Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Skkn một số kinh nghiệm rèn kỹ năng viết văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ để nâng cao hiệu quả cho học sinh lớp 9 thcs thị trấn cành nàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.77 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Mục

Nội dung

Trang

1

MỞ ĐẦU

1

1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích, yêu cầu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2


1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

2

NỘI DUNG SÁNG KIẾN

2

2.1

Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

2

2.2

Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN

3

2.2.1

Thực trạng

3


2.2.2

Kết quả của thực trạng

4

2.3

Các giải pháp tổ chức thực hiện

4

2.3.1
2.3.2
2.3.3

Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững khái niệm; các
yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật cần chú ý khi
làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ .
Những yêu cầu cụ thể khi làm bài văn nghị luận về
đoạn thơ, bài thơ
Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng cơ bản để làm tốt
bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ

4
8
10

2.4


Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

18

3

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

19

3.1

Kết luận

19

3.2

Kiến nghị

20

TÀI LIỆU THAM KHẢO

21

DANH MỤC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

22


skkn


23

PHỤ LỤC

skkn


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngữ văn là mơn học có vai trị vơ cùng quan trọng trong chương
trình Trung học cơ sở (THCS) nói riêng và chương trình PTTH nói chung.
Bởi nó mang tính chất thực hành tổng hợp giữa các phần: Tập làm vănTiếng Việt và phần Đọc – hiểu văn bản. Mỗi bài tập làm văn ra đời là
những sáng tác đầu tay của học sinh, là kết quả của sự tổng hợp kiến thức
đã học về lý thuyết làm văn; về kiến thức văn học; về những quan sát, cảm
nhận đối với cuộc sống tự nhiên, xã hội xung quanh; về kĩ năng sử dụng
ngôn từ để diễn đạt.
Trong phần Tập làm văn, kiểu bài nghị luận nói chung và nghị luận
về đoạn thơ, bài thơ nói riêng vốn được xem là rất khó đối với cả người
dạy và người học. Bởi vì thơ là điệu nhạc của tâm hồn, là kết tinh tiếng
lòng người nghệ sỹ, biểu hiện trong ngôn từ nghệ thuật đặc biệt. Có nghĩa
rằng đặc trưng của thơ là tính cơ đọng, hàm xúc và tinh tế. Hiểu được thơ,
cảm được thơ khơng dễ, tìm lời giải cho thơ lại càng khó. Khi làm kiểu bài
này, ngồi kiến thức địi hỏi học sinh phải có cảm nhận tinh tế, có sự rung
động của trái tim để từ đó tạo nên những cảm xúc trào dâng lên đầu ngịi
bút. Bên cạnh đó một yếu tố khơng thể thiếu được để có một bài văn thành
cơng đó chính là những kỹ năng hành văn của các em.
Trong thực tế, theo kế hoạch giáo dục nhà trường (cịn gọi phân

phối chương trình) mơn Ngữ văn ở các khối lớp từ 6 đến 8, các em đã
tiếp cận một lượng văn bản thơ không nhỏ xong khơng có thời lượng cho
thực hành, chủ yếu được giáo viên lồng ghép trong các bài giảng văn bản.
Vì vậy, nhận thức về kiến thức tạo lập văn bản rất mờ nhạt, học sinh chưa
hiểu được khái niệm kiểu bài, thể loại, chưa định hình việc tạo lập văn bản
nghị luận thơ là gì. Đến Ngữ văn 9, số tiết dành cho nghị luận về thơ rất ít
(4 tiết). Trong đó có một tiết dành cho lý thuyết, số tiết dành cho thực hành
viết nghị luận về thơ rất khiêm tốn (1tiết), luyện nói (2tiết). Số tiết học
giảng văn bản thơ tới 19 tiết, chênh lệch lí luận và thực hành rất lớn. Do
vậy, học sinh rất khó nắm bắt được kĩ năng viết nghị luận về đoạn thơ, bài
thơ và điều đó đồng nghĩa hiệu quả viết dạng bài này chưa cao. Hiện tại kĩ
năng viết bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ của học sinh cịn nhiều hạn
chế, nhưng trong q trình dạy học chưa có tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu
đến vấn đề này, đồng nghiệp, nhà trường chưa có những biện pháp thiết
thực để giải quyết khắc phục.
Thực tế, trong nhiều năm qua, qua việc giảng dạy văn nghị luận về
đoạn thơ, bài thơ, cá nhân đã tìm tịi, đúc rút kinh nghiệm và đã đạt được
những kết quả khả quan. Vì vậy, tơi xin trao đổi về kinh nghiệm của cá
nhân: “Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng viết văn nghị luận về đoạn thơ,
bài thơ để nâng cao hiệu quả cho học sinh lớp 9 THCS Thị trấn Cành
Nàng” nhằm nâng chất lượng dạy học Ngữ văn lớp 9 THCS để các đồng
nghiệp cùng tham khảo.
1

skkn


1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tơi khi thực hiện đề tài này nhằm góp phần củng cố
kĩ năng tạo lập văn bản, kĩ năng viết tốt bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài

thơ, nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn lớp 9 trường Trung học
cơ sở thị trấn Cành Nàng; từ đó nâng cao kết quả thi vào 10 Trung học Phổ
thông và kết quả thi học sinh giỏi các cấp. Hơn nữa, Ngữ văn nói chung,
phần tập làm văn nói riêng từ lâu đã là môn học khiến nhiều học sinh ngại
học, ngại viết. Việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận về tác phẩm thơ sẽ góp
phần giúp các em tháo gỡ những vướng mắc, xoá đi mặc cảm ngại học văn,
tạo cho các em tình u đối với mơn học.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ nghiên cứu ở lĩnh vực nhỏ
của văn nghị luận đó là: “Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng viết văn nghị
luận về đoạn thơ, bài thơ để nâng cao hiệu quả cho học sinh lớp 9
THCS Thị trấn Cành Nàng”. Cụ thể đó là:
- Kĩ năng phát hiện và phân tích những tín hiệu thẩm mỹ của tác phẩm thơ.
- Kĩ năng hệ thống hóa kiến thức bằng sơ đồ tư duy.
- Kĩ năng tìm hiểu đề, tìm ý.
- Kĩ năng lập dàn ý.
- Kĩ năng viết các phần, các đoạn từ dàn ý.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thơng tin.
1.4.3. Phương pháp phân tích, chứng minh.
1.4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu.
1.4.5. Phương pháp trực quan.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trong Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng nêu rõ: “Đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng coi
trọng việc phát triển năng lực tự học của học sinh, lấy học sinh làm trung

tâm, người học năng động, sáng tạo dưới sự dẫn dắt của giáo viên, coi
trọng rèn luyện kĩ năng thực hành” [1]. Đây là định hướng cơ bản thiết
thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ mơn Ngữ văn. Bộ
Giáo dục và Đào tạo cũng hướng dẫn giảng dạy môn Ngữ văn theo quan
điểm này “Trọng tâm của việc rèn luyện kĩ năng Ngữ văn cho học sinh là
làm cho học sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo
theo các kiểu văn bản..” [2]. Như vậy, bên cạnh việc cung cấp tri thức thì
việc hình thành các kỹ năng là yêu cầu đặt ra đối với bộ mơn Ngữ văn địi
hỏi người giáo viên ngồi vốn kiến thức cơ bản cịn phải có sự đầu tư, rèn
giũa cho học sinh, tạo điều kiện để các em có nhiều cơ hội thực hành tạo
lập văn bản đặc biệt là văn bản viết.
2

skkn


Nghị luận về tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm thơ nói riêng là
một kiểu bài có vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 9.
Căn cứ vào tài liệu chính thống trong nhà trường từ: Sách giáo khoa; Tài
liệu chuẩn kiến thức, kĩ năng; Sách giáo viên Ngữ văn 9 đã cung cấp cho
học sinh những kiến thức lí luận chung cách nghị luận về đoạn thơ, bài thơ
như: khái niệm, yêu cầu, các bước làm bài, nhiệm vụ từng phần theo bố
cục bài văn... Đó chính là những cơ sở lí luận có tác dụng định hướng cho
việc giảng dạy. Tuy nhiên, những bài viết ấy cịn mang tính chất lí thuyết
chung, chưa cụ thể, hoặc chưa phù hợp với sự tiếp nhận của học sinh địa
phương. Việc rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ còn
nhiều hạn chế, các em chưa có nhiều thời gian cho việc rèn luyện những kĩ
năng cơ bản để viết văn. Đây chính là vấn đề mà người giáo viên văn phải
chủ động, linh hoạt trong việc vận dụng phương pháp phù hợp trong giảng dạy.


2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng
Từ thực tế giảng dạy môn Ngữ văn, đặc biệt là trực tiếp giảng dạy
môn Ngữ văn 9 phần văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, tôi nhận thấy thực
tế dạy và học của giáo viên và học sinh như sau:
2.2.1.1. Về phía người dạy
Qua tìm hiểu các đồng nghiệp ở các trường trong huyện, tơi thấy
nhiều giáo viên đã có sự tìm tịi, nghiên cứu tìm ra những phương pháp tối
ưu trong dạy học văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Tuy nhiên vẫn còn
một số vấn đề tồn tại sau:
Một số giáo viên còn xem nhẹ, chưa chú ý đến việc rèn cách viết
văn cho học sinh. Nhiều tiết dạy cịn mang tính chất áp đặt về lí thuyết,
chưa thực sự hướng dẫn học sinh luyện tập, rèn kỹ năng làm bài, chưa bắt
tay chỉ việc cụ thể đến từng học sinh. Giáo viên chỉ chú trọng đến việc
cung cấp dàn bài chi tiết, học sinh chỉ việc dựa sẵn vào dàn ý đó mà viết
bài, như vậy giáo viên không phát huy được khả năng tư duy của học sinh,
các bài viết giống nhau và cảm xúc thiếu chân thực với vấn đề nghị luận.
Trong các tiết trả bài văn cịn nặng về trình bày lại đáp án, chưa
thực sự chỉ ra nguyên nhân mắc lỗi, cách sửa lỗi, không phê (hoặc phê
chung chung) vào bài, chưa nhận xét cụ thể ưu điểm, nhược điểm trong bài
làm của học sinh nên các em chưa nhận thấy được ưu điểm cũng như hạn
chế trong bài làm của mình.
2.2.1.2. Về phía người học
Qua tìm hiểu và thực tế giảng dạy một số học sinh ở các trường bạn
(do bản thân trực tiếp ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi câp huyện, tỉnh cho
huyện) và từ thực tế học sinh trong trường, tơi thấy một số học sinh đã có
sự nỗ lực, cố gắng trong học tập. Các em đã tích cực, chủ động, sáng tạo
tìm đọc thêm tài liệu, học hỏi để bài viết được phong phú hơn. Nhưng bên
cạnh đó còn nhiều học sinh:
3


skkn


- Không xác định được dạng bài, kiểu bài, chưa phân biệt được sự
khác nhau giữa các kiểu bài, còn yếu kỹ năng viết bài.
- Khi viết bài văn, các em khơng tn thủ các bước: Tìm hiểu đề, tìm
ý, lập dàn ý, viết bài, đọc và sửa bài. Do đó dẫn đến việc các em viết lạc
đề, lệch đề, bài làm không đủ ý, bố cục lôn xộn, thậm chí có những bài
khơng đủ bố cục 3 phần, hệ thống luận điểm không rõ ràng. Nhiều em lúng
khi viết mở bài, kết bài, phần thân bài trình thành “một khối” duy nhất,
khơng biết tách đoạn…
- Viết văn cịn khơ cứng sáo rỗng, nghèo nàn vốn từ, thiếu cảm xúc
chân thực. Các câu văn cịn lan man dài dịng, khơng có sự liên kết mạch
lạc, chặt chẽ. Có khơng ít học sinh khi viết bài văn đã quá ỷ lại vào sách
tham khảo hoặc dàn bài sẵn có mà giáo viên cung cấp để viết nên bài viết
giống nhau, thiếu sự sáng tạo.
- Ngôn ngữ vụng về, lủng củng, sa vào kể lể, đặc biệt là tình trạng
diễn xi thơ ở một số học sinh.
2.2.2. Kết quả của thực trạng trên.
Kết quả chấm bài Tập làm văn tiết 134; 135 (bài viết số 7) văn nghi luận
về đoạn thơ, bài thơ ở lớp 9A và lớp 9B tại Trường THCS Thị trấn Cành Nàng
trong năm học 2017 – 2018 có bảng và dùng để đối chiếu ở mục 2.4 Hiệu quả
của sáng kiến kinh nghiệm (*). Kết quả cho thấy năng lực viết văn nghị luận về
đoạn thơ, bài thơ của các em còn hạn chế. Số điểm khá giỏi cịn ít, đểm kém cịn
cao.

2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
2.3.1. Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm vững khái niệm; các yếu tố nội
dung và hình thức nghệ thuật cần chú ý khi làm bài văn nghị luận về

đoạn thơ, bài thơ .
2.3.1.1. Khái niệm nghị luận về nghị luận về đoạn thơ, bài thơ
Như chúng ta đã biết: “Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ là là trình bày nhận
xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật đoạn thơ, bài thơ ấy. Nội dung
và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngơn từ, hình ảnh, giọng
điệu…Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá
cụ thể, xác đáng.” [3].
Từ đó, chúng ta thấy rằng: Sách giáo khoa mới chỉ dừng lại ở những
kiến thức mang tính chất lý luận, khái quát, chưa cụ thể. Các em còn rất mơ
hồ về các khái niệm ngơn từ, hình ảnh, giọng điệu thơ…Chính vì vậy trong
q trình giảng dạy, người giáo viên cần tích hợp trong các tiết dạy của
mình cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản này.
2.3.1.2. Các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật cần chú ý khi nghị
luận về đoạn thơ, bài thơ
- Ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ là sản phẩm của tư duy. Ngơn ngữ thơ có sự khác biệt với
ngơn ngữ văn xi đó là tính cơ đọng, hàm xúc, lời ít ý nhiều. Một bài thơ
thường có dung lượng nhỏ nhưng chứa đựng nội dung lớn. Vì vậy mỗi bài thơ
4

skkn


thường có nhiều tầng ý nghĩa. Để hiểu được các tầng nghĩa của bài thơ người đọc
phải hiểu được các từ ngữ trong bài thơ đó. Đặc biệt trong một bài thơ, đoạn
thơ thường có những câu, những từ đóng vai trò then chốt là điểm sáng,
con mắt thơ của bài thơ (nhãn tự). Vì vậy, khi phân tích, ta phải tìm được
những từ ngữ độc đáo ấy để lột tả được linh hồn của bài thơ, đoạn thơ.
Ví dụ 1: Trong câu thơ: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xn”,
(Truyện Kiều - Nguyễn Du, [3]), học sinh cần phân tích được các tầng

nghĩa của từ “khóa xuân” như sau:
Trước hết “khóa xn” là “khóa kín tuổi xn”[8]; ở đây tác giả muốn nói tới
việc Kiều đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Như vậy, “khóa xn” cho ta thấy được
cảnh ngộ đáng thương của nàng Kiều. Bên cạnh đó từ “khóa xuân” vốn được dùng để
chỉ những người con gái nhà quyền quý thời xưa bị cấm cung, không được ra khỏi
phịng ở để giữ gìn phẩm giá của mình. Song Lúc này Kiều đã bị Mã Giám Sinh lừa, bị
thất thân với Mã Giam Sinh thì cịn gì để mà giữ gìn ? Vậy với từ “khóa xn” Nguyễn
Du cịn thể hiện nổi xót xa, mỉa mai cho thân phận của Thúy Kiều

Ví dụ 2: Khi dạy phần đọc hiểu, giáo viên cần gợi dẫn để học sinh phát
hiện và phân tích giá trị biểu cảm của các từ “chờn vờn” và “ấp iu” trong
hai câu thơ :
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
( Bếp lửa – Bằng Việt,[3])
Trong hai câu thơ trên tác giả đã sử dụng hai từ láy "chờn vờn" và "ấp iu". Từ
láy “chờn vờn” vừa gợi ra hình ảnh thực: bếp lửa bập bùng trong làn sương sớm, vừa
gợi ra cái mờ nhịa của hình ảnh trong kí ức của tác giả. Còn từ “ấp iu” là một sáng
tạo về mặt ngôn ngữ của nhà thơ Bằng Việt. Đây là sản phẩm của sự kết hợp và biến
thể của hai từ ôm ấp và nâng niu .Với sáng tạo độc đáo này từ ấp iu đã diễn tả chính
xác cơng việc nhóm bếp. Đồng thời nó cũng cho người đọc hình dung ra đơi bàn tay dịu
dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lịng chi chút của người nhóm lửa.

- Hình ảnh thơ
Bên cạnh ngơn ngữ, hình ảnh thơ cũng là một yếu tố nghệ thuật
không thể thiếu khi phân tích thơ. Khi tìm hiểu văn bản, giáo viên cần gợi
dẫn cho học sinh nhận ra đâu là hình ảnh tiêu biểu giàu giá trị biểu cảm,
giàu sức gợi thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm để học sinh phân tích,
cảm nhận.
Ví dụ 1:

Trong bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh, có rất nhiều hình ảnh thơ độc đáo thể
hiện sự quan sát tinh tế và sáng tạo của nhà thơ. Đặc biệt là hình ảnh:
“ Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”[4]
Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là một phát hiện rất
mới và độc đáo của ông. Câu thơ gợi trước mắt ta hình ảnh một đám mây bơng xốp đẹp
như một dải lụa cịn vương trên bầu trời: Một nửa mang sắc nắng của mùa hạ, nửa kia
mang sắc biếc của mùa thu. Dải mây ấy trong hành trình sang thu dường như vẫn cịn
lưu luyến vấn vương chưa muốn rời xa mùa hạ. Như vậy chỉ một hình ảnh thơ mà Hữu
Thỉnh vừa gợi ra cái hình, cái tình của sự vật. Đồng thời nó cịn giúp ta nhận ra bước
chuyển của thời gian trong khoảnh khắc giao mùa.
5

skkn


Ví dụ 2:
Bài thơ“Đồng chí” kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc:“Đầu súng trăng treo”[3].
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, bất ngờ và là điểm sáng của
tồn bài thơ. Đây là hình ảnh vừa chân thực vừa lãng mạn. “Đầu súng trăng treo”
trước hết là một hình ảnh có thật về những đêm hành qn, phục kích của chính tác
giả. Nhưng đó cịn là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, gợi ra nhiều liên tưởng
phong phú. Súng là hình ảnh biểu tượng của chiến tranh khói lửa, trăng là hình ảnh
của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống n bình. Sự hịa nhịp giữa súng và trăng
vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa
cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước: người lính cầm súng là để bảo vệ cuộc sống
hịa bình, độc lập tự do cho Tổ quốc. Súng và trăng là chiến tranh và hịa bình, là
chiến sĩ và thi sĩ, là thực tại và ảo mộng…Tất cả đã hòa quyện, bổ sung cho nhau
trong cuộc đời người lính cách mạng.


- Giọng điệu thơ
Giọng điệu thơ là phong cách, cách nhìn nhận, khám phá riêng của
từng nhà thơ từ đề tài, nội dung tư tưởng, cảm xúc của tác giả, hình thức
nghệ thuật…Mỗi tác giả đều ghi dấu ấn riêng của mình trong dịng chảy
chung của văn học. Vì vậy, khi phân tích thơ giáo viên cần hướng dẫn học
sinh nhận ra giọng điệu của từng nhà thơ qua đọc - hiểu văn bản để thấy
được phong cách sáng tác, cái khác biệt của người nghệ sĩ.
Ví dụ:
- Thơ Hữu Thỉnh vừa có những đặc điểm chung của thơ ca kháng chiến chống
Mỹ lại vừa có những nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Ông đã tạo được
một tiếng thơ mới mẻ cho nền thơ ca dân tộc bằng một loạt các tác phẩm thơ có giọng
điệu riêng…Xuyên suốt bao trùm thế giới ấy là tấm lịng tha thiết gắn bó với q
hương, đất nước, con người Việt Nam. Ông viết hay và viết nhiều về nơng thơn và mùa
thu.

- Thơ Nguyễn Duy giàu tính triết lý, thiên về chiều sâu với những trăn trở
suy tư. Giọng điệu tâm tình tự nhiên kết hợp giữa yếu tố trữ tình và tự sự.
“Trăng cứ trịn vành vạnh
Kể chi người vơ tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình”
(Ánh trăng - Nguyễn Duy,[3])
- Thơ Y Phương thể hiện cái mộc mạc, chân thực, mạnh mẽ và trong sáng,
lối tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
“Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”
(Nói với con – Y Phương,[4])
Thơ Phạm Tiến Duật có giọng điệu mang tính khẩu ngữ, sôi nổi, trẻ
trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.

“Không có kính khơng phải vì xe khơng có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng„
(Bài thơ về Tiểu đội xe khơng kính- Phạm Tiến Duật, [3])
6

skkn


- Biện pháp tu từ
Do khả năng biểu đạt, biểu cảm đặc biệt nên việc sử dụng các biện
pháp tu từ rất được chú trọng trong việc diễn đạt nội dung thơ. Muốn làm
bài văn phân tích thơ đúng, hay và sâu, học sinh phải nắm vững kiến thức
về các biện pháp tu từ tiếng Việt. Kiến thức này các em đã được trang bị
trong các tiết phân môn tiếng Việt. Vì vậy, trong q trình giảng dạy ở
phân mơn giảng văn, giáo viên cần hướng dẫn để các em phát hiện được
các biện pháp tu từ và quan trọng hơn là phân tích được tác dụng của nó
đối với việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Các biện pháp tu từ
này các em đã được học bao gồm: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, hốn dụ...
Ví dụ :
+ Biện pháp so sánh
“ Mặt trời xuống biển như hịn lửa”

(Đồn thuyền đánh cá – Huy Cận, [3])
Ở câu thơ này tác giả đã sử dụng hình ảnh so sánh đẹp, giàu sức liên tưởng,
tưởng tượng: hồng hơn bng xuống được ví như "hịn lửa". Hình ảnh so sánh trong
câu thơ đã giúp người đọc hình dung rõ bức tranh hồng hơn trên biển vừa tráng lệ,
huy hồng vừa sống động, kì thú. Hồng hơn bng xuống nhưng khơng gian khơng
chìm vào bóng tối mà rực lên ánh sáng, trên mặt nước lại cháy bùng ngọn lửa. Hình

ảnh thiên nhiên ấy cũng gợi lên sức sống, khơng khí hào hứng, náo nức của những
người ngư dân trong buổi ra khơi đánh cá.

+ Biện pháp nhân hóa
‘‘Sơng được lúc dềnh dàng’’
(Sang thu – Hữu Thỉnh, [4])
Bằng nghệ thuật nhân hoá đặc sắc, nhà thơ đã rất tài hoa ghi lại linh hồn của
cảnh vật, của dịng sơng q hương ăm ắp phù sa, vươn mình giữa ruộng đồng vào
những ngày giao mùa. Vào mùa thu, nước sông êm đềm, nhẹ nhàng trôi, lững lờ mà
không chảy siết như sau những con mưa mùa hạ, Cái dềnh dàng của dịng khơng khơng
chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của
con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi, nghĩ suy về những trải nghiệm
trong cuộc đời.

+ Biện pháp ẩn dụ
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
( Viếng lăng Bác – Viễn Phương, [4])
“Mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ. Bởi vì Bác Hồ và mặt
trời đều có điểm tương đồng. Nếu mặt trời đem đến ánh sáng, sự sống cho mn
vật, mn lồi thì Bác với đường lối lãnh đạo đúng đắn đã soi sáng con đường
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, mang về cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Nếu mặt trời là hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng, bất tử thì Bác Hồ
kính u cũng sống mãi trong triệu triệu trái tim con người Việt Nam hôm nay và
mai sau.

+ Biện pháp hốn dụ 
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
7


skkn


Chỉ cần trong xe có một trái tim ”
( Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính – Phạm Tiến Duật, [3] )
Hình ảnh trái tim là một hình ảnh hốn dụ tuyệt đẹp gợi ra nhiều ý nghĩa
biểu tượng thiêng liêng. Trước hết "trái tim" chỉ người lính lái xe ở tuyến đường
Trường Sơn những năm đánh Mỹ. Đồng thời đó cịn là trái tim u thương, trái
tim cháy bỏng ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trái
tim mang tinh thần lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào ngày đất nước thống
nhất, Bắc – Nam sum họp một nhà.

Trên đây mới chỉ là một số ví dụ biện pháp tu từ tiêu biểu, cịn rất
nhiều biện pháp tu từ mà giáo viên cần gợi dẫn để học sinh phân tích khi
nghị luận thơ như điệp ngữ, nói giảm nói tránh, nói quá… Giáo viên cũng
cần lưu ý với các em, trong quá trình nghị luận cần phân tích kết hợp tác
dụng của các biện pháp nghệ thuật trong khổ thơ, bài thơ.
Như vậy, trước khi hướng dẫn học sinh các kĩ năng để làm bài
nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, học sinh cần hiểu được các yếu tố nội
dung và nghệ thuật của thơ. Các em phải biết mình cần nhận xét, đánh giá
về những gì. Để làm được điều này người giáo viên cần phải có sự tích
hợp trong q trình giảng dạy cả ba phân môn Tiếng Việt, Đọc – hiểu văn
bản và phần Tập làm văn.
2.3.2. Những yêu cầu cụ thể khi làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ

2.3.2.1. Về kiến thức cần có trước khi làm bài
Để làm tốt được bài văn nghị luận về tác phẩm văn học nói chung,
nghị luận về thơ nói riêng, u cầu đầu tiên có tính chất tiên quyết đó là
học sinh phải nắm vững những kiến thức cơ bản về tác phẩm. Đó là:
- Kiến thức về tác giả, cuộc đời và sự nghiệp, phong cách thơ.

- Kiến thức về tác phẩm: hoàn cảnh sáng tác, hiểu được nội dung
chính và nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm.
- Thuộc văn bản thơ
- Xác định được những những hình ảnh, từ ngữ, biện pháp tu từ….
đặc sắc của bài thơ, đoạn thơ đã học.
Tất cả các kiến thức này các em đã được trang bị qua tiết học dưới sự
dẫn dắt của giáo viên. Khi kết thúc tiết dạy tôi thường yêu cầu các em tự hệ
thống hóa kiến thức bài học bằng cách vẽ sơ đồ tư duy. Sơ đồ tư duy
thường bao gồm những nội dung sau:
* Về tác giả: Thường là những thông tin khái quát nhất giới thiệu về
tác giả. Phần này sẽ giúp các em dễ dàng viết được phần mở bài theo cách trực
tiếp.

Ví dụ:
+ “Phạm Tiến Duật là gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ơng có giọng điệu sơi nổi, trẻ trung, hồn
nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc”.[3]
+ “Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện sự chân thật, trong
sáng, lối tư duy giàu hình ảnh của người dân miền núi”…..[4]

* Về tác phẩm:
8

skkn


+ Về nội dung: Dựa vào bố cục bài thơ sau khi giáo viên hướng dẫn tìm
hiểu văn bản thơ, các em sẽ dễ dàng khái quát được những giá trị nội dung
bằng sơ đồ tư duy.
+ Về nghệ thuật: Học sinh sẽ ghi nhớ được những giá trị nghệ thuật tiêu

biểu làm nên thành cơng của tác phẩm thơ.
Ví dụ: Sau khi học bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, tôi yêu cầu
học sinh vẽ sơ đồ tư duy hệ thống hóa kiến thức bài học như sau:

[9].
Thơng qua thao tác này, học sinh sẽ ghi nhớ được những kiến thức
cơ bản nhất về tác giả, tác phẩm, nội dung, nghệ thuật cũng như những tín
hiệu về ngơn ngữ, hình ảnh, chi tiết tiêu biểu của văn bản. Đây là bước
chuẩn bị có tính chất nền tảng trước khi viết bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ.
(ở phần Phụ lục, có một số sản phẩm sơ đồ tư duy của học sinh)

2.3.2.2. Yêu cầu của bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ
Bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ bên cạnh những yêu cầu
chung của bài văn nghị luận như có hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận
chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, bố cục hợp lý, lời văn phải chuẩn xác, trong
sáng... cịn có những yêu cầu riêng như sau:
- Khi nghị luận tác phẩm thơ, học sinh phải bám sát vào văn bản thơ
tìm ra cái hay, cái đẹp của ngơn ngữ, hình ảnh, giọng điệu…Từ đó có
những phân tích, nhận xét đánh giá, cảm nhận xác đáng về nội dung và
nghệ thuật của bài thơ.
9

skkn


- Người viết cần có những cảm nhận, suy nghĩ riêng của mình. Cảm
nhận ấy phải đúc rút từ kinh nghiệm riêng của bản thân và xuất phát từ sự
phân tích ngơn từ, hình ảnh của bài thơ. Tuyệt đối không được suy diễn chủ
quan tùy tiện.
- Cảm xúc của bài viết không phải là việc sử dụng các từ biểu lộ cảm

xúc như a, ôi...mà cảm xúc là sự rung cảm và đồng điệu. Tức là các em
phải thực sự rung động trước vẻ đẹp của ngơn từ, hình ảnh, trước tư tưởng
tình cảm của nhà thơ gửi gắm vào đứa con tinh thần của mình. Có như vậy,
bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ của các em mới khơi gợi sự đồng cảm về
cảm xúc và thuyết phục được người đọc, người nghe.
2.3.3. Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng cơ bản để làm tốt bài văn
nghị luận về đoạn thơ, bài thơ
2.3.3.1. Kỹ năng phân tích đề
Phân tích đề được xem là khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định “dẫn
đường, chỉ lối” [6] cho người làm bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề
bài thì sẽ tìm ra được hướng đi đúng. Ngược lại, nếu phân tích sai thì sẽ
khơng đáp ứng được u cầu của đề, đơi khi cịn bị lệch đề, lạc đề. Thế
nhưng nhiều học sinh chưa ý thức được vai trị của bước tìm hiểu đề này
nên đã bỏ qua hoặc nếu có cũng mang tính chất hình thức.  Chính vì thế mà
người giáo viên phải giải thích cho các em thấy được vai trị của bước tìm
hiểu đề, hướng dẫn HS biết phân tích kĩ đề, rèn luyện cho các em trở thành
thói quen, kĩ năng khi làm bài.
Đối với dạng đề nghị luận về tác phẩm thơ, có thể thống kê những
cách ra đề như sau:
- Dạng 1: Nghị luận về một đoạn thơ
- Dạng 2: Nghị luận về toàn bộ bài thơ
- Dạng 3: Nghị luận về một phương diện của thơ
- Dạng 4: Nghị luận về một hình ảnh, chi tiết trong bài thơ
- Dạng 5: Dạng đề so sánh giữa hai bài thơ, hai đoạn thơ
- Dạng 6: Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ, đoạn thơ
Dù ở dạng nào, trước hết giáo viên yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề
bài, tìm và gạch chân những từ ngữ quan trọng để xem xét, xác định chính
xác yêu cầu của đề. Cụ thể phải xác định cho được ba yêu cầu sau đây:
- Xác định phương pháp nghị luận.
- Tìm nội dung bàn luận.

- Tìm phạm dẫn chứng.
Cần lưu ý các em có hai dạng đề: Đề có mệnh lệnh và khơng có
mệnh lệnh. Dạng đề có mệnh lệnh học sinh sẽ dễ dàng xác định được thao
tác lập luận chủ yếu sử dụng trong bài viết của mình như : phân tích, cảm
nhận, suy nghĩ...Đối với dạng đề khơng có mệnh lệnh thường làm cho các
em băn khoăn, lúng túng khi phân tích đề. Trong quá trình hướng dẫn, giáo
viên cần cho các em thấy dù khơng có mệnh lệnh, các em vẫn phải phân
tích, cảm nhận, trình bày suy nghĩ của mình. Tức là các em phải vận dụng
10

skkn


nhiều thao tác trong bài viết để làm rõ vấn đề nghị luận. Tùy từng dạng đề
cụ thể mà các em có sự vận dụng linh hoạt các thao tác này.
Ví dụ 1: Phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
- Phương pháp nghị luận: Phân tích
- Nội dung: Nội dung và nghệ thuật của khổ thơ
- Phạm vi dẫn chứng: Khổ thơ đầu bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh
Ví dụ 2: Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã thể hiện lịng
thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác khi vào lăng
viếng Bác
Với dạng đề nghị luận ý kiến bàn về bài thơ, đoạn thơ các em sẽ xác định:
- Phương pháp nghị luận: Phân tích, cảm nhận, suy nghĩ
- Nội dung: “Lịng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với
Bác khi vào lăng viếng Bác”
- Phạm vi dẫn chứng: Bài thơ “Viếng lăng Bác”
Với bước tìm hiểu đề, yêu cầu các em tiến hành nhanh và xác định
chính xác yêu cầu của đề. Muốn vậy, khơng có cách nào khác đó là các em
phải rèn luyện kĩ năng thành thục qua thực hành.

2.3.3.2. Kỹ năng tìm ý
 
Sau khi tiến hành xong phần tìm hiểu đề, giáo viên hướng dẫn học
sinh bước tìm ý.Tìm ý gắn liền với việc người viết xác định luận điểm cho
bài viết của mình. Như vậy, đây chính là bước chúng ta xây dựng những
cột móng đầu tiên của ngơi nhà.
Các bước tìm ý:
Bước 1: Đọc kĩ bài thơ, đoạn thơ để có cảm nhận chung về tác phẩm.
Bước 2: Trả lời các câu hỏi: Đề bài yêu cầu nội dung gì?Nội dung ấy được
thể hiện bằng những đặc sắc nghệ thuật nào?( Hình ảnh, nhịp điệu, từ ngữ,
biện pháp tu từ…); khơi gợi trong lịng ta những tình cảm, cảm xúc gì?
Bước 3: Chia ý của luận đề thành từng luận điểm.
Ví dụ 1: Phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Ở bước tìm ý học sinh xác định được các ý:
+ Cảm nhận tinh tế khi chợt nhận ra những tín hiệu chuyển mùa từ hạ sang thu.
+ Cảm xúc ngỡ ngàng trước sự thay đổi bất ngờ của thiên nhiên.
+ Hình ảnh thơ ấn tượng, ngơn từ trong sáng, gợi cảm.

Ví dụ 2: Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã thể hiện lòng
thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác khi vào lăng
viếng Bác
Sau khi tìm hiểu đề, học sinh tiến hành bước tìm ý bằng cách trả lời
các câu hỏi sau: Lịng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi
vào lăng Viếng Bác được thể hiện như thế nào? Học sinh dựa vào kiến thức
đã học (xem lại sơ đồ tư duy mà các em đã được hướng dẫn để hình dung,
tái hiện lại hệ thống kiến thức đã học) để chia ý của luận đề thành các luận
điểm. Gồm có 4 luận điểm:
+ Niềm xúc động thành kính của nhà thơ khi đến lăng Bác
11


skkn


+ Niềm xúc động thành kính của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.
+ Cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ khi vào trong lăng Bác
+ Niềm thương nhớ, xúc động của nhà thơ khi phải rời lăng và ước nguyện của
nhà thơ

2.3.3.3. Kỹ năng lập dàn ý
Như đã nói ở trên lập dàn ý là sắp xếp các ý đã tìm được ở bước tìm
ý theo một trình tự thích hợp lí và xác định mức độ trình bày mỗi ý theo tỉ
lệ thoả đáng giữa các ý.
Nếu một bài văn hồn chỉnh được ví như một ngơi nhà thì dàn ý là cái
sườn thiết kế nên ngơi nhà ấy. Viết một bài văn nghị luận cũng thế. Muốn có một
bài văn nghị luận hay, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu của đề bài một cách rõ ràng,
chặt chẽ, có hệ thống, mạch lạc, lập luận thuyết phục… người giáo viên phải
hướng dẫn học sinh làm tốt bước lập dàn ý này.

Trong q trình giảng dạy tơi thấy: Đây là bước mà học sinh coi là
khó nhất khi làm bài. Và các em cũng hay bỏ qua để thực hiện bước viết
bài. Tại sao vậy? Vấn đề này cũng dễ lí giải: thứ nhất, các em thường có
tâm lí sợ mất nhiều thời gian khi làm bài. Thứ hai, khơng có thói quen,
chưa tập thành nếp lập dàn bài trước khi viết bài hoàn chỉnh. Như vậy, hậu
quả của việc không lập dàn ý là bài văn có hệ thống luận điểm thường sắp
xếp khơng theo trật tự lô gic, các ý lộn xộn, hoặc thiếu ý, thiếu luận điểm
trong bài viết. Vậy bước này, giáo viên cần phải làm gì để giúp các em
tránh khỏi những tồn tại trên?
Trước hết giáo viên yêu cầu học sinh phải nhớ được dàn ý chung của
bài văn nghị luận về đoạn thơ bài thơ. Sau đó dựa vào sơ đồ tư duy (các em
đã thực hiện ở tiết đọc hiểu văn bản tơi đã trình bày ở phần trên) để tái hiện

lại kiến thức đã học và tiến hành lập dàn ý cho đề bài.
Dàn ý bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ như sau:
A. Mở bài
- Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ.
- Nhận xét, đánh giá chung của người viết về nội dung và nghệ thuật của đoạn
thơ, bài thơ
B. Thân bài
- Ý chuyển + luận điểm 1 + Dẫn thơ + Phân tích nghệ thuật và nội dung +
Chốt ý
- Ý chuyển + luận điểm 2 + Dẫn thơ + Phân tích nghệ thuật, nội dung + Chốt
ý
……..
- Đánh giá chung về đoạn thơ, bài thơ:
C. Kết bài
- Khái quát nét đặc sắc về nghệ thuật và nội dung
- Liên hệ bản thân, cuộc sống

Với bước này tôi hướng dẫn học sinh đi từ những đề đơn giản đến
phức tạp, để các em từng bước rèn luyện và hình thành kỹ năng cho mình.
Ngồi ra, tơi cịn cụ thể hóa dàn bài chung của nghị luận về một đoạn thơ,
bài thơ bằng sơ đồ tu duy sau:
12

skkn


[9].
Ví dụ 1: Phân tích khổ thơ đầu bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Giới thiệu vị trí và chép khổ thơ.
B. Thân bài: Suy nghĩ, đánh giá về nội dung, nghệ thuật của khổ 1.
1. Cảnh sang thu của đất trời:
- Nội dung: tín hiệu thu sang nhẹ nhàng, mơ hồ.
- Nghệ thuật:
+ Hình ảnh: "hương ổi", “gió, sương".
+ Từ ngữ gợi tả, biểu cảm: "phả, se, chùng chình".
2. Cảm xúc của nhà thơ:
- Nghệ thuật: từ ngữ gợi tả, biểu cảm "bỗng, hình như”.
- Nội dung: tâm trạng ngỡ ngàng, bâng khuâng.
C. Kết bài: Tổng hợp lại giá trị, ý nghĩa của khổ 1
- Nội dung: đất trời chuyển sang thu nhẹ nhàng mà rõ rệt
- Nghệ thuật: cảm nhận tinh tế, hình ảnh giàu sức biểu cảm.

Ví dụ 2: Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã thể hiện lịng
thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác khi vào lăng
viếng Bác
-Dàn ý:
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
13

skkn


- Dẫn dắt và nêu vấn đề
B. Thân bài
Với đề bài này, chúng ta phải triển khai những luận điểm và tương ứng
với những luận cứ sau:
1. Niềm xúc động thành kính của nhà thơ khi đến lăng Bác (khổ 1)

- Cách xưng hơ: “con” với “Bác” diễn tả tình cảm của nhân dân với lãnh tụ gần
gũi, thân mật như con với cha.
- Từ “thăm”: Làm giảm đi nỗi đau mất mát vô cùng to lớn trước sự ra đi của
Người.
- Thán từ “ơi”: xúc động, tự hào.
- Hình ảnh hàng tre:
+ Tả thực: là hình ảnh quen thuộc nơi làng quê đã về đây hội tụ mờ ảo, lung linh
trong sương sớm.
+ Ẩn dụ: Biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước.
2. Niềm xúc động thành kính thiêng liêng của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.
(khổ 2)
3. Cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ khi vào trong lăng Bác (khổ 3)
4. Niềm thương nhớ, xúc động của nhà thơ khi phải rời lăng và ước nguyện của
nhà thơ (khổ 4)
( Các luận điểm 2,3,4 các em làm tương tự luận điểm 1)
* Đánh giá về nghệ thuật:
C. Kết bài
- Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.

Giáo viên cần dành thời gian hướng dẫn và cho các em thực hành
với các dạng đề khác nhau, yêu cầu học sinh lập dàn ý, chấm chữa nghiêm
túc.
2.3.3.4. Kỹ năng viết từng phần cho bài văn
Từ dàn ý đã có sẵn, giáo viên hướng dẫn các em viết thành bài văn
hồn chỉnh có bố cục 3 phần rõ ràng: Mở bài, thân bài, kết bài.
Yêu cầu đối với bước này là :
- Phải bám sát vào dàn bài đã lập để triển khai hệ thống luận điểm, luận
cứ, luận chứng.
- Bài văn hoàn thiện phải là một thể thống nhất về hình thức, hồn chỉnh

về nội dung. Vì vậy, các câu, các đoạn trong văn bản phải liên kết với nhau
một cách chặt chẽ về nội dung và hình thức. Liên kết về nội dung đó là sự
thống nhất về chủ đề của các đoạn văn trong trong văn bản, nghĩa là các
đoạn văn phải hướng vào luận đề và làm rõ luận đề. Liên kết hình thức giữa
các đoạn văn được thể hiện bởi các dấu hiệu hình thức như sử dụng phép
nối, phép thế, phép lặp…
Khi rèn luyện kỹ năng viết bài cần bắt đầu từ các bài tập rèn luyện kĩ
năng xây dựng đoạn văn cụ thể cụ thể, liên kết đoạn văn ấy với các phần
còn lại của văn bản.
a. Kỹ năng viết mở bài
14

skkn


Trong bài tập làm văn phần mở bài là phần gây ấn tượng đầu tiên cho
người đọc. Nó là đoạn giới thiệu vấn đề được nghị luận trong bài văn, đồng
thời khơi gợi, lôi cuốn sự chú ý của người đọc đối với vấn đề đó. Có một
thực trạng thường xảy ra đó là khi đứng trước một đề bài, học sinh rất lúng
túng không biết mở bài như thế nào cho hay và thường các em để mất
nhiều thời gian “chết”  ở phần này. Vì vậy, giáo viên cẩn chú ý rèn kĩ năng
viết đoạn mở bài cho các em.
* Nguyên tắc mở bài
- Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài
- Chỉ được phép nêu những ý khái quát (HS không được lấn sang phần thân
bài: giảng giải, minh hoạ hay nhận xét, đánh giá ý kiến nêu trong đề bài).
Có 2 cách mở bài:
+ Mở bài trực tiếp: Đi từ giới thiệu tác giả, tác phẩm rồi giới thiệu vào
vấn đề nghị luận. (Với cách này, học sinh dựa vào những kiến thức ở tiết
đọc hiểu và đã được khái quát ở sơ đồ tư duy để viết). Mở bài này thường

ngắn gọn, dễ làm, tiết kiệm được thời gian nhưng đôi khi kém phần thu hút
người đọc và thường dành cho đối tượng học sinh trung bình.
+ Mở bài gián tiếp: Là cách mở bài đi từ cái chung đến cái cụ thể hoặc
nêu ra một câu trích lý luận, châm ngơn, câu nói nổi tiếng có liên quan đến
vấn đề cần nghị luận. Cách này địi hỏi các em phải có vốn kiến thức về lý
luận, về văn chương nên thường dành cho đối tượng học sinh khá giỏi.
Dù là cách mở bài nào giáo viên cũng lưu ý học sinh những nội dung
cần và đủ trong mở bài đó là phải đảm bảo ba yêu cầu: Dẫn vào đề, nội
dung đề, chuyển ý.
Ví dụ: Với đề bài : Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã thể
hiện lịng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác khi
vào lăng viếng Bác
Tùy vào khả năng, học sinh có thể lựa chọn cách mở bài trực tiếp
hoặc gián tiếp như sau:
- Mở bài trực tiếp:
Trong những bài thơ viết về Bác sau ngày Bác đi xa, “Viếng lăng Bác”
của Viễn Phương là một bài thơ đặc sắc. Bài thơ thể hiện niềm kính u, lịng
thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác.

- Mở bài gián tiếp: 
Hồ Chí Minh – tên Người là cả một niềm thơ. Viết về Người là một vinh dự lớn
lao của đời người nghệ sĩ. Chẳng biết hình ảnh ấy đã in đậm trong bao câu ca, lớp kịch,
khúc hát. Chỉ biết mỗi tác phẩm là một dòng cảm xúc, khơng ai nói hộ ai bao giờ.
Nhưng nào dễ mấy ai quên “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, bài thơ thể hiện lịng
thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác khi vào lăng viếng Bác.

b. Kỹ năng viết các đoạn trong phần Thân bài: 
Nếu mở bài và kết bài của một bài văn chỉ triển khai thành một đoạn
văn tương ứng với mỗi phần thì phần thân bài có nhiều đoạn văn. Có một
thực tế, khơng ít học sinh khi viết phần thân bài thường viết liền thành một

“khối”, có nghĩa phần thân bài các em chỉ viết duy nhất một đoạn văn. Để
15

skkn


khắc phục lỗi này và giúp học sinh rèn kĩ năng xây dựng các đoạn phần
thân bài, tôi yêu cầu học sinh dựa vào dàn ý, chọn một luận điểm hoặc giao
cho mỗi nhóm một luận điểm để các em xây dựng các đoạn văn tương ứng
theo các cách lập luận: diễn dịch, qui nạp, tổng - phân - hợp... Sau đó cho
các em trình bày đoạn văn viết của mình, các bạn trong nhóm, các nhóm
khác nhận xét và sửa chữa, bổ sung để hình thành đoạn văn hồn chỉnh.
Khi nhận xét, sửa chữa cần lưu ý các em tính liên kết giữa đoạn văn đang
viết với các phần khác của văn bản. Giáo viên có thể chọn những đoạn văn
viết tốt cho học sinh đọc tham khảo và tự rút kinh nghiệm cho mình.
Giáo viên phải hình thành cho học sinh quy trình xây dựng đoạn văn
triển khai luận điểm theo các bước sau:
+ Nhận xét khái quát về nội dung của đoạn thơ, khổ thơ ấy.
+ Dẫn chứng đoạn thơ, khổ thơ.
+ Phát hiện các dấu hiệu nghệ thuật và phân tích nghệ thuật ấy trong
việc diễn đạt nội dung
+ Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, khổ thơ.
Ví dụ: Viết đoạn văn triển khai luận điểm thứ nhất phần thân bài: Niềm
xúc động của nhà thơ khi đến lăng Bác (khổ 1) như sau:
“Mở đầu bài thơ, viễn Phương đã bộc lộ niềm xúc động của mình khi đến
“thăm” lăng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”[4]

Câu thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa
đựng trong nó biết bao điều sâu xa. Nhà thơ nói mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ
quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy, đây khơng đơn giản là chuyến đi
thăm cơng trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là
cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn. Đó là cuộc trở về để
báo cơng với Bác, để được Bác ơm vào lịng. Khơng những vậy,với cách xưng hô "Con Bác" đậm chất Nam Bộ, đã thể hiện tình cảm gần gũi, ấm áp mà thành kính của nhà thơ
đối với Bác. Nhà thơ không dùng từ “viếng” mà dùng biện pháp tu từ nói giảm, nói
tránh “thăm” vừa giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát vừa diễn tả sự xúc động nghẹn
ngào của nhà thơ. Ta tưởng như Viễn Phương là đứa con xa bây giờ mới có dịp trở về
thăm người cha già dân tộc. Đứng từ xa ngắm nhìn lăng Bác, hình ảnh hàng tre bát
ngát hiện lên trong màn sương huyền ảo của bầu trời Hà Nội. Đây là hình ảnh thực chỉ
những cây tre bình dị, mộc mạc được trồng hai bên lăng Bác. Từ hình ảnh tả thực này,
nhà thơ đã liên tưởng tới hình ảnh ẩn dụ “hàng tre xanh xanh Việt Nam...” - biểu tượng
cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài
lịch sử dựng nước, giữ nước. Nhà thơ thật tài tình khi sử dụng cặp hình ảnh tả thực và
hình ảnh ẩn dụ sóng đơi “hàng tre” cùng với thán từ “ôi” đã thể hiện niềm xúc động,
tự hào của nhà thơ trước hàng tre thân thuộc nơi lăng Bác.”

Bên trên chỉ là ví dụ một đoạn văn (triển khai luận điểm thứ nhất)
của phần thân bài (gồm nhiều đoạn), giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
16

skkn


viết các đoạn khác nhau của các đề khác để các em rèn luyện kĩ năng viết
các đoạn phần thân bài.
c. Kỹ năng viết kết bài
Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ của bài văn nhưng lại rất quan trọng
đảm bảo tính hồn chỉnh của bố cục bài văn. Một kết bài hay là kết bài sẽ

tạo được “dư ba” trong lòng người đọc dù khi đã khép lại trang văn. Tuy
nhiên vì nhiều lí do khác nhau, kết bài thường là phần “đuối” nhất so với
các phần khác của bài văn, thậm chí nhiều bài văn thiếu hẳn phần kết bài.
Nguyên nhân khách quan, do kết bài là phần cuối cùng, khi làm đến kết bài
thì gần hết giờ nên các em thường làm vội, làm cho có, cho đầy đủ bố cục.
Nguyên nhân chủ quan, đó là sau khi làm thân bài dài, phải đi phân tích,
bình luận nhiều ý nên đến cuối thường bị cụt ý, khơng cịn gì để nói hoặc
do bản thân thiếu kinh nghiệm kết bài. Vì vậy, để hướng dẫn học sinh viết
được những kết bài sâu sắc, người giáo viên cần phải giúp học sinh nhận
thức được tầm quan trọng của đoạn kết bài và hướng dẫn các em rèn luyện
kĩ năng viết đoạn kết bài đúng, hay.
Yêu cầu của kết bài:
+ Phải khái quát ngắn gọn, cô đọng vấn đề đã trình bày
+ Khơng được phép lặp lại phần mở bài.
Có nhiều cách kết bài khác nhau, tuỳ theo khả năng của người viết. Có
thể kết bài bằng cách tóm tắt, khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật
của tác phẩm. (Đây là dạng kết bài ngắn gọn, đơn giản) hoặc kết bài bằng
một nhận định, phê bình, bằng một đoạn thơ, bài hát có nội dung liên quan
đến vấn đề. Cũng có thể kết bài bằng cách vận dụng vào cuộc sống và rút
ra bài học…
Ví dụ: Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã thể hiện lịng
thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác khi vào lăng
viếng Bác, học sinh có thể có các cách kết bài sau:
- Kêt bài 1
Tóm lại, với lời thơ giản dị, giọng thơ trang nghiệm thành kính, tha thiết và
rất giàu cảm xúc, bài thơ đã để lại ấn tượng rất sâu đậm trong lòng người đọc. Bởi lẽ,
bài thơ không những chỉ bộc lộ tình cảm sâu sắc của nhà thơ Viễn Phương đối với Bác
Hồ mà cịn nói lên tình cảm chân thành tha thiết của hàng triệu con người Việt Nam đối
với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.


- Kêt bài 2
"Bác Hồ - người là niềm tin thiết tha nhất trong lịng dân và trong trái tim
nhân loại", hình ảnh Bác luôn mãi sắt son và trường tồn theo thời gian. Bài thơ thật
đẹp, thật đáng quý, đáng yêu bởi những cảm xúc tự tận đáy lòng được viết ra của tác
giả. Viễn Phương đã nói hộ thay cho tình cảm chân thành tha thiết của hàng triệu con
người Việt Nam đới với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Không cầu kỳ, hoa mỹ, không
lộng lẫy, phô trương.“Viếng lăng Bác” kết tinh những tình cảm lớn trong một trái tim
bình dị đã chạm đến cảm xúc người đọc một cách tự nhiên như thế!

2.3.3.5. Kĩ năng đọc và sửa lỗi
Qua quan sát các bài kiểm tra của học sinh, tơi nhận thấy có một
thực tế đó là các em khơng có thói quen đọc, sửa lỗi. Mỗi bài văn chính là
17

skkn


sản phẩm của quá trình lao động, sáng tạo.Vì vậy, khi hoàn thành sản phẩm
phải kiểm tra, đánh giá và hồn thiện sản phẩm của mình. Bởi vì trong q
trình viết có thể có những sai sót về diễn đạt, trình bày. Giáo viên cần
hướng dẫn và yêu cầu các em phải dành thời gian thực hiện bước này. Cụ
thể các em làm bài xong, cần phải đọc lại toàn bài để rà sốt, sửa lỗi về bố
cục, về trình bày để hồn thiện bài viết của mình.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
*Trước khi tiến hành thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này thì trong
quá trình rèn luyện học sinh kĩ năng viết văn nghị luận về một đoạn thơ, bài
thơ tơi thấy vơ cùng khó khăn, các em khơng có hứng thú trong học văn,
viết văn. Kết quả làm bài thu được không cao, các em mắc lỗi về phương
pháp, chủ yếu diễn xuôi thơ, không biết xác định luận điểm, không biết đưa
vấn đề nghị luận vào mở bài cũng không biết chốt ý , đánh giá vấn đề…. Tỉ

lệ bài bị điểm kém còn cao, bài đạt điểm giỏi cịn ít, cụ thể k ết quả bài viết
số 7 của học sinh khối 9 trường THCS thị trấn Cành Nàng trong năm học 20172018 như sau:
Xếp loại
Lớp

Sĩ số

Giỏi
SL

Khá
TL
%

SL

TB
TL %

SL

Yếu; kém
TL %

SL

TL %

9A


25

1

4,0

7

28

11

44

6

24

9B

24

1

4,2

8

33,1


11

46

4

16,7

9C

27

0

0

5

18,5

10

37

12

44,5

Tổng


76

2

2,7

20

26,3

32

42,1

22

28,9

Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy văn nghị
luận về đoạn thơ, bài thơ đối với học sinh lớp 9 trường THCS thị trấn Cành
Nàng, tôi thấy các em đã có những chuyển biến theo hướng tích cực. Học
sinh có hứng thú hơn trong giờ học tập làm văn, khơng cịn ngại viết và đã
tự tin hơn trong viết đoạn văn, bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Bài
văn của các em đã ít mắc các lỗi như lạc đề, lệch đề như trước, diễn đạt trôi
chảy hơn, mạch lạc hơn, giảm các lỗi về diễn đạt, trình bày. Bài viết đã có
bố cục rõ ràng, luận điểm sáng rõ, lập luận chặt chẽ... Ngay từ cách mở bài,
kết bài cũng có nhiều sáng tạo. Phần thân bài đã được triển khai thành các
đoạn tương ứng với các ý chính. Các em khơng diễn đạt thành “khối” như
phần thân bài trước đây nữa. Đặc biệt hiện tượng học sinh diễn xuôi thơ
như trước đã được cải thiện rõ rệt. Có những bài viết khá sâu sắc, có nhiều

sáng tạo độc đáo, thể hiện cảm nhận riêng của người viết.
Cụ thể kết quả bài viết số 7 của học sinh Trường THCS Thị trấn
Cành Nàng ở hai lớp 9A và lớp 9B năm học 2018- 2019 như sau:
18

skkn



×