Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Luận văn " Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp của các doanh nghiệp Việt Nam " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.78 KB, 103 trang )


1



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu các
mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực
công nghiệp của các doanh nghiệp
Việt Nam

2

MỤC LỤC

Chương I : Một số vấn đề cơ bản liên quan đến các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực trong lĩnh vực Công nghiệp của các doanh nghiệp Việt Nam.
I. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và tầm quan trọng của mặt hàng xuất
khẩu chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp
1. Khái niệm
2. Đặc điểm
3. Ý nghĩa và tầm quan trong
4. Hiệu quả xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực

II. Vai trò các hoạt động xuất khẩu và mặt hàng công nghiệp chủ lực đối
với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam.
1. Tạo nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu phục vụ quá trình công nghiệp
hoá và hiện đại hoá đất nước.
2. Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3. Giải quyết công ăn việc làm, giám tỷ lệ thất nghiệp và các vẫn đề xã


hội khác.
4. Là cơ sở để đẩy mạnh, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Chương II : Thực trạng và khả năng mở rộng hoạt động xuất khẩu các mặt
hàng công nghiệp chủ lực
I. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực
1. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu dầu thô
1.1. Tình hình khai thác
1.2. Tình hình xuất khẩu
2. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may
2.1. Thực trạng sản xuất

3

2.2 Thực trạng xuất khẩu
3. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng điện tử
4. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu giầy dép Việt Nam
5. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu của ngành công nghiệp chế biến.
6. Thực trạng sản xuất và xuất khẩu vật liệu xây dựng.
II. Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu và các mặt hàng công nghiệp
chủ lực của Việt Nam
1. Về tốc độ tăng trưởng và quy mô hoạt động.
2. Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
3. Về cơ cấu thị trường xuất khẩu
Chương III. Định hướng chung và các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu các
mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam trong những năm tới.
I. Định hướng chung nhằm phát triển mặt hàng công nghiệp xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam.
1. Quan điểm mục tiêu và nhiệm vụ của xuất khẩu.
2. Định hướng phát triển mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực cảu
Việt Nam trong những năm tới

3. Định hướng thị trường mục tiêu
II. Một số kinh nghiệm quốc tế trong việc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực.
Kinh nghiệm xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực của một số nước
Đông Á kể từ khi bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá đến nay.
1. Trung quốc
2. Đài Loan
3. Ấn Độ
III. Giải pháp nhằm phát triển mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt
Nam trong những năm tới.
A. Giải pháp mang tính vĩ mô

4

1.Giải pháp phát triển và mở rộng nguồn hàng chủ lực cho xuất khẩu
2. Giải pháp tác động hỗ trợ nhằm tạo và mở rộng thị trường đầu ra co
hàng xuất khẩu chủ lực.
B. Giải pháp mang tính vi mô
1. Tổ chức tốt việc nghiên cứu mở rộng và phát triển thị trường.
2. Cần đa dạng hoá chủng loại hàng hóa xuất khẩu.
3. Nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản
phẩm, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm Việt Nam.
4. Đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao trình độ cán bộ, công nhân viên.
6. Đảm bảo khâu lưu thông vận chuyển để giao hàng đúng yêu cầu.
7. Phối hợp chặt chẽ với Nhà nước đặc biệt là Bộ thương mại.
8. Các doanh nghiệp cần phối hợp với nhau nhằm thu được hiệu quả tối
đa khi xuất khẩu hàng hóa.
Kết luận.

5


LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngoại thương đóng góp một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
của mỗi quốc gia. Làn sóng toàn cầu hoá, khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ.
Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng có không ít khó khăn và những biến động
phức tạp không ngừng xẩy ra.
Để đất nước vững mạnh đi lên, chúng ta cần phải có một cái nhìn tổng
thể tình hình thế giới, cần có một chiến lược phát triển cụ thể, lâu dài và quan
trọng là nắm bắt kịp thời những thay đổi có tính chất bước ngoặt để tránh nguy
cơ tụt hậu so với các nước trên thế giới.
Đó luôn luôn là mục tiêu mà chúng ta phải theo đuổi.
Trong tình hình hiện nay để thực hiện việc đó chúng ta cần phải có một
nguồn lực. Đó chính là nguồn vốn để phát triển kinh tế đất nước. Một trong
những nguồn vốn quan trọng là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu. Có một thực
tế là các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hầu hết là các mặt hàng nông sản,
hàng có giá trị thấp. Trong khi đó các nền kinh tế lớn đều trung tập trung vào
sản xuất các mặt hàng có hàm lượng giá trị gia tăng cao làm cho xu hướng giá
cả cánh kéo ngày càng doãng ra.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để hoạt động xuất khẩu đem lại hiệu
quả cao nhất. Bên cạnh việc tiếp tục duy trì các mặt hàng xuất khẩu truyền
thống, phải tận dụng những lợi thế sẵn có phát triển những ngành hàng mới,
ngành hàng công nghiệp có giá trị góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
đất nước thao hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Bởi tính cấp thiết của vấn đề và bởi một thực tế là các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực ngày càng đóng góp một phần to lớn cho sự phát triển của đất nước nên

6


người viết đã lựa chọn đề tài : Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ
lực trong lĩnh vực công nghiệp của các doanh nghiệp Việt Nam cho bài luận của
mình.
2. Mục đích và ý nghĩa
* Mục đích
Khoá luận này nhằm phân tích và tìm hiểu những lợi thế mà các doanh
nghiệp Việt Nam có được trong việc sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng công
nghiệp chủ lực. Bên cạnh đó, nó cũng đưa ra được một số những thông tin bổ
ích cho các doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu những thị trường tiềm năng cũng
như những cơ hội mới cho việc phát triển các ngành hàng này.
* Ý nghĩa
Thông qua việc nghiên cứu đưa ra các giải pháp để đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu các mặt hàng trong lĩnh vực công nghiệp của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu tập trung vào các giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp của các doanh
nghiệp Việt Nam. Ngoài ra khoá luận còn nghiên cứu một số vấn đề có liên quan
đến hoạt động này như ; Chính sách khuyến khích xuất khẩu cuả Nhà nước, Thị
trường xuất khẩu
* Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang sản xuất
và xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp .
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng biện pháp duy vật biện chứng, so sánh, phân tích và
tổng hợp, kết hợp những kết quả thống kê .
5. Những kết quả đạt được và những vấn đề mới.

7

Khoá luận phân tích và làm rõ những vấn đề còn tồn tại đối với các
doanh nghiệp Việt Nam, thuận lợi cũng như khó khăn trong việc thúc đẩy hoạt

động xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả trong hoạt động này.
Những điểm mới của khoá luận
* Khoá luận sẽ đưa ra được một vấn đề hết sức cấp bách trong tình hình hiện
nay là việc tập trung phát triển các ngành công ngihệp có hàm lượng giá trị cao nhằm
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp
hoá.
* Khoá luận cũng sẽ làm nổi bật một số giải pháp mà trong đó các doanh
nghiệp sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp Việt Nam có thể tham khảo để định
hướng thị trường và đề ra những phương hướng phát triển trong tương lai.
6. Bố cục khoá luận
Ngoài lời nói đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của khoá luận
được trình bày trong 3 chương.
Chương I. Một số vấn đề lý luận cơ bản liên qua đến các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp.
Chương II. Thực trạng và khả năng mở rộng hoạt động xuất khẩu các mặt
hàng công nghiệp chủ lực.
Chương III. Định hướng chung và những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu
các mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Bùi Ngọc Sơn, các thầy cô và bè bạn đã
tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoa luận. Do hạn chế về thời gian cũng
như trình độ nghiên cứu, khoá luận không thể tránh khỏi thiếu sót, em rất mong
nhận được sự đóng góp, chỉ đạo của thầy cô và các bạn.

8

Em xin chân thành cảm ơn.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN CÁC
MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC TRONG LĨNH VỰC

CÔNG NGHIỆP CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA MẶT
HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP
1. Khái niệm
Về câu hỏi “ mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gì ? “, cho đến nay vẫn chưa
có một định nghĩa nào thống nhất ở phạm vi quốc tế.
Tuy nhiên, trong qúa trình quản lý hàng hóa xuất khẩu, một quốc gia
thường chia thành hàng xuất khẩu làm 3 loại : hàng chủ lực, hàng quan trọng và
hàng thứ yếu.
Hàng chủ lực là loại hàng chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu
quốc gia do có thị trường nước ngoài và điều kiện sản xuất trong nước hiệu quả.
Hàng quan trọng là hàng không chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu,
nhưng đối với từng thị trường, từng địa phương lại có vị trí quan trọng. Hàng
thứ yếu là hàng xuất khẩu mà kim ngạch của chúng thưởng nhỏ.
Sự phân loại này dựa trên tiêu chí tỷ trọng giá trị xuất khẩu của mặt hàng
trong tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng tỷ trọng này cụ thể là bao nhiêu để coi
một mặt hàng là mặt hàng xuất khẩu chủ lực lại không được thống nhất giữa các
quốc gia. Tuỳ từng quốc gia và ở những giai đoạn khác nhau, tỷ trọng này được
đưa ra khác nhau. Một số nhà nghiên cứu từng cho rằng tỷ trọng của mặt hàng
được coi là mặt hàng xuất khẩu chủ lực khi nó chiếm ít nhất 25% kim ngạch
xuất khẩu của quốc gia. Ở Việt Nam, đầu thập kỷ 90 đã cho rằng, việc xác định

9

này không dựa theo tỷ trọng mà lại căn cứ vào giá trị tuyệt đối và cho rằng một
mặt hàng ít ra là phải đạt 100 triệu USD mới trở thành một mặt hàng xuất khẩu
chủ lực. Còn theo các chuyên gia kinh tế Mỹ tại viện “ Technology Export
Management” tại Berkeley (Mĩ), không thể đưa ra một tỷ trọng cụ thể trong khái
niệm hàng xuất khẩu chủ lực, mà việc nhìn nhận một mặt hàng xuất khẩu chủ

lực căn cứ vào lượng USD lớn (“large USD volume”) trong tổng kim ngạch xuất
khẩu.
Như vậy, có nghĩa là không có một cách nhìn hoàn toàn giống nhau về tỷ
trọng giá trị xuất khẩu của một mặt hàng chủ lực trong tổng kim ngạch xuất
khẩu ở tất cả các quốc gia, song có một điểm chung về sự nhìn nhận mặt hàng
xuất khẩu chủ lực là :
Mặt hàng xuất khẩu chủ lực là những hàng hóa có điều kiện để sản xuất
trong nước có hiệu quả kinh tế cao hơn so với những hàng hóa khác ; có thị
trường tiêu thụ rộng rãi, ổn định, vững chắc (trong một thời gian tương đối dài);
giá trị xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao, mang tính chất quyết định đối với tổng kim
ngạch của một quốc gia.
Đây cũng chính là khái niệm chung về mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong
lĩnh vực công nghiệp.
2. Đặc điểm.
(Điều kiện để phân biệt mặt hàng chủ lực và không chủ lực).
Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy rằng mặt xuất khẩu chủ lực có 3 đặc
điểm.
Một là, mặt hàng đó phải có thị trường ổn định, vững chắc trong một thời
gian tương đối dài.
Hai là, mặt hàng đó phải ổn định, có thể sản xuất với khối lượng lớn và
hiệu quả sản xuất cao hơn so với hàng hoá khác.

10

Ba là, có kim ngạch lớn và mang tính chất quyết định đối với tổng kim
ngạch xuất khẩu của quốc gia.
Đặc điểm thứ 3 là một đặc điểm quan trọng, nó là một cơ sở để dễ dàng
nhận biết mặt hàng xuất khẩu chủ lực và để phân biệt nó với những mặt hàng
không chủ lực. Điều đáng chú ý ở trong đặc điểm thứ 3 này là ở chỗ kim ngạch
có tính chất quyết định đối với tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia chứ

không phải là một địa phương nào hay một ngành.
Tóm lại, mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp có 3 đặc
điểm, đặc điểm về kim ngạch, thị trường và điều kiện sản xuất hiệu quả.
3. Ý nghĩa và tậm quan trọng của việc xuất khẩu các mặt hàng công
nghiệp chủ lực.
Trong bối cảnh nền kinh tế mở và xu hướng nhất thể hoá thị trường thế
giới hiện nay thì ngoại thương có vai trò đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực
tiếp đến toàn bộ nền kinh tế. Xuất khẩu có ý nghĩa then chốt đối với sự phát
triển ngoại thương nó riêng và nền kinh tế nói chung. Nhưng xuất khẩu của một
quốc gia có phát triển được hay không phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu của quốc gia đó, cũng giống như một doanh nghiệp muốn đứng vứng
và phát triển trong nền kinh tế thị trường thì sản phẩm của doanh nghiệp đó phải
phù hợp nhu cầu thị trường và có sức cạnh tranh cao. Hoạt động xuất khẩu của
một nước muốn phát triển được đòi hỏi nước đó phải có mặt hàng xuất khẩu hợp
lý? Một cơ cấu hàng xuất khẩu hợp lý phải cho phép đạt hiệu quả kinh tế - xã
hội cao nhất trên cơ sở vận dụng tối đa lợi thế so sánh của đất nước, đảm bảo sự
phát triển ổn định, lâu dài cho nền kinh tế. Đặc biệt trong cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu này có nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực đóng vai trò quyết định, đại diện
cho toàn bộ cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và thể hiện được tiềm năng, sức mạnh
của một quốc gia. Trong quá trình phát triển ngoại thương của mình, hiện nay
trên thế giới nói chung và đặc biệt trong khu vực Đông Nam á nói riêng các

11

nước đang tiến hành song song hai chiến lược đó là đa dạng hoá mặt hàng xuất
khẩu và xây dựng một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Hai chiến lược này không
hề mâu thuẫn mà trái lại bổ sung cho nhau, hỗ trợ cho nhau. Đa dạng hoá mặt
hàng xuất khẩu để phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển xuất khẩu, tránh
rủi ro đột biến về thay đổi nhu cầu thị trường. Còn xây dựng nhóm hàng xuất
khẩu chủ lực là nhằm tập trung tạo ra một nhóm mặt hàng có vai trò động lực

thúc đẩy toàn bộ nền xuất khẩu phát triển nhanh và hiệu quả nhất.
Vì vậy việc tập trung xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực có trong lĩnh
vực công nghiệp có ý nghĩa lớn đối với nhiều mặt của nền kinh tế nhưng có thể
thấy rõ ở một số điểm sau:
3.1. Đối với quy mô sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước
Xuất phát từ yêu cầu và đặc điểm của mình, nhóm mặt hàng công nghiệp
xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa lớn trong việc mở rộng quy mô sản xuất trong
nước và đóng góp tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và theo đó là làm phong
phú thêm thị trường nội địa.
Mặt hàng xuất khẩu công nghiệp chủ lực là mặt hàng xuất khẩu có kim
ngạch cao, thị trường tiêu thụ lớn, và sức cạnh tranh do đó đòi hỏi tiền đề cho nó
là một nền sản xuất trong nước phát triển. Để có thể đáp ứng được nhu cầu lớn
của thị trường thế giới về các mặt hàng thuộc nhóm hàng chủ lực này đỏi hỏi
quy mô sản xuất phải được mở rộng đến mức độ nào đó. Trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa trong khi chúng ta có nhu cầu vốn
đầu tư lớn nhưng các nguồn vốn lại luôn thiếu do vậy việc tập trung xây dựng
các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực sẽ giúp ta có được nguồn ngoại tệ
lớn tập trung xây dựng được một số ngành có quy mô sản xuất lớn trước hết là
các ngành sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực và phục vụ hoạt động xuất khẩu.

12

Do vậy xây dựng và phát triển nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực
đã đóng góp mở rộng quy mô sản xuất tiến tới xây dựng một nền sản xuất hàng
hóa lớn.
Xây dựng nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực đòi hỏi chúng ta
phải không ngừng nâng cao hiệu quả xuất khẩu không chỉ thông qua mở rộng
quy mô sản xuất, chuyển dịch, ổn định, mở rộng thị trường xuất khẩu mà còn
thông qua tăng dần hàng lượng chế biến của sản phẩm. Tăng hàm lượng chế
biến của hàng hóa xuất khẩu tạo điều kiện để khai thác hiệu quả các tiềm năng

trong nước. Để có thể làm được điều này đòi hỏi hỏi phải có sự đầu tư cho sản
xuất, nâng cao trình độ chế biến (máy móc, khoa học công nghệ, trình độ lao
động ). Điều này có nghĩa là thông qua việc xây dựng củng cố phát triển nhóm
hàng xuất khẩu chủ lực đã góp phần chuyển dịch cần cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Như vậy việc xây dựng, phát triển nhóm công nghiệp xuất khẩu chủ lực
đã góp phần mở rộng, chuyển dịch cơ cấu sản xuất nói riêng và cơ cấu toàn bộ
nền kinh tế nói chung theo hướng công nghiệp, hiện đại.
Thực tế nước ta, hoạt động xuất khẩu và xây dựng nhóm mặt hàng xuất
khẩu chủ lực đến nay đã có những tác động tích cực. Từ điểm xuất phát là nước
có nền sản xuất kém phát triển đến nay chúng ta đã cơ bản hình thành được một
số ngành có quy mô sản xuất lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tiêu biểu là các ngành
dệt may, da - giày. Sản phẩm của các ngành này đã vượt qua được hàng rào kỹ
thuật vào được các thị trường khó tính như EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản và cơ bản
cạnh tranh được các sản phẩm cùng loại của các nước.
3.2. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu
Một nền kinh tế có cơ sở vật chát nghèo nàn, kém phát triển nếu đầu tư
phân tán thì các mặt hàng xuất khẩu nếu có cũng rất nhỏ bé không đáng kể. Kết

13

quả là nguồn ngoại tệ đặc biệt quan trọng thu từ hoạt động xuất khẩu là nhỏ bé
và do đó tác động của nó đối với quá trình phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là không đáng kể. Nhưng cũng trong điều kiện khó khăn về nguồn
vốn như vậy nếu song song với quá trình đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, căn
cứ vào thị trường thế giới và lợi thế so sánh cảu đất nước tập trung nguồn lực ưu
tiên phát triển một số mặt hàng chủ lực thì đây sẽ là động lực để thúc đẩy xuất
khẩu phát triển tăng nhanh kim ngạch. Nhóm hàng này sẽ tạo được đột biến
trong hoạt động xuất khẩu. Cụ thể nhóm hàng xuất khẩu chủ lực thường là
những mặt hàng có kim ngạch lớn, chiếm tỷ trọng tương đối cao trong tổng kim

ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước và đây lại là những mặt hàng đất nước có
thế mạnh cạnh tranh nên thường có tốc độ tăng trưởng mạnh do vậy khi nhóm
hàng này tăng trưởng thì đóng góp ngoại tệ trong tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hóa của cả nước là rất lớn. Xây dựng thành công nhóm hàng này là đã tạo
ra được một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn, có sức cạnh tranh cao
một mặt trực tiếp tăng nguồn vốn ngoại tệ cho nến sản xuất trong nước (trước
hết là sản xuất hàng xuất khẩu ), mặt khác gián tiếp ảnh hưởng đến sản xuất
trong nước và xuất khẩu các sản phẩm khác thông qua củng cố uy tín đất nước
trên thị trường quốc tế. Nhờ vậy có thể nói nhóm mặt hàng công nghiệp xuất
khẩu chủ lực đóng vai trò như một nguồn lực giúp kim ngạch xuất khẩu tăng
nhanh và ổn định.
3.3. Tạo điều giữ vững và ổn định thị trường xuất nhập khẩu
Xuất khẩu của một quốc gia được đại diện bởi nhóm mặt hàng xuất khẩu
chủ lưc. Hoạt động xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực ảnh hưởng quyết
định đến toàn bộ xuất khẩu nói chung. Do vậy nhờ vào những t lớn và đã được
khẳng định qua thời gian của mặt hàng xuất khẩu chủ lực mà thị trường xuất
khẩu nói chung của một nước cũng được giữ vững và ổn định. Ngoài ra thông
qua xuất khẩu các mặt hàng chủ lực mà một nước đã khẳng định được uy tín của

14

mình trên thị trường quốc tế do vậy tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các hoạt động
xuất khẩu các mặt hàng khác.
Mục tiêu cuối cùng và chung nhất của hoạt động xuất khẩu là nhằm nhập
khẩu. Do vậy hiện nay các nước đều có chủ trương xuất nhập khẩu liên kết.
Điều này có nghĩa là xuất khẩu vào một thị trường có tính đến việc nhập khẩu từ
thị trường đó nhằm làm tăng hiệu quả hoạt động ngoại thương. Tóm lại xây
dựng nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực có tác dụng củng cố, mở rộng
và ổn định thị trường xuất nhập khẩu.
3.4. Tạo cơ sở vật chất để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học

kỹ thuật với nước ngoài.
Như đã phân tích ở phần trên hoạt động xuất khẩu nói chung có tác dụng
thúc đẩy mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong đó quan hệ hợp tác kinh tế,
khoa học kỹ thuật là một bộ phận của quan hệ kinh tế quốc tế. Nhờ có mở rộng
hoạt động xuất khẩu mà một quốc gia thiế lập và củng cố được mối quan hệ hợp
tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với các nước khác.
Thực tiễn nước ta đã chứng minh điều này. Hoạt động xuất khẩu mà đi
đầu là xuất khẩu hàng chủ lực đã mở đường, thúc đẩy các hoạt động hợp tác
kinh tế và khoa học kỹ thuật với các nước. Gần đây chúng ta có thể nhận thấy
cùng với hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa của nước ta với các nươ mà điển
hình gần đây là Mỹ, EU và Nhật Bản - 3 trung tâm kinh tế lớn của thế giới, các
hoạt động hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật của nước ta với 3 đối tác lớn này
cũng đang chuyển biến tích cực. Đặc biệt đối với Mỹ mãi đến năm 1994 Tổng
thồng Mỹ mới tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế chống Việt Nam, năm 1995
quan hệ ngoại giao giữa hai nước mới được thiết lập, nhưng chỉ sau một thời
gian ngắn từ năm 1995 đến nay hoạt động ngoại thương giữa hai nước đã phát
triển mạnh mẽ và kéo theo nó là các hoạt động hợp tác khác. Năm 1993 buôn
bán hai chiều giữa Mỹ và Việt Nam mới đạt 62 triệu USD đến năm 1994 đã là

15

180 triệu USD và năm 1998 giá trị buôn bán hai chiều đã là 927 triệu USD.
Quan hệ đầu tư do vậy cũng được mở rộng nhanh chóng năm 1994 mới có 35
văn phòng đại diện của các Công ty Mỹ tại Việt Nam đến cuối năm 1995 đã
tăng lên đến 150 văn phòng. Mỹ từ chỗ đầu tư không đáng kể vào Việt Nam đã
vươn lên là một trong 10 nhà đầ tư nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam. Quan hệ
viện trợ và các mối quan hệ kinh tế, hợp tác khoa học kỹ thuật khác cũng đã
được cải thiện tích cực. Có thể nói cùng với những nỗ lực ngoại giao thì quan hệ
xuất nhập khẩu mà đáng kể là hoạt động xuất khẩu hàng chủ lực đã góp phần cải
thiện thúc đẩy quan hệ hợp tác, đầu tư giữa hai nước. Đến nay có thể nói Mỹ đã

trở thành một thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa và là đối tác lớn của Việt Nam
trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật.
Vấn đề mặt hàng công nghiệp x chủ lực ở nước ta đã được Đảng và Nhà
nước nước quan tâm từ lâu. Chính vì việc xây dựng mặt hàng công nghiệp xuất
khẩu chủ lực có vai trò và ý nghĩa to lớn như trên nên những năm gần đây vấn
đề này càng được quan tâm nhiều hơn khi chúng ta tiếp xúc nhiều với nền kinh
tế thị trường thế giới.
4. Hiệu quả xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực
Hiệu quả trong hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu
nói riêng là một yếu tố rất quan trọng đối với từng doanh nghiệp và đối với toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Do vậy trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã
nhấn mạnh : “ mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị
trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến
sâu, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ ” (nguồn : Văn kiện Đại hội
Đảng cộng sản Việt nam lần thứ III, NXB Chính trị Quốc gia, 1996). Hiệu quả
hoạt động xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực được đề cấp
trong khoá luận này được xét dưới hai khía cạnh là hiệu quả kinh tế và hiệu quả
xã hội.

16

4.1. Hiệu quả kinh tế
Hoạt động xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực của nước ta nay
còn nhiều bất cập. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế quan trọng nhất đó là chỉ tiêu lợi
nhuận đây là vấn đề quyết định đến sự tồn vong của mỗi doanh nghiệp. Nguyên
nhân lợi nhuận hoạt động xuất khẩu còn chưa cao có nhiều nhưng chủ yếu là do
trong khi giá xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực của Việt Nam tương
đối thấp so với giá trung bình của thế giới và giá sản phẩm cùng loại của các
nước thì chi phí nhập khẩu nguyên liệu lớn, trình độ năng lực chế biến thấp
phương thưchính sách nhập khẩu chủ yếu là theo hình thức gia công, xuất khẩu

qua trung gian. Mực dù có những hạn chế như vậy song nhóm mặt hàng công
nghiệp xuất khẩu chủ lực cũng có nhiều lợi thế phát triển như giá lao động rẻ, đa
số lao động có trình độ giáo dục phổ thông, vị trí địa lý, khí hậu nên cũng đã
bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cho đất nước.
Hiệu quả xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chủ lực đã được cải thiện
song còn thấp. Nhìn chung nhóm hàng này chủ yếu là xuất khẩu theo phương
thức gia công và qua trun gian. Tuy kim ngạch nhóm hàng này tương đối cao có
hai mặt hàng là Da - Giầy, Dệt may có kim ngạch hàng năm đạt trên 1 tỷ USD
và Điện tử đạt trên 500 triệu USD nhưng do chủ yếu dựa vào nguyên phụ liệu
nhập khẩu nên lợi nhuận thu về không là bao chủ yếu chỉ bù đắp công lao động
như mặt hàng Da - giày và Dệt may chỉ đạt lượng giá trị gia tăng trong nước chỉ
khoảng 25 - 30% giá trị hàng xuất khẩu.
4.2. Hiệu quả xã hội
Xây dựng, phát triển hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực không những
đem lại hiệu quả về mặt kinh tế mà còn mang lại nhiều hiệu quả xã hội to lớn.
Hàng năm việc tổ chức sản xuất các mặt hàng công nghiệp kx chủ lực đã tạo ra
công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ dân cư. Trong điều kiện thị trường
thế giới và lợi thế so sánh của nước ta hiện nay thì đa số các mặt hàng xuất khẩu

17

chủ lực vẫn được xây dựng dựa trên lợi thế về giá lao động rẻ và tài nguyên
thiên nhiên là chính.
Các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay cũng
thu hút nhiều lao động dôi dư góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp. Trong
nhóm này điển hình thu hút lao động có thể xét các trường hợp sau. Ngành Dệt
may hiện nay thu hút khoảng 1,6 triệu lao động và dự kiến đến năm 2010 số lao
động trong ngành sẽ vào khoảng 2,5- 3 triệu lao động [2]. Ngành da - giày là
một trong những ngành sử dụng lao động lớn. Theo thống kê ngành Da - giầy
nước ta vào năm 2000 thu hút khoảng 350.000 lao động trong đó bao gồm có

80% là lao động nữ [59] và dự kiến đến năm 2005 sẽ tạo việc làm cho khoảng
516.000 lao động, năm 2010 là 7120.000 lao động [39] ngành điện tử tin học
tuy đã có trình độ công nghệ tương đối cao nhưng chủ yếu hiện nay vấn chỉ là
lắp ráp nên thu hút tương đối nhiều lao động.
Ngành Dầu khí thu hút lượng lao động tương đối ít.
Từ việc giải quyết công ăn việc làm xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp
chủ lực đã góp phần giải quyết hàng loạt các vấn đề xã hội khác như tệ nạn xã
hội, vấn đề xoá đói giảm nghèo Việt Nam đã được Ngân hàng Thế giới (WB)
đánh giá là một trong những nước thực hiện có hiệu quả các chương trình xoá
đói giảm nghèo trên thế giới.
Thông qua hoạt động sản xuất, xuất khẩu có quy mô tương đối các mặt
hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực chúng ta đã củng cố và nâng cao được vị
thế kinh tế, chính trị của đất nước trên trường quốc tế, góp phần ổn định chính
trị, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước. Từ một
đất nước nghèo nàn lạc hậu đến nay Việt Nam đã được bạn bè năm châu biết
đến. Đáng mừng là chúng ta đã vươn lên là nước sản xuất và xuất khẩu hàng đầu
thế giới về một số hàng chủ lực dệt may, da - giầy.

18

Tóm lại, việc sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu
chủ lực đã mang lại nhiều hiệu quả kinh tế xã hội to lớn cho đất nước. Tuy vậy
có thể thấy ngay rằng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của nước ta
mới chỉ chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động rẻ, tài nguyên thiên nhiên và vị trí
địa lý mà chưa quan tâm đến vấn đền chất lượng của nguồn lao động và trình độ
kỹ thuật công nghệ chế biến nên hiệu quả thực tế mang lại chưa cân xứng. Do
vậy hoạt trong thời gian tới cần nhiều việc phải làm nhằm nâng cao hơn hiệu
quả hoạt động xuất khẩu hàng hóa nói chung và cụ thể là các mặt hàng công
nghiệp xuất khẩu chủ lực.
II. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CÔNG

NGHIỆP CHỦ LỰC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
Công nghiệp hoá theo nghĩa hẹp là quá trình thay thế lao động thủ công
bằng lao động cơ khí. Còn theo nghĩa rộng công nghiệp hoá là quá trình thay thế
liên tục từ lao động thủ công lên lao động cơ khí với mức độ ngày càng hiện đại
hơn. Ngay nay công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo một con đường phù hợp đã
trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với các quốc gia đặc biệt các nước có nền
kinh tế kém phát triển như Việt Nam để có thể thoát khỏi tình trạng trì trệ,
chống lại đói nghèo và nâng cao đời sống nhân dân. Việt Nam cũng như các
nước đang phát triển khác đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá phát triển kinh tế nhằm khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Hoàn
cảnh hiện nay chứa đựng những khó khăn và thuận lợi cho quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá, hiện đại hoá là chúng ta có thể rút ngắn quá trình này
bằng cách nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, tiếp thu công nghệ và kinh
nghiệm quản lý từ các nước phát triển mà không phải phát triển từ đầu. Có thể
thấy ngay điều này trong cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam. Nếu phân
chia hàng hóa nhập khẩu thành hai nhóm tư liệu sản xuất (thiết bị toàn bộ, thiết
bị lẻ, dụng cụ phụ tùng và nguyên liệu vật tư) và tư liệu tiêu dung thì từ năm

19

1990 đến nay nhóm hàng tư liệu sản xuất luôn chiếm tỷ trọng lớn (thường trên
80%) trong kim ngạch nhập khẩu của nước ta:


Bảng 1 : Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu 1995 - 2000 phân theo nhóm hàng
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000
1. Tư liệu sản xuất (%)

84,8 89,9 89,9 91,5 93,6 94,7
2. Hàng tiêu dùng (%) 15,2 15,2 10,1 8,5 6,4 5,3

Nguồn : Niên giám hệ thống kê, NXB thống kê 2001
Nhưng trở ngại lớn nhất cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Việt Nam nói riêng và ở các nước đang phát triển nói chung cũng là nguồn vốn
ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nguồn vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá có thể được hình thành từ
những nguồn chính sau: Đầu tư nước ngoài; Vay nợ viện trợ ; Thu từ hoạt động
du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ; Xuất khẩu sức lao động ; xuất khẩu hàng hóa
Trong những nguồn thu ngoại tệ chính này thì nguồn quan trọng nhất và
chủ yếu là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài. Thực tiễn
Việt Nam là một minh chứng. Điều này được thể hiện qua cơ cấu tổng nguồn
thu ngoại tệ của Việt Nam qua một số năm.





20




Bảng 2 : Các nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam (ĐVT : Triệu USD)
Năm Du lịch
Xuất
khẩu
FDI ODA Tổng
1995 390,0 5.449 6.530,8 612
12.981,8
1996 291,5 7.256 8.497,3 985
17.029,8

1997 325,4 9.185 4.649,1 1.015
15.174,5
1998 258,3 9.340 3.897,4 1.430
14.925,7
1999* 265,2 11.540 1.568,0 1.452
14,818,2
2000 - 14.308 2.012,0 1.500
17.520,0
2001 1.360,0 15.100 2.436,0 1.750
20.646,0
Tổng 2.890,4 72.178 29.590,6 8.744
113.394,0
Nguồn:- Niên giám thống kê 2000.
-TS. Kim Ngọc (chủ biên), Kinh tế thế giới 2001 - 2002 đặc điểm
và triển vọng, NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài tuy rất quan trọng trong giai đoạn đầu
xây dựng nền kinh tế, nhưng phải theo nguyên tắc là nhận vốn đầu tư của nước
ngoài là phải trả bằng sản phẩm hoặc phải chia sẻ tài nguyên cho đối tác. Còn
vay nợ hay viện trợ đều phải trả nợ sau thời gian cam kết bằng mọi cách. Vốn
ODA thì bao giờ cũng đi kèm với điều kiện chính trị. Đối với vốn trong nước thì
số vốn từ dịch vụ du lịch bằng ngoại tệ quá nhỏ bé so với vốn đầu tư ban đầu
cho các ngành này. Như vậy là chỉ có thể trông chờ vào nguồn vốn thu được từ
xuất khẩu hàng hóa.

21

Số liệu cho trong bảng 2 cho chúng ta thấy tổng kim ngạch xuất khẩu
trong 6 năm gần đây là 72.178 triệu USD trong khi đó tổng các khoản thu ngoại
tệ khác mới chỉ đạt khoảng 41.216 triệu USD. Như vậy tổng kim ngạch xuất
khẩu đã chiếm đến 64% tổng nguồn thu ngoại tệ của nước ta. Do vậy có thể nói

rằng xuất khẩu luôn luôn giữ vai trò là nguồn cung cấp ngoại tệ quan trọng nhất
cho quá trình công nghiệp hóa ở nước ta mà nó còn có tác động tạo ngoại tệ gián
tiếp thông qua tác động tương hỗ với các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Thông qua hoạt động xuất khẩu chúng ta có được nguồn ngoịa tệ để thanh toán
những khoản nợ nước ngoài đến kỳ hạn nhằm tăng uy tín của nước ta trên
trường quốc tế. Mặt khác xuất khẩu cũng là căn cứ để các nhà đầu tư nước
ngoài, các tổ chức quốc tế đánh giá về khả năng kinh tế của một quốc gia. Và
cuối cùng thông qua ảnh hưởng gián tiếp này xuất khẩu tác động đẩy mạnh các
hoạt động đầu tư nước ngoài viện trợ, tạo uy tín cho các khoản vay nợ khác
làm tăng cường nguồn ngoại tệ phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
2. Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia thể hiện trình độ phát triển của quốc gia
đó. Nhìn chung các nước đều chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo một trình tự chung
là đi từ cơ cấu kinh tế mà trong đó nông nghiệp đóng vai trò chủ chốt sang cơ
cấu kinh tế trong đó vai trò của các ngành công nghiệp và dịch là chủ yếu. Các
nước phát triển hiện nay đều có cơ cấu kinh tế hiện đại là Dịch vụ - Công nghiệp
- Nông thôn. Trong khi đó các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam vẫn
đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong đó nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng khá cao.
Cơ cấu kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển biến rõ rệt theo
hướng tích cực qua những năm gần đây. Từ năm 1991đến nay phần đóng góp
của công nghiệp và dịch vu cho tổng sản phẩm quốc nội không ngừng tăng lên
trong khi đó phần của nông nghiệp giảm xuống tương đối.

22








Bảng 3 : Tốc độ tăng và cơ cấu GDP của Việt Nam giai đoạn 1991-2000
Tỗc độ tăng Cơ Cấu
Chia ra Chia ra


Năm

Tổng
số
Nông
lâm
nghiệp
thuỷ
sản
Công
nghiệp
xây
dựng
Dịch
vụ
Tổng
số
Nông
lâm
nghiệp
thuỷ
sản
Công

nghiệp
xây
dựng
Dịch
vụ
1991 5.82 2.18 7.71 7.38 100.00 40.49 23.79 35.72
1992 8.70 6.88 12.79 7.58 100.00 33.94 27.26 38.80
1993 8.08 3.28 12.62 8.64 100.00 29.87 28.90 41.23
1994 8.83 3.37 13.39 9.56 100.00 27.43 28.87 43.70
1995 9.54 4.80 13.60 9.83 100.00 27.18 28.76 44.06
1996 9.34 4.40 14.46 8.8 100.00 27.76 29.73 42.51

23

1997 8.15 4.33 12.62 7.14 100.00 25.77 32.08 42.15
1998 5.76 3.53 8.33 5.08 100.00 25.78 32.49 41.73
1999 4.77 5.23 7.68 2.25 100.00 25.43 34.49 40.08
2000 6.75 4.04 10.07 5.57 100.00 24.30 36.61 39.09
Nguồn : Kinh tế 2000 - 2001 Việt Nam và thế giới, Thời báo kinh tế Việt Nam,
2001.
Xuất khẩu có vai trò tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự
thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu biểu hiện sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế. Sự
thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu biểu hiện sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất của
một quốc gia. Có hai quan điểm khi xem xét đến tác động của xuất khẩu đối với
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia.
Quan điểm thứ nhất cho rằng xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản
phẩm dư thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu tiêu thụ trong nội địa. Xét theo quan
điểm này thì xuất khẩu không có vai trò, tác động gì to lớn đến quá trình quan
điểm này thì xuất khẩu không có vai trò, tác động gì to lớn đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia. Mà trong hoàn cảnh là một nước có nền

sản xuất kém phát triển thì sản xuất còn chưa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước dẫn đến sản phẩm dư thừa không có hoặc nếu có cũng rất ít. Do vạy
xuất khẩu là hết sức nhỏ bé và tác động của nó đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế là không đáng kể. Và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra hết sức
chậm chạp.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là
nhân tố quan trọng trong việc tổ chức sản xuất. Sản xuất những cái mà thị
trường cần chứ không phải là sản xuất những thứ mà mình có khả năng. Thị
trường ngày nay không còn bị bó hẹp trong phạm vi biên giới lãnh thổ quốc gia

24

nữa mà là thị trường thế giới. Xuất phát từ quan điểm này thì xuất khẩu hoạt
động bán hàng hóa của nước mình ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia ngày
càng phát huy vai trọng quan trọng quá trình phát triển kinh tế nói chung và quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói riêng.
Trước tiên hoạt động xuất khẩu phát triển sẽ tạo môi trường, điều kiện
thuận lợi cho các ngành khác phát triển. Các ngành khác ở đây là những ngành
có liên quan, phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu phát triển tạo nhu cầu phải phát triển một hệ thống phục vụ cho nó
bao gồm có các ngành ngân hàng, vận tải, bảo hiểm Bên cạnh đó muốn xuất
khẩu phát triển thì tiền đề là phải phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu.
Các ngành sản xuất hàng xuất khẩu và phục vụ hoạt động xuất khẩu phát triển
thì thu nhập của nhân công hoạt động trong những ngành này cũng sẽ được nâng
cao. Một khi thu nhập tăng thì nhu cầu tiêu dùng cũng tăng lên không còn chỉ
giới hạn ở những nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc nữa mà sẽ được mở rộng ra
các nhu cầu cao hơn như vui chơi, giải trí Nhu cầu tăng đến lượt mình ại tạo
tiền đề để phát triển những ngành sản xuất, dịch vụ trong nước phát triển.
Khi một nền kinh tế đang ở giai đoạn kém phát triển thì luôn ở trong tình
trạng cầu vượt quá cung, các nước chưa thấy được nhu cầu mở rộng thị trường.

Trong giai đoạn này hoạt động sản xuất chủ yếu đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu nhỏ bé. Nhưng khi nền kinh tế phát triển đến một mức độ nào đó thì
thị trường trong nước không còn đủ đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất
trong nước nữa do vậy đặt ra nhu cầu bức thiết phải mở rộng thị trường ra khỏi
biên giới quốc gia, phải bán hàng hóa của nước mình sang các nước khác tức
hoạt động xuất khẩu phát triển. Thực tiễn phát triển đã chứng minh điều này
(bảng 3). Các nước Công nghiệp mới (NIC
s
)
đã
phát triển theo chiến lược sản
xuất thay thế hàng nhập khẩu trong giai đoạn đầu. Theo chiến lược này chủ yếu
là sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước thay thế các sản phẩm nhập khẩu.

25

Nhưng chiến lược này cũng chỉ có tác dụng trong thời gian đầu giúp những nước
này tiết kiệm ngoại tệ, phát triển sản xuất trong nước theo chiều rộng. Các nước
NIC
s
đã p hải chuyển hướng sang chiến lược hướng về xuất khẩu khi thị trường
nội địa tỏ ra hạn hẹp đối với nhu cầu phát triển sản xuất. Đến lúc này thì sản
xuất k hông bị giới hạn bởi thị trường trong nước với những nhu cầu hạn hẹp
nữa mà được mở rộng ra cả thị trường thế giới với nhu cầu tiêu dùng đa dạng
phong phú tạo tiền đề thúc đẩy sản xuất phát triển và chuyển dịch cơ cấu theo
chiều hướng tích cực. Vai trò mở rộng thị trường thông qua hoạt động xuất khẩu
lại càng tỏ ra quan trọng, tất yếu trong xu thế toàn cầu hóa đang diẽn ra mạnh
mẽ hiện nay. Một quốc gia không thể phát triển đầy đủ được nếu không mở cửa
thị trường của mình đồng thời tiến hành thâm nhập thị trường các nước khác
thông qua hoạt động xuất khẩu. Biên giới địa lý của mỗi quốc gia mất dần ý

nghĩa.
Bảng 4: Mốc thời điểm thực hiện chiến lược CNH của các nước ASEAN.
Nước Thay thế nhập khẩu Hướng xuất khẩu

Xingapo 1961 1965
Indonêxia 1967 1982
Thái Lan 1962 1972
Malaixia 1958 1968
Philipin 1946 1970
Nguồn: -WB, Several Country-Specific Report, UNTACD 1987.
-PTS. Đỗ Đức Định, Một số vấn đề về chiến lược CNH và lý
thuyết phát triển, NXB Thế giới, 1999.

×