng tiến độ, đúng dự án đã được duyệt; kiên quyết
thu hồi đối với những trường hợp sử dụng đất sai mục đích, như cho thuê lại,
chuyển nhượng, đầu cơ đất, buôn bán đất hoặc để hoang hoá gây lãng phí.
Ba là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, gắn phát triển kinh tế với giải quyết việc làm, ổn định đời sống người
nông dân. Trước hết, tập trung tổ chức lại và nhanh chóng chuyển nền
nông nghiệp sản xuất nhỏ dựa trên lao động thủ công, kỹ thuật và công
nghệ lạc hậu sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có quy mô hợp lý và

dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ sinh học.
Tích cực đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào phục vụ sản xuất nông nghiệp
nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất lao động nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, cải thiện đời sống của nông dân, giúp nông dân vươn lên thoát nghèo.
Muốn vậy, Chính phủ cần có sự đầu tư thoả đáng cho phát triển nguồn lực
khoa học - công nghệ nhằm tìm ra giải pháp cải tạo, bồi dưỡng độ phì
nhiêu của đất đai, nâng cao hiệu quả sản xuất của đất nông nghiệp; cải tạo
các giống cây trồng, vật nuôi thích hợp với điều kiện tự nhiên của từng
vùng, miền nhằm nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm hàng hoá
nông nghiệp. Thực tiễn và lý luận đều chỉ ra rằng, nguồn tài nguyên tự
nhiên là hữu hạn và đang cạn dần, không thể khai thác “giá trị thặng dư tương
đối”(6) được mãi. Muốn lấy đi nhiều hơn từ nông nghiệp mà vẫn để lại cho
nông dân đủ để tự tái sản xuất mở rộng thì phải chuyển sang khai thác “giá trị
thặng dư tuyệt đối”(7) bằng cách đầu tư khoa học - công nghệ vào sản xuất,
đưa nông nghiệp và nông thôn phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn cần được kết
hợp đồng bộ với chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực ở khu vực này. Muốn vậy, cần khuyến khích phát triển các
doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; phát triển các
hợp tác xã hoạt động theo Luật Hợp tác xã; phát triển các hộ kinh doanh cá
thể, các làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề ở nông thôn. Trong đó, ưu tiên
phát triển những doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công truyền thống, doanh
nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực như chế biến nông sản, thực phẩm,
cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (máy nông cụ,
giống cây, con, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật), doanh nghiệp đầu tư vào
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, doanh nghiệp thu hút nhiều lao động
và giải quyết nhiều việc làm cho lực lượng lao động nông nghiệp tại chỗ,
để người nông dân có điều kiện “ly nông bất ly hương”. Bên cạnh đó, các
địa phương cần chủ động hơn trong việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng

ưu đãi của Nhà nước để tổ chức đào tạo nghề, hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo
thêm nhiều việc làm cho người nông dân có đất bị thu hồi.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp về bảo vệ môi trường ở
các khu công nghiệp. Đến nay, khung pháp lý về vấn đề bảo vệ môi trường
trong khu công nghiệp nói riêng và trên cả nước nói chung đã và đang
được hoàn thiện, đặc biệt là sự ra đời của Luật Bảo vệ môi trường năm
2005 (sửa đổi) có hiệu lực vào 1/7/2006, cùng với một số văn bản hướng
dẫn thi hành đã bước đầu phát huy tác dụng tích cực nhất định trong việc
quản lý và bảo vệ môi trường. Song, nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được
đòi hỏi của thực tiễn. Để việc bảo vệ môi trường thật sự đạt hiệu quả, thực
hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2010, tất cả các khu công nghiệp, khu chế
xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung, Nhà nước cần đẩy mạnh hơn
nữa việc xây dựng và ban hành các quy định chế tài pháp lý trong việc
quản lý môi trường, có những chế tài mang tính bắt buộc cao đối với chủ
đầu tư trong việc xây dựng các công trình xử lý chất thải. Bên cạnh đó, cần
tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kịp thời phát hiện và kiên quyết xử
lý nghiêm theo pháp luật các doanh nghiệp không thực hiện đúng các cam
kết về bảo vệ môi trường.
Năm là, chú trọng nghiên cứu và vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của các
nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Thực tế cho thấy, nhờ áp dụng phương thức phù hợp và có
hiệu quả, một số nước nông nghiệp lạc hậu, chậm phát triển đã tiến hành
công nghiệp hoá thành công để trở thành nước công nghiệp phát triển chỉ
trong vòng vài thập niên. Chẳng hạn, Nhật Bản với phương châm “nông
nghiệp phát triển tạo đà công nghiệp hoá” đã gắn kết hài hoà giữa nông
nghiệp, nông thôn với công nghiệp và đô thị trong quá trình công nghiệp
hoá. Hàn Quốc với phương châm “công nghiệp đi trước, nông nghiệp theo
sau” đã chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn
phá nặng nề sang nền kinh tế công nghiệp chỉ trong vòng 20 năm. Đài

Loan và Trung Quốc cũng đã đúc kết được những bài học trong tiến trình
công nghiệp hoá nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng,
v.v Từ kinh nghiệm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các nước,
các vùng lãnh thổ này, chúng ta có thể rút ra những bài học hữu ích để vận
dụng vào điều kiện cụ thể của đất nước nhằm nâng cao hiệu quả, rút ngắn
thời gian công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời hạn chế những tác động
tiêu cực của quá trình này.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một
chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, là vấn đề có tính quy luật và
là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo
của Đảng, cùng với sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân và sự đồng
thuận xã hội cao, trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ trở thành một
nước công nghiệp phát triển với một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh và
một nông thôn văn minh, giàu đẹp, mang đậm bản sắc dân tộc. Trước mắt,
việc khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đối với nông thôn, nông nghiệp, nông dân như đã phân tích
trên đây phải được coi là vấn đề cấp thiết và là một nhiệm vụ trọng yếu của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hiện nay.r

(*) Thạc sĩ, Văn phòng Chính phủ.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 29.
(2) Xem: Bộ Tài nguyên và Môi trường. Báo cáo về thực hiện kế hoạch sử
dụng đất giai đoạn 2001 – 2005. Hà Nội.
(3) Xem: Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Hội thảo
“Nông dân bị thu hồi đất – thực trạng và giải pháp”, Hà Nội, tháng 5 –
2007.
(4) Xem: Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Tình hình hoạt động của các khu công
nghiệp cả nước đến tháng 6 năm 2007, Hà Nội.

(5) Xem: Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Báo cáo tình hình hoạt động của khu
công nghiệp, khu chế xuất năm 2006, Hà Nội.
(6) Đó là phương pháp kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian cần
thiết để làm ra của cải bù đắp nhu cầu của người sản xuất - Lấy đi nhờ làm
thêm giờ, tăng sức lao động.
(7) Là phương pháp áp dụng công nghệ, giảm chi phí lao động cần thiết để
sản xuất một đơn vị sản phẩm, giảm thời gian lao động cần thiết để bù đắp
nhu cầu của người sản xuất - Giá trị gia tăng nhờ tăng năng suất lao động.


×