Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Nghề luật và đào tạo luật ở anh và mỹ và bài học kinh nghiệm cho việt nam (luật so sánh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.64 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

MƠN HỌC: Pháp luật so sánh
ĐỀ TÀI: Nghề luật và đào tạo luật ở Anh và Mỹ và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:

Hồ Chí Minh, Tháng 02/2023


/>
Mục lục
MỞ ĐẦU.....................................................................................................3
A.

NỘI DUNG.........................................................................................3

I.

Khái quát chung về hệ thống pháp luật Commonlaw..........................................3

II.

Đào tạo luật ở Anh và Mỹ.......................................................................................5

1.



Đào tạo luật...........................................................................................................7

2.

Đào tạo nghề luật................................................................................................10

III.

Nghề luật ở Anh và Mỹ......................................................................................11

1.

Nghề luật sư.........................................................................................................13

2.

Nghề thẩm phán..................................................................................................16

IV.

Những kinh nghiệm có thể tiếp thu và ứng dụng ở Việt Nam........................18

1.

Thực trạng đào tạo luật ở nước ta hiện nay.....................................................18

2.

Kinh nghiệm tiếp thu và ứng dụng...................................................................19


B.

KẾT LUẬN......................................................................................22


/>MỞ ĐẦU
Hiện nay, nước ta rất chú trọng đến vấn đề đào tạo luật. Số lượng cơ sở đào tạo luật
cũng như số lượng cử nhân luật tốt nghiệp hàng năm luôn ở mức cao, tuy nhiên, chất lượng
đầu ra chưa thực sự đáp ứng nhu cầu xã hội đang ngày càng phát triển. Để thay đổi điều
đó, chúng ta cần có những sự tham khảo việc đào tạo luật ở các quốc gia khác trên thế giới.
Anh và Mỹ là hai nước có hệ thống đào tạo luật chất lượng hàng đầu. Bởi vậy, việc nghiên
cứu cụ thể về đào tạo luật hai quốc gia này giúp cho chúng ta có thêm kinh nghiệm áp
dụng là vơ cùng cần thiết. Trong khn khổ bài tập nhóm, nhóm chúng em xin tìm hiểu
vấn đề: “Nghề luật và đào tạo luật ở Anh và Mỹ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”.


/>NỘI DUNG
I.

Khái quát chung về hệ thống pháp luật Commonlaw

Dòng họ pháp luật Common law hay còn được gọi bằng các tên khác: luật Anh – Mỹ
(Anglo – American legal family), dòng họ pháp luật Anglo – Saxon (Anglo – Saxon legal
family), dòng họ pháp luật án lệ (case law family) hoặc dòng họ common law (common
law family).
Hiện nay trên thế giới có một số cách hiểu về Common law:
- Loại luật có nguồn gốc từ hoạt động của các Tịa án Hồng gia Anh, áp dụng chung
cho tồn bộ nước Anh thay thế cho luật lệ và các tập quán địa phương (local law). Theo
nghĩa này, Common law được coi là một bộ phận của hệ thống pháp luật nước Anh, phân

biệt với Luật công bằng (Equity law).
- Khi đặt trong mối quan hệ với luật thành văn (statutes) thì có nhiều cách diễn tả
“common law”: luật án lệ (case law), luật do thẩm phán làm ra (judge-made law), luật tập
quán (customary law), luật bất thành văn (unwritten law). Nói cách khác đó luật có khơng
do cơ quan lập pháp làm ra mà được tạo ra bằng các phán quyết của tòa án (án lệ) và bằng
tập quán pháp.
- Common law cịn có nghĩa là luật khơng phải luật nước ngồi, hay đó là luật Anh tại
Anh quốc và tại cả các thuộc địa của Anh. Theo nghĩa rộng thì nó bao gồm tồn bộ pháp
luật Anh nhưu án lệ, luật thành văn tập quán pháp và công bằng.
- Một dòng họ luật cơ bản, được coi là lớn thứ hai trên thế giới (sau Civil law) hiện
còn được áp dụng tại các nước nói tiếng Anh với một vài ngoại lệ và ảnh hưởng tới nhiều
nước đã hoặc vẫn có mối liên hệ với nước Anh về chính trị hay kinh tế như: Mỹ, Canada,
Australia… và các nước khác trong khối thịnh vượng chung (châu Á, châu Phi, châu Mỹ).
Tóm lại nghĩa chuẩn xác của thuật ngữ “common law” phụ thuộc vào ngữ cảnh cụ thể
mà thuật ngữ đó được sử dụng.
Từ đó ta có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của dòng họ common law:


/>- Commom law là dịng họ pháp luật trong đó các hệ thống pháp luật trực thuộc ít,
nhiều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh và thừa nhận án lệ như nguồn luật chính
thống, tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp. Học thuyết tiền lệ pháp đều ít, nhiều chi
phối hệ thống luật án lệ theo hướng các phán quyết đã tuyên của tòa án cấp trên nói chung
có giá trị ràng buộc tịa án cấp dưới trong quá trình xét xử các vụ việc hiện tại. Tuy nhiên,
trong vài thập kỉ gần đây, án lệ khơng cịn là nguồn luật duy nhất mà luật thành văn đã
ngày càng trở thành nguồn luật quan trọng hàng đầu đối với những lĩnh vực khơng có án
lệ.
- Thẩm phán trong các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Common law đóng vai trị
quan trọng trong việc sáng tạo và phát triển các quy phạm pháp luật. Nghiên cứu hệ thống
pháp luật Anh ta có thể thấy: pháp luật Anh khơng được pháp điển hóa, thậm chí nước Anh
cịn khơng có Hiến pháp thành văn. Các thẩm phán Anh cho rằng họ có chức năng cơ bản

là phán xử, giải quyết tranh chấp và họ tạo ra các qui tắc pháp lý cho các tranh chấp cụ thể.
Vì vậy, khi giải quyết các vụ việc, các thẩm phán Anh thường đặc biệt chú ý đến các tình
tiết đặc thù của vụ việc. Khi tìm thấy một hay một vài phán quyết của Tòa án cấp trên xét
xử một hay nhiều sự việc có tình tiết tương tự, họ sẽ tìm đến phần nguyên tắc pháp lý mà
các thẩm phán tiền bối đã sáng tạo ra trong các bản án đã tuyên trong quá khứ để áp dụng,
giải quyết vụ việc hiện tại.
- Hệ thống pháp luật thuộc dòng họ pháp luật Common law khơng có sự phân biệt
giữa luật cơng và luật tư như trong dịng họ Civil law, trừ hệ thống pháp luật Anh vì ở
Anh, việc phân biệt hai mảng luật này là nhằm xác định thủ tục tố tụng nào cần áp dụng để
giải quyết vụ việc có liên quan.
- Chế định pháp luật tiêu biểu của các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ pháp luật
Common law là chế định ủy thác. Chế định ủy thác gắn liền với nhu cầu giải quyết tranh
chấp đất đai phát sinh từ hợp đồng ủy thác đất đai ở Anh thời trung cổ nhằm đưa ra giải
pháp công bằng đối với người được ủy thác có hành vi chiếm dụng đất đai của người ủy


/>thác trong quá trình thực hiện hợp đồng. Hiện nay thì phạm vi ủy thác mở rộng sang cả
lĩnh vực thương mại, hàng hải.
- Sau khi hình thành ở Anh quốc, Common law đã lan sang khắp các châu lục và làm
thành dòng họ Common law, một trong hai dòng họ pháp luật lớn nhất thế giới. Sự mở
rộng này xun suốt q trình thuộc địa hóa của Hồng gia Anh. Tuy nhiên có một số
thuộc địa khơng hồn tồn theo pháp luật Common law của Anh. Ví dụ, khi người Anh thế
chân người Pháp ở Bắc Mỹ, người Anh đã phải thừa nhận người Bắc Mỹ gốc Pháp sống ở
lưu vực sống St.Lawrence có quyền tiếp tục áp dụng luật tư của họ được xây dựng dựa trên
tập quán pháp Paris…
II.

Đào tạo luật ở Anh và Mỹ

Nghề luật là một nghề danh giá và đòi hỏi rất nhiều kinh nghiệm và trình độ của

những người làm luật, chính vì vậy ngay từ những bước đầu tiên để trở thành một luật gia
thì ln có những tiêu chuẩn nhất định đó chính là những tiêu chuẩn cơ bản trong việc đào
tạo. Tiêu chuẩn đầu vào là sinh viên luật ở Anh và Mỹ là rất khắt khe. Chỉ những người
thật sự ưu tú và xuất sắc mới có thể trở thành sinh viên luật. Ở Anh, yêu cầu về trình độ với
sinh viên thi đầu vào các trường đại học luật là phải có điểm đầu vào đạt mức “A”. Vì vậy
thơng thường những người có điểm thi như vậy là những người xuất sắc và có trình độ
nhận thức cao. Ở Mỹ, các khoa luật cũng tuyển chọn người vào học rất khắc khe. Một số
khoa luật chỉ chọn một người trong số năm hoặc mười người dự tuyển. Như vậy, ở Mỹ và
Anh, nghề luật sư đều là những nghề nghiệp danh giá vì địi hỏi nhiều trí tuệ và khả năng.
Ngay từ việc đào tạo luật cũng phải đảm bảo chất lượng để cho việc tiếp thu các kiến thức
pháp lý một cách tốt nhất, giúp hình thành nên tư duy mới hơn trong suốt quá trình học tập.
Mỗi một lần tuyển chọn đều rất khắt khe, nghiêm túc để chọn ra được những người có tài
phục vụ tốt cho ngành luật của quốc gia.
Thời gian học để được cấp bằng tương đương với bằng cử nhân luật ở Anh và Mỹ đều là 3
năm và đều học ở khoa luật. Tuy nhiên, ở Anh là đào tạo nghề luật còn ở Mỹ là đào tạo


/>luật nói chung. Bên cạnh đó ở Anh và Mỹ đều có chương trình đào tạo sau đại học. Ở Anh
là đào tạo nghề luật còn ở Mỹ là đào tạo luật nói chung.
Một điểm tương đồng nữa giữa việc đào tạo luật ở Anh và Mỹ đó là phương pháp
giảng dạy. Hai quốc gia này đều chú trọng phương pháp giảng dạy lấy sinh viên là trung
tâm, sinh viên chủ động tích cực tham gia bài học, giảng viên chỉ là người hướng dẫn. Về
cơ bản, các sinh viên luật ở Anh và Mỹ đều được học tập cả về lý thuyết và kĩ năng thực
hành, được giảng dạy bởi những giảng viên chất lượng.
Cuối cùng là về chương trình đào tạo và học liệu. Các mơn học được đưa vào chương
trình giảng dạy cũng tương tự các mơn học nhiều nơi trên thế giới như: Những môn học
bắt buộc gồm: luật đất đai, luật hình sự, luật hợp đồng, luật bồi thường trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng, luật hiến pháp… Tiếp theo là những môn học chuyên ngành và thảo luận.
Về học liệu ở Anh và Mỹ thì án lệ là nguồn luật chủ yếu để giải quyết vụ án, vì vậy các
sinh viên đều chú trọng xem xét các bản án đã có, những tình huống trên thực tế và phân

tích chúng.
Bên cạnh những điểm tương đồng đó thì ở mỗi nước lại có những đặc điểm riêng biệt
về quá trình đào tạo luật.
1.

Đào tạo luật

Thứ nhất, về đối tượng đào tạo. Ở Anh, đối với đào tạo cử nhân luật thì là những
người đã tốt nghiệp phổ thông. Ở Mỹ, đối tượng đào tạo luật lại là những sinh viên đã tốt
nghiệp đại học, phải có một bằng chun nghiệp, khơng phân biệt đó là bằng về lĩnh vực
nào. Nghĩa là điều kiện để được đào tạo luật ở Mỹ bắt buộc phải có bằng đại học chuyên
ngành bất kỳ nào khác luật, bởi bản chất của đào tạo luật ở Mỹ là đào tạo sau đại học, ví dụ
một người muốn hành nghề luật sư về thuế thì thường có bằng cử nhân vè tài chính – ngân
hàng. Điều này cũng dễ hiểu bởi tại Mỹ việc đào tạo luật và nghề luật là một (học đồng
thời cả lý thuyết và học nghề), trong khi ở Anh lại phân biệt thành đào tạo luật và đào tạo


/>nghề luật (học lý thuyết rồi mới học nghề). Chúng ta có thể thấy rằng tiêu chuẩn đào tạo
ngành luật đã có sự khác biệt rõ rệt, mặc dù đều là là đào tạo luật nhưng tiêu chuẩn để và
trường luật ở Mỹ lại cao hơn so với ở Anh.
Thứ hai, về mục tiêu đào tạo. Tại Anh, đào tạo luật được hiểu là hoạt động hướng tới
hai cấp độ mục tiêu: một là nhằm trang bị kiến thức khoa học pháp lí (academic) cho người
học, khi đó người học sẽ được cấp bằng cử nhân luật sau khi kết thúc khóa học; hai là dạy
nghề mục đích của việc này nhằm để người học sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề luật. Tuy
nhiên hai cấp độ đào tạo này không đi kèm với nhau mà lại được phân ra thành hai giai
đoạn khác biệt. Bởi sau khi hoàn thành khóa học và được cấp bằng cử nhân luật thì người
học chỉ có các kiến thức mang tính khoa học hàn lâm nghiên cứu, chưa thể ra làm việc
được. Nếu muốn làm việc tốt thì người học phải được đào tạo nghề luật. Như vậy ở Anh
thì trong trường đại học chủ yếu dạy kiến thức cơ bản về luật mà không chú trọng đào tạo
kĩ năng làm việc thực thụ như một luật sư

Ngược lại ở Mỹ thì lại có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết và đào tạo nghề
trong chương trình trường luật để sinh viên sau khi tốt nghiệp chỉ cần qua thời gian tập sự
ngắn đã có thể làm việc được. Như vậy có thể thấy, mục tiêu đào tạo luật ở Mỹ có nhiều
điểm tích cực hơn so với ở Anh, trong khi Anh có 2 mục tiêu riêng thì ở Mỹ, bên cạnh việc
truyền đạt những kiến thức lý luận thì ở Mỹ cịn có sự kết hợp cùng với tực tiễn đào tạo
nghề để các học viên nắm rõ được kiến thức cũng như có những kỹ năng nhất định. Ở Mỹ,
hệ thống giáo dục luật không nhằm vào việc truyền đạt những kiến thức thuộc lòng về nội
dung của các đạo luật, các văn bản dưới luật và án lệ mà nhằm vào việc đào tạo ra những
luật sư có khả năng thắng kiện, các giáo sư luật ở Mỹ hướng tới việc dạy cho các sinh viên
mọi kỹ năng cần thiết để thắng kiện hơn là dạy luật. Việc giáo dục pháp luật ở Mỹ là nhằm
tạo ra những người khơng chỉ biết luật, hiểu luật mà cịn biết giải quyết các công việc đa
dạng và phức tạp trong thực tế.
Thứ ba, như đã đề cập ở trên thì giữa Anh và Mỹ có sự khác biệt nhau về cấp đào tạo.


/>Nếu như ở Mỹ đào tạo luật là đào tạo sau đại học, sinh viên khoa luật là những người đã
tốt nghiệp đại học. Thì ở Anh lại có hai cấp là đào tạo cử nhân luật và đào tạo nghề luật.
Đào tạo cử nhân luật là quá trình đào tạo ở bậc đại học do các khoa luật của các trường đại
học đảm nhiệm.
Thứ tư, về nội dung đào tạo, học liệu. Như phần đầu đã trình bày thì học liệu của Anh
và Mỹ có một điểm chung đó là sử dụng án lệ. Tuy nhiên cách thể hiện ra sao và những
loại học liệu khác thì mỗi nước lại có một cách khác nhau. Ở Anh, học liệu ngồi án lệ cịn
có giáo trình các mơn học bắt buộc (hệ thống pháp luật Anh, luật đất đai, luật hình sự, luật
hợp đồng, luật bồi thường trách nhiệm dân sự ngồi hợp đồng, luật hiến pháp, luật hành
chính, luật thương mại, luật cơng lí và ủy thác) và một số mơn học tự chọn. Cịn ở Mỹ thì
khơng có giáo trình cơ bản về luật chuyên ngành mà là sách tình huống chứa đựng những
án lệ được chọn lọc. Bởi Mỹ là nước liên bang ngoài hệ thống pháp luật của liên bang thì
cịn có pháp luật của các bang và quận, nên số lượng luật là quá lớn. Ngược lại ở Anh do là
nhà nước đơn nhất, chỉ có một hệ thống pháp luật duy nhất là luật quốc gia nên khi nhìn
nhận thực tế thì thấy rằng việc đào tạo luật ở Anh sẽ thuận lợi hơn khi có các giáo trình về

các mơn khoa học đại cương và các môn về lý luận pháp luật, đồng thời việc nghiên cứu
cũng như học tập sẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với ở Mỹ.
Tuy nhiên trong những cuốn sách tình huống của Mỹ thì đã chứa đựng và bao hàm cả
các án lệ cũng như các hệ thống pháp luật nhát định. Đảm bảo được đủ những kiến thức
các kỹ năng để hành nghề về sau.
Thứ năm, phương pháp đào tạo. Ở Anh, các môn học được tiến hành giảng dạy dưới
dạng thuyết trình, thảo luận và phụ đạo, sinh viên đưa ra câu hỏi và giải quyết thắc mắc của
mình. Trong suốt thời gian học tại trường đại học, sinh viên được khuyến khích tham gia
các buổi thảo luận và diễn án để rèn luyện kỹ năng lập luận rõ ràng và thuyết phục cho sinh
viên. Tại các buổi diễn án, thường có một giáo sư luật hoặc một người đang hành nghề
luật ở địa phương đóng vai trị chủ tọa và sinh viên được chia ra làm hai nhóm để cạnh


/>tranh với nhau thông qua việc đưa ra lập luận của nhóm mình đối với vẫn đề pháp lý được
đặt ra trong tình huống giả định. Tuy nhiên việc diễn án tại Anh lại chỉ được khuyến khích
tham gia để nâng cao kỹ năng hành nghề về sau của mình.
Ở Mỹ lại chú trọng phương pháp tình huống. Các nguyên tắc pháp lí chung khơng
được trình bày qua những bài giảng lý thuyết trừu tượng mà được rút ra từ việc nghiên cứu
những tình huống được đưa ra thảo luận trên lớp. Các bài tập thực hành chủ yếu về giải
quyết án và cách phân tích chi tiết các phán quyết dưới hình thức trao đổi, hội thoại giữa
giáo viên và sinh viên (phương pháp Socratic). Ngồi ra cịn phương pháp đặt sinh viên
vào công việc thực sự và họ học luật bằng cách xử lý các tình huống thực tế đó (phương
pháp thực hành luật), phương pháp này được tiến hành thơng qua việc thành lập các văn
phịng thực hành nghề luật ngay trong trường đại học bằng cách cho sinh viên tham gia các
vụ án có thực dưới sự giám sát chặt chẽ của khoa. Tuy nhiên, phương pháp phổ biến nhất
vẫn là phương pháp Socratic truyền thống.
Mỗi một nước sẽ có một cách đào tạo nhất định, nhưng ta có thể thấy việc đào tạo ở
Mỹ nhiều ưu điểm hơn so với việc đào tạo ở Anh. Nếu việc đào tạo luật ở các nước châu
Âu lục địa chỉ nhằm dạy cho sinh viên những vấn đề cơ bản về luật và tìm luật ở đâu để
giải quyết các vụ việc cụ thể thì tại Mỹ các giáo sư luật lại hướng tới việc dạy cho các sinh

viên mọi kĩ năng cần thiết để thắng kiện hơn là dạy luật. Bởi trong việc tham gia hùng biện
trong các tình huống thì sinh viên sẽ được hỏi và giảng viên sẽ chất vấn sinh viên để rèn
luyện cho sinh viên khả năng phản ứng của họ đối với tình huống đưa ra. Như vậy, việc
đào tạo của Mỹ mang lại nhiều hiệu quả hơn khi mà vừa đào tạo ra những người không chỉ
biết luật, hiểu luật mà cịn biết giải quyết các cơng việc đa dạng và phức tạp trong thực tế.
Thứ sáu, kết thúc đào tạo. Ở Anh, sau khi có bằng cử nhân luật, tốt nghiệp sinh có thể
quyết định lựa chọn để trở thành luật sư tư vấn hay luật sư tranh tụng. Tùy thuộc vào quyết
định của mình, tốt nghiệp sinh sẽ phải theo học những khóa học khác nhau để hành nghề
luật sư. Cịn ở Mỹ, kết thúc khóa học, sinh viên cần phải lấy bằng Jurist Doctor và sau đó


/>sinh viên phải trải qua kì thi do đồn luật sư của một bang nào đó tổ chức và đánh giá.
2. Đào tạo nghề luật
Ở Anh, đào tạo nghề luật ở Anh gồm có đào tạo luật sư tư vấn, đào tạo luật sư tranh
tụng và đào tạo thẩm phán. Nghề luật sư được phân thành hai nhóm rõ rệt đó là luật sư tư
vấn và luật sư tranh tụng. Sự phân biệt diễn ra ngay ở cách thức dạy nghề cho mỗi loại luật
sư tương lai và cách thức quản lý đối với mỗi loại luật sư trong việc xác định chức năng
mà mỗi loại luật sư đảm nhiệm trong xã hội. Từ đó hình thành hai nghề luật: Luật sư tư
vấn và luật sư tranh tụng.
Việc đào tạo luật sư tư vấn: sau khi có bằng cử nhân luật thì các cử nhân có thể tham
dự khóa học thực hành luật kép dài một năm ở một cơ sở đào tạo được cấp phép. Đay là
khóa học chủ yếu dạy về kĩ năng thực hành nghề luật. Và sau khi kết thúc khóa học đó, học
viên phải thực tập hai năm tại một công ti của một luật sư tư vấn. Khi thời gian học việc
kết thúc thì họ sẽ được Tòa án tối cao ở England và xứ Wales thừa nhận tư cách luật sư.
Việc đào tạo luật sư tranh tụng trải qua hai giai đoạn: một là, các cử nhân luật phải tham dự
khóa đào tạo nghề một năm; hai là tốt nghiệp sinh sau đó phải thực tập một năm dưới sự
giám sát của một luật sư tranh tụng. Việc đào tạo thẩm phán được tiến hành thơng quan các
khóa học chính khóa để tạo ra các thẩm phán mới và thơng qua các khóa học bổ túc để
phát triển kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức cho các thẩm phán đang hành nghề.
Ở Mỹ, khơng có sự phân biệt trên nên khi đào tạo luật cũng khơng có sự phân chia, tất

cả đều được đào tạo chung tại trường đại học. Như vậy, ở Mỹ một luật sư thực hành được
gọi là “luật sư” (attorney) khi bào chữa, cịn bình thường thì người đó là luật sư thơng
thường nghĩa là khơng có sự phân biệt giữa luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng (bào chữa).
Qua những phân tích trên ta thấy rằng dù ở Anh hay Mỹ thì mỗi quốc gia đều có
những ưu điểm và hạn chế nhất định trong quá trình đào tạo luật, nhưng có một điểm
chung khơng thể phủ nhận đó là nó mang những nét đặc trưng của hệ thống pháp luật


/>Common Law. Một số nguyên nhân của sựa khác biệt có thể nói tới đó là do Anh là một
quốc gia có dân cư gần như thuần nhất cịn Mỹ lại là nước có dân số chủ yếu là dân nhập
cư, đa tôn giáo, đa sắc tộc đi cùng với lối sống và đặc trưng về nền kinh tế xã hội cũng
khác nhau, nên trong cách suy nghĩ và tư duy pháp lý có những điểm khác biệt là điều tất
yếu. Do vậy mà các trường đào tạo luật ở Mỹ chủ yếu dạy sinh viên cách tìm hiểu pháp
luật để từ đó sinh viên áp dụng một cách chủ động các kiến thức trong nhà trường với kiến
thức tực tiễn. Ở Anh chỉ yêu cầu hiểu biết về luật ở bậc đại học còn Mỹ lại yêu cầu cao hơn
là phải đủ kỹ năng để giải quyết vụ việc thực tế, phù hợp với xã hội đa dạng, phức tạp.
III.

Nghề luật ở Anh và Mỹ

Từ những giai đoạn ban đầu của q trình thuộc địa hóa thì pháp luật Anh đã tỏ ra
không phù hợp với các điều kiện ở châu Mỹ và luật sư cũng chưa xuất hiện tại các thuộc
địa này. Phải cho tới thế kỉ XVIII khi quan hệ giao lưu thương mại giữa các thuộc địa này
với nước ngoài và với Anh phát triển, một số tầng lớp luật sư gồm những người đã từng tốt
nghiệp các cơ sở đào tạo luật sư ở London từ trước khi sang di cư sang châu Mỹ và bắt đầu
hành nghề tại đây. Mặt khác, trong thời kì đầu, ở Mỹ khơng có các trường luật để đào tạo
những người quan tâm đến chuyên ngành luật. Một số người trẻ tuổi đã đến Anh để theo
học luật và tham gia vào các hội quán của hội luật gia Anh. Chính điều này đã làm cho hệ
thống pháp luật Mỹ có điểm giống với hệ thống pháp luật Anh, kéo theo sự tương đồng
trong nghề luật nói riêng.

Nhắc đến nghề Luật ở Anh và Mĩ, chúng ta sẽ liên tưởng đến những luật sư, chính trị
gia, luật gia nổi tiếng khắp thế giới. Đặc biệt ở Mỹ, các tổng thổng đều đã từng là học viên
Khoa Luật của các trường đại học danh tiếng như Bill Clinton, Barack Obama,... Ở Anh và
Mỹ, nghề luật sư là một trong những nghề danh giá bậc nhất vì nó địi hỏi người luật sư
phải có nhiều trí tuệ và khả năng. Ở Anh hiện nay cứ 400 người dân thì có một luật sư, hay
ở Mỹ tính tại thời điểm năm 2012 thì số lao động được sử dụng là 570 950 người. Điều này


/>khá dễ hiểu bởi nhu cầu của người dân hai nước này khá cao, khi có bất kỳ sự kiện liên
quan đến pháp luật hay trong các quan hệ giao dịch trong đời sống người ta cũng cần tới
luật sư để đảm bảo. Bên cạnh đó, vai trị của thẩm phán ở hai nước đều có một địa vị pháp
lý cao, họ là người đại diện cho công bằng, công lý, là chủ thể thực hiện quyền xét xử của
Nhà nước theo quy định pháp luật.
Với đặc trưng của hệ thống pháp luật Common Law là thủ tục tranh tụng đối kháng,
vì vậy các luật sư ở Mỹ và Anh ln đóng vai trị chủ động, kết quả bản án phụ thuộc vào
tài tranh tụng của luật sư. Tòa án chỉ đóng vai trị trung lập và lựa chọn các lập luận, chứng
cứ mà các bên đưa ra rồi xem xét xem bên nào thuyết phục hơn để phán quyết. Việc này
khiến cho các luật sư ở Mỹ cũng như các luật sư tranh tụng ở Anh ln có sự cạnh tranh
rất lớn.
Ở Anh và một số bang của Mỹ thì các luật sư chịu sự quản lý của hội luật sư hoặc
đoàn luật sư. Ở Anh luật sư tư vấn chịu sự quản lý của Hội luật sư, luật sư tranh tụng chịu
sự quản lý của Đoàn Luật sư của England và xứ Wales. Còn ở Mỹ, khoảng một nửa số
bang Mỹ đòi hỏi người hành nghề luật phải là thành viên của đồn luật sư bang mình. Tức
là hội luật sư hay đoàn luật sư đại diện cho lợi ích của các luật sư và ban bố quy chế cưỡng
chế thi hành các quy chế. Luật sư ở Anh và Mỹ có thể hành nghề độc lập hoặc thành lập
các công ty Luật.
Ở Anh và Mỹ, một người muốn được thừa nhận là luật sư thì tối thiểu phải có bằng cử
nhân luật. Đây được coi là yêu cầu cơ bản của người làm nghề luật nói chung và nghề luật
sư nói riêng, nhằm đảm bảo các kiến thức pháp lý để hành nghề. Bên cạnh những nét
tương đồng về nghề luật của hai quốc gia thì vẫn luôn tồn tại những sự khác biệt nhất định,

đặc trưng riêng.
1.

Nghề luật sư

Thứ nhất về điều kiện hành nghề. Ở Anh, học viên có thể tham dự khóa học thực hành


/>luật mà khơng cần có bằng cử nhân luật của Anh quốc, nhưng họ phải có một bằng đại học
khác và tham dự khóa học kéo dài một năm để lấy bằng Diplom về luật. Sau khi có bằng
cử nhân luật, các cử nhân phải tham gia một khóa học thực hành luật kéo dài một năm và
trải qua hai năm thực tập tại một công ty của một luật sư tư vấn (đối với luật sư tư vấn)
hoặc đối với luật sư tranh tụng thì phải tham dự khóa đào tạo nghề một năm và thực tập
một năm dưới sự giám sát của một luật tranh tụng, thì mới được thừa nhận đủ tư cách của
một luật sư (tư vấn hoặc tranh tụng). Tóm lại, sau khi có bằng cử nhân luật, các cử nhân
phải mất từ hai đến ba năm đào tạo nữa mới được chính thức trở thành luật sư và được
hành nghề luật sư.
Ngược lại, tại Mỹ để được hành nghề luật sư, nhất thiết phải có giấy phép hành nghề.
Mặc dù điều kiện hành nghề ở các tiểu bang là không giống nhau nhưng đều có điều kiện
tiên quyết để được tham gia khóa học này là bắt buộc phải có bằng cử nhân Luật (J.D).
Khác với Anh việc trở thành luật sư ở Mỹ buộc phải vượt qua được kì thi do đồn luật sư
của một bang nào đó tổ chức và đánh giá theo ủy quyền của tịa án tối cao bang đó. Nghĩa
là chỉ cần thi qua một kỳ thi quốc gia mà không phải qua đào tạo nghề và tập sự hành nghề
luật sư. Như vậy, ở Mỹ sinh viên tốt nghiệp trường luật chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn là
có thể làm việc được. Cách đào tạo này rất khác so với cách đào tạo ở các nước châu Âu thường đưa đào tạo luật vào chương trình đại học cơ bản và sinh viên tốt nghiệp không đủ
khả năng hành nghề ngay và những người muốn hành nghề phải trải qua một khố đào tạo
nghề.
Như vậy có thể thấy ở Anh điều kiện hành nghề luật sư thoải mái và khơng bị gị bó
như ở Mỹ, kể cả khi khơng có bằng cử nhân luật, bất cứ ai học chuyên ngành nào cũng có
thể trở thành luật sư nếu hiểu biết, học hỏi về luật pháp và chỉ cần học khóa học một năm

để lấy bằng Diplom là có thể theo học nghề luật. Hơn nữa khi mà luật sư ở Anh là những
người có kinh nghiệm ở khơng chỉ ngành luật mà cịn 1 số ngành khác, Và những người ở
chuyên ngành khác đó nếu chuyên tâm học hành và nghiên cứu luật trong một năm thì sẽ


/>được hành nghề. Chính hiểu biết ở ngành khác có thể sẽ là thế mạnh đối với luật sư Anh.
Tuy nhiên nó lại để lại một hạn chế là, việc người khơng có bằng cử nhân luật mà làm luật
sư thì sẽ khơng có sự nghiên cứu chun sâu về pháp luật, việc giải quyết trên thực tế sẽ
khó khăn hơn. Do đó luật sư ở Mỹ với vốn kiến thức sâu về pháp luật sẽ có thể giỏi hơn
trong quá trình tư vấn cũng như tranh tụng.
Thứ hai về phạm vi hành nghề. Anh là quốc gia có hình thức cấu trúc nhà nước đơn
nhất đặc trưng với một trung tâm quyền lực, một hệ thống các cơ quan nhà nước và một hệ
thống pháp luật áp dụng thông nhất từ trung ương đến địa phương. Do đó ở Anh có thể
hành nghề luật sư ở trên tồn quốc với kiến thức pháp luật như đã được đào tạo như nhau ở
các trường dạy luật.
Ngược lại ở Mỹ với cấu trúc nhà nước liên bang có một hệ thống pháp luật chung cho
toàn liên bang và một hệ thống pháp luật cho từng bang. Và điều kiện của mỗi bang là
khác nhau, tồ án bang là cơ quan có thẩm quyền công nhận luật sư và cho phép hành
nghề, một người muốn trở thành luật sư thì phải trải qua kỳ thi công nhận dưới dạng thi
viết, hàng năm luật sư phải đi học tiếp thu kiến thức mới. Một người được thừa nhận là luật
sư ở các Tiểu bang thì chỉ được hành nghề ở Tiểu bang đó, và trước toà án Liên bang.
Thứ ba, giữa hai quốc gia có cách phân chia ngành luật sư khác nhau. Ở Anh, sau
cuộc chinh phục xứ sở Anglo-saxon của người Norman thì nghề luật phân chia thành hai
nhánh là luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng. Và trên thực tế phần lớn luật sư ở Anh là luật
sư tư vấn. Luật sư tư vấn là địa chỉ đầu tiên cho bất cứ một tổ chức hay cá nhân nào trong
xã hội cần đến sự trợ giúp hay tư vấn pháp lí việc này bắt nguồn từ nguyên tắc của luật sư
tranh tụng đó là luật sư tranh tụng chỉ có thể tiếp cận với khách hàng sau khi được một luật
sư tư vấn nào đó giới thiệu.
Luật sư tư vấn chịu sự quản lí của Hội luật sư (Law Society) của England và xứ
Wales. Chức năng của Hội luật sư trong mối quan hệ với các luật sư tư vấn cũng tương tự



/>như chức năng của Đoàn luật sư trong mối quan hệ với luật sư tranh tụng. Việc hoạt động
của luật sư tranh tụng thì có sự phân biệt giữa các luật sư tư vấn hành nghề ở địa phương
với những luật sư hành nghề trong các công ti lớn ở thành phố. Các công ti luật ở địa
phương thường hoạt động dưới hình thức luật sư hành nghề riêng rẽ hoặc thành lập ra
cơng ti luật có từ 12 đến 15 luật sư và cung cấp các dịch vụ trên các lĩnh vực luật gia đình,
chứng thực chúc thư, dân sự,...điều này được lý giải bởi các đối tượng cần tư vấn thường
là dân địa phương: cá nhân công dân và các doanh nghiệp địa phương. Cịn các cơng ti lớn
ở thành phố thường chuyên sâu vào luật công ti, luật thuơng mại, luật thuế,…và được tiến
hành theo hình thức những cơng ti luật có tới hàng trăm luật sư thành viên. Trong các
phiên tịa thì quyền tham dự của các luật sư tư vấn rất hạn hẹp thường chỉ là các phiên tòa
ở các tòa án cấp dưới (trừ những luật sư tư vấn giàu kinh nghiệm tranh tụng có thể dự thi
sát hạch phụ để giành quyền tham dự những phiên tòa ở các tòa án cấp cao hơn).
Luật sư tranh tụng chịu sự quản lí của Đồn luật sư (Bar Council) của England và xứ
Wales. Luật sư tranh tụng thường chuyên sâu trong một số lĩnh vực pháp luật nhất định và
thực chất, các văn phòng luật sư tranh tụng thường được biết đến vì chun mơn của văn
phòng trong một lĩnh vực pháp luật đặc thù nào đó mà văn phịng đó hành nghề. Luật sư
tranh tụng không được phép liên hệ trực tiếp với khách hàng. Họ chỉ có thể tiếp cận với
khách hàng sau khi được một luật sư tư vấn nào đó giới thiệu. Luật sư tranh tụng theo
truyền thống, là các chuyên gia biện hộ có quyền tham dự tất cả các phiên xử tại tất cả các
tòa án và cơ quan tài phán. Luật sư tranh tụng cũng có quyền đưa ra ý kiến của chuyên gia
pháp lí khi được các luật sư tư vấn tham khảo.
Khác với Anh, ở Mỹ khơng có sự phân chia thành luật sư tranh tụng và luật sư thẩm
vấn mà một luật sư thì phải thực hiện cả tư vấn và tranh tụng. Thông thường họ được gọi là
lawyer, cịn khi đi bào chữa thì họ được gọi là attorney. Mặc dù đều phát triển theo hướng
chun mơn hóa, nhưng sự chun mơn hóa ở Mỹ và Anh cũng có sự khác biệt. Ở Mỹ theo


/>xu hướng chun mơn hóa, các cơng ti luật đã chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm tập trung

một lĩnh vực cụ thể. Ví dụ: nhóm hành nghề tranh tụng, nhóm chuyên sâu trong lĩnh vực
thuế, luật công ti, luật chống độc quyền,…Chính vì luật sư ở Mỹ phải hành nghề theo lĩnh
vực mà mình nghiên cứu chuyên sâu vì vậy các vấn đề sẽ giải quyết triệt để hơn, cụ thể
hơn so với luật sư ở Anh (luật sư phải hiểu biết hết các lĩnh vực chính vì vậy địi hỏi các
luật sư phải có lượng kiến thức về luật khá lớn). Đồng thời, Mỹ là một quốc gia ưu kiện
tụng nhất thế giới nên số lượng luật sư rất lớn và họ thường hoạt động trong khn khổ
Đồn Luật sư (cấp tiểu bang và cấp liên bang).
Qua đó cho thấy việc phân chia luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng ở Anh thì đó là
một điểm hạn chế, mặc dù sự phân chia này khiến chuyên môn của luật sư có thể cao hơn
trong lĩnh vực của mình nhưng việc tư vấn và tranh tụng đều là những kĩ năng rất cần thiết
cho mọi luật sư. Việc phân chia này có thể gây ra mâu thuẫn giữa thực tể và lí thuyết pháp
luật và đây cũng là một hạn chế hơn so với luật sư ở Mỹ. Vì cả hai kỹ năng này đều thực
sự quan trọng và cần thiết đối với mọi luật sư chính vì vậy ở Mỹ đã không phân chia nhằm
đảm bảo cho luật sư có thể thực hiện tốt ở cả lý thuyết và thực tiễn.
2.

Nghề thẩm phán

Để làm thẩm phán ở Anh và ở Mĩ thì trước hết thẩm phán đều phải đảm bảo những
yêu cầu sau. Có phẩm chất đạo đức tốt, cởi mở, công bằng, không thiên vị, lịch thiệp, điềm
tĩnh, có uy tín bởi thẩm phán là những người đại diện cho công bằng, công lý, là chủ thể
thực hiện quyền xét xử của Nhà nước theo quy định pháp luật. Họ phải có bằng tốt nghiệp
đại học ngành luật, đây dường như là một quy định rất quan trọng bởi phải là những người
thực sự có kinh nghiệm, chun mơn và am hiểu về luật thì mới có thể vận dụng luật pháp
để giải quyết các vụ việc trên thực tế. Thẩm phán còn phải là người có năng lực, trình độ
chun mơn và phải có sức khỏe tốt để thực hiện nhiệm vụ với nhiệm kỳ suốt đời. Bên
cạnh những điểm chung về yêu cầu cơ bản đối với thẩm phán thì giữa Anh và Mỹ lại có


/>những điểm khác nhau về chức danh, cách bổ nhiệm và thẩm quyền bổ nhiệm thảm phán.

Thứ nhất về chức danh thẩm phán, khác với nhiều quốc gia châu Âu lục địa, người
Anh ln có quan niệm rằng nghề luật chỉ bao gồm nghề luật sư mặc dù trên thực tế cịn có
các hoạt động nghề nghiệp khác như thẩm phán, công tố viên, công chứng viên. Phải cho
tới cuối thập kỷ thứ IX của thế kỷ XX thì nghề thẩm phán mới được xã hội Anh quan tâm.
Ở England và xứ Wales có nhiều loại thẩm phán khác nhau từ các pháp quan không
chuyên cho tới các thẩm phán chun nghiệp. Ngồi các pháp quan khơng chun là
trường hợp ngoại lệ, còn lại các thẩm phán ở Anh thường được bổ nhiệm từ các luật sư
tranh tụng và ở mức độ thấp hơn, từ luật sư tư vấn. Ở Mỹ, do sự tồn tại của hệ thống Tòa
án kép gồm hệ thống tòa án Liên bang và các hệ thống tòa án bang, các thẩm phán ở Mỹ
cũng gồm hai loại: thẩm phán Liên bang và thẩm phán bang.
Thứ hai về việc bổ nhiệm thẩm phán. Ở Anh, thẩm phán được ủy ban bổ nhiệm lựa
chọn và bổ nhiệm. Ủy ban này tổ chức một kì thi cơng khai, minh bạch và công bằng để
lựa chọn được ứng cử viên xuất sắc nhất. Những ứng cử viên đảm bảo được các yếu tố về
đóng góp uy tín, sự tín nhiệm, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp sẽ được ủy ban bổ
nhiệm đề xuất lên Đại pháp quan xem xét bổ nhiệm. Trước đây, Đại pháp quan là người
duy nhất có quyền và chịu trách nhiệm bổ nhiệm tất cả thẩm phán, pháp quan và các thành
viên của các cơ quan tài phán. Tuy nhiên hiện nay trách nhiệm bổ nhiệm thẩm phán được
đặt vào tay tập thể chứ khơng cịn nằm trong tay cá nhân Đại pháp quan như trước. Thẩm
phán của Anh có nhiệm kỳ suốt đời, điều này tương tự giống với chế độ thẩm phán của
Tòa án Liên bang ở Mỹ.
Đối với Mỹ lại áp dụng mơ hình tuyển chọn thẩm phán theo dạng tranh cử, vận động
ủng hộ. Mơ hình này thường được sử dụng dựa trên chuyên môn kinh nghiệm và năng lực
vận động thuyết phục của ứng viên. Cụ thể về năng lực chuyên môn, thẩm phán thường là
những luật sư giỏi có năng lực vượt trội về chun mơn điều này được thể hiện qua uy tín
và danh tiếng trong sự nghiệp của họ. Bên cạnh đó thẩm phán phải có thành tích trong lĩnh


/>vực chính trị. Đối với thẩm phán liên bang thì trong một số trường hợp thẩm phán được
bầu là những giáo sư luật làm việc tạo các trường đại học danh tiếng của Mỹ, điều này tạo
nên sự khác biệt với hệ thống pháp luật Anh bởi thẩm phán ở Anh phải là luật sư mà mức

độ thấp nhất đã là luật sư tư vấn.
Ở Mỹ do thẩm phán chia thành thẩm phán liên bang và thẩm phán bang. Do đó về
thẩm quyền bổ nhiệm và nhiệm kỳ cũng có sự phân chia riêng rẽ. Thẩm phán Liên bang do
Tổng thống bổ nhiệm và thượng nghị viện phê chuẩn. Các thẩm phán có nhiệm kì cả đời,
vì vậy họ khơng phải lo tranh cử cho nhiệm kì tới hoặc lo lắng về việc tái bổ nhiệm; họ chỉ
có thể bị miễn nhiệm bằng thủ tục buộc tội phức tạp do Quốc hội Mỹ tiến hành. Còn đối
với thẩm phán bang, đơi khi, được tuyển cử với nhiệm kì cố định cịn lại đa số các bang có
thẩm phán được bổ nhiệm. Ở một số bang, thẩm phán trước tiên được thống đốc bang bổ
nhiệm và sau đó định kì sẽ được đưa ra để các cử chi bỏ phiếu thông qua việc tái bổ nhiệm.
Qua những phân tích trên ta có thể nhận thấy rằng pháp luật giữa Anh và Mỹ ln có
những điểm tương đồng, tuy nhiên bên cạnh đó mỗi quốc gia lại có những nét đực trưng
riêng nhất định. Với lối sống cũng như các tư duy và đặc biệt là sự ảnh hưởng của kinh tế
xã hội mà ở Mỹ đã có một số sự khác biệt đối với Anh về những quy tắc về nghề luật sư để
phù hợp với sự phát triển của từng xã hội.
IV.
1.

Những kinh nghiệm có thể tiếp thu và ứng dụng ở Việt Nam
Thực trạng đào tạo luật ở nước ta hiện nay

Hiện nay, nước ta đang có nhu cầu rất lớn về cán bộ pháp luật. Chỉ tính riêng các
chức danh tư pháp, từ nay đến năm 2020, cần phát triển hệ thống cơ sở đào tạo luật để có
đủ sức đào tạo ước tính 13.000 luật sư, 2.300 thẩm phán, 2.000 công chứng viên, 3.000
chấp hành viên, 300 thẩm tra viên thi hành án dân sự và thừa phát lại... (hiện cả nước có
khoảng 6.000 luật sư, 5.000 thẩm phán, 4.000 điều tra viên, 400 công chứng viên). Đó là
chưa kể nhu cầu cán bộ pháp luật ở các Bộ, ngành, địa phương. So với nhu cầu lớn về cán


/>bộ pháp luật thì năng lực đào tạo pháp luật hiện có chưa thấm vào đâu. Quy mơ của mạng
lưới đào tạo Luật chỉ đạt từ 3.500 - 4.000 cử nhân hệ chính quy mỗi năm. Có thể thấy, việc

đào tạo Luật ở nước ta hiện nay còn rất mỏng và thiếu chất lượng, “cung” không đủ “cầu”,
khoảng cách khá xa so với các quốc gia trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung.
Vậy nên, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới là việc cần thiết
phải làm. Nhưng vấn đề đặt ra là chúng ta phải học hỏi những gì và học hỏi như thế nào
cho phù hợp với thực tiễn trong nước.
2.

Kinh nghiệm tiếp thu và ứng dụng

Việc học hỏi kinh nghiệm đào tạo luật của hệ thống pháp luật Common law từ hai
nước Anh và Mỹ cần phải được chọn lọc để phù hợp với thực tiễn pháp luật và xã hội của
nước ta. Qua quá trình tìm hiểu trên, chúng ta cần học hỏi và rút ra được những kinh
nghiệm như sau:
Thứ nhất, trong những năm gần đây, đào tạo luật ở Việt Nam hầu như đã áp dụng
hình thức tín chỉ, và đây là một hình thức tốt để áp dụng phương pháp Socratic (phương
pháp tình huống), đưa các vụ việc thực tiễn vào giảng dạy trong các môn luật nhiều hơn
nhằm hướng sinh viên vào thực tế rèn luyện kĩ năng tư duy, khả năng hùng biện. Đặc biệt
trong quá trình giảng dạy đưa ra cho sinh viên nhiều cách tiếp cận vấn đề, tránh sự nhàm
chán mà lại có thể tạo cho sinh viên khả năng tư duy vấn đề phản xạ tình huống. Nên hạn
chế việc dạy một cách máy móc, thụ động cho sinh viên. Ngồi ra, việc tổ chức các phiên
tịa giả định cho sinh viên đóng các vai trong một phiên tòa và bắt đầu tranh tụng về vụ án.
Điều này vừa có thể giúp sinh viên củng cố lại kiến thức, rút ra bài học và tích lũy cho
cơng việc sau này vừa giúp cho họ có thể khơng bở ngỡ sau khi ra trường. Có thể lấy một
ví dụ điển hình như ở Học viện Tư pháp đã vận dụng những tiến bộ trong cách đòa tạo luật
của Mỹ. Các học viên phải qua đào tạo luật và có bằng cử nhân luật mới được thi vào các
khoá đào tạo luật sư nên Học viện đã chú trọng nhiều đến việc rèn luyện các kỹ năng hành




×