Tiểu luận
Vai trò của Hồ Chí Minh đối
với mạng tháng 8 năm 1945
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 1 -
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã
xuất hiện nhiều anh hùng kiệt xuất. Những anh hùng này đều thực hiện một
nhiệm vụ chung mà cuộc đấu tranh ở bất cứ thời kỳ nào đều phải đảm nhận: bảo
vệ tổ quốc, giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Song mỗi anh hùng ở mỗi
thời đại lại lãnh trách nhiệm khác nhau trong nhưng điều kiện và theo một yêu
cầu không giống nhau và truyền lại cho thế hệ sau tiếp biết.
Đây là điều kiện chúng ta tìm thấy ở Hồ Chí Minh một nét truyền thống
của anh hùng dân tộc trong quá khứ quyện chặt với một yếu tố của thời đại của
bản thân.
Các anh hùng dân tộc thường xuất hiện ở những thời điểm gay go phức tạp
nhất đối với vận mạnh dân tộc lúc mà quần chúng nhân dân cần có người tập
hợp, lãnh đạo các cuộc đấu tranh. Tư tưởng hành động sáng suốt của cá nhân
được đông đảo quần chúng ủng hộ đã đưa cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi.
Hồ Chí Minh đước sản sinh trong truyền thống dân tộc kết hợp với nhưng
điều kiện cụ thể của đất nước và quê hương, một yêu cầu của lịch sử Xã Hội
Việt Nam thế kỹ XX và thời đại.
Hồ Chí Minh hiện thân của tinh hoa dân tộc, có vai trò rất lớn trong sự
thắng lợi của CMVN. Đặc biệt là cách mạng tháng 8. Vậy Hồ Chí Minh đã có
vai trò như thế nào để đưa đến sự thắng lợi trong Cách Mạng tháng 8?.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài “Vai trò của Hồ Chí Minh đối với
thắng lợi của cánh mạ ng tháng 8 năm 1945 làm đề tài của bài tập lớn học phần
lịch sử Việt Nam cận đại”.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
- Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài đã có nhiều công trình
nghiên cứu như cuốn “Vai trỏ của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam
của TS Huỳnh Công Kỳ’’, ĐHSP Huế, 2010 và “Lịch sử Việt Nam cận đại” của
TS Huỳnh Công Kỳ (chủ biên), ĐHSP Huế tháng 2 /2012. Các công trình này
đã trình bày một số vai trò của Hồ Chí Minh trong cách mạng nước ta đây là
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 2 -
những tài liệu quan trọng để tôi kế thừa chỉnh lý, chọn lọc để làm bài tập lớn về
“Vai trò của Hồ Chí Minh đối với mạng tháng 8 năm 1945’’.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là từ các hoạt động của Hồ Chí Minh để
chỉ ra vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng tháng 8.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài những hoạt động của người trước 1945.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về vai trò của Hồ Chí Minh trong cách mạng tháng 8.
- Sưu tập và tìm kiếm các tranh ảnh gắn với những hoạt động của người
trong cách mạng tháng 8 năm 1945.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Để hoàn thành bài tập lớn này tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch
sử, phương pháp logic …
- Tổng kết, so sánh, phân tích đối chiếu để làm rõ vai trò của Hồ Chí Minh
đối với cách mạng tháng 8 năm 1945.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 3 -
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
CÁCH MẠNG CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1. Cuộc đời
Cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc vì độc lập tự do và tiến bộ Xã Hội. Suốt đời người
phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng này.
Hồ Chí Minh lúc nhỏ tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi thành Nguyễn Tất
Thành, Sinh ngày 19-05-1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gủi với
nhân dân. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh của người là nhà nho cấp
tiến, có lòng yêu nước thương dân sâu sắc.
Quê ở Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An, đây là vùng đất rất giàu truyền thống
văn hóa, đấu tranh chống ngoại xâm.
Từ thuở thiếu thời Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến cuộc sống
nghèo khổ, bị áp bức, bốc lột đến cùng của dân tộc mình. Khi vào Huế, người
tận mắt nhìn thấy tội ác thục dân Pháp và thái độ ươm heng bon phong kiến
Nam Triều…Đã thôi thúc người đi tìm đương cứu nước.
Hồ Chí Minh có rất nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và
của cá nhân. Người là “ Anh hung dân tộc Việt Nam- Chiến sĩ cách mạng quốc
tế- danh nhân văn hóa thế giới”.
Từ 1911-1930” Tìm và xác định con đường cứu nước cho dân tộc.
Từ 1930-1945: Thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và lãnh đạo nhân dân
Việt Nam chiến đấu đưa đến sự thắng lợi của Cách Mạng tháng 8.
Từ 1945-1965: Trực tiếp lãnh đạo nhân dân chiến đấu chống đế quốc Mỹ,
đã tiến hành nhiều hoạt động đối ngoại để nâng cao vị thế quốc tế của Cách
Mạng nước ta và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Ngày 2-9-1969 Hồ Chí Minh qua đời đó là sự tổn thất rất lớn của dân tộc
và nhân loại.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 4 -
1.2. Sự nghiệp cách mạng
Phát huy truyền thống yêu nước bất khuất của dân tộc, truyền thống tốt
đẹp của gia đình, phương hướng, với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí
Minh đã sớm nhận ra những mắt hạn chế của những bậc tiền bối đi trước.
Nguyễn Ái Quốc đã tự định ra cho mình một hướng đi mới.
Năm 1911 Nguyễn Tất Thành rời tổ quốc sang phương tây tìm đường cứu
nước.
Năm 1919 thay mặt những người yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi
bản yêu sách của nhân dân An Nam tới hội nghị Vécxây, đòi chính phủ Pháp
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân Việt Nam.
Tháng 7 năm 1920 người đọc sơ khảo lần thứ 1 nhưng luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.
Với việc biểu quyết tán thành Đệ Tam Quốc Tế (Quốc Tế III, tham gia
thành lập Đảng Cộng Sản Pháp (tháng 12-1920) trở thành người cộng sản Việt
Nam đầu tiên.
Trong giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1930 Nguyễn Ái Quốc có những
hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa
bàn đất nước pháp ( 1921-1923) Liên Xô (1923-1924) Trung Quốc (1924-1927)
Thái Lan (1928-1929) Trong thời gian này tư tưởng Hồ Chí Minh về Cách
Mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
Tại Hương Cảng Trung Quốc Tháng 3-1930 người thành lập Đảng Cộng
Sản Việt Nam
Tháng 10-1938 Nguyễn Ái Quốc tù Mátscơva về Trung Quốc.
Ngày 28-1-1941 sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Nguyễn Ái Quốc trở
về Tổ Quốc. Tại hội nghị trung ương lần Thứ 8 (từ 10 đến 19-5-1941 ) họp tại
Pác Bó (Cao Bằng) Dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Ban chấp hành Tương
Đảng Cộng Sản Đông Dương đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của
Cách Mạng Việt Nam.
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI THẮNG
LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 5 -
2.1. Tình hình thế giới và trong nước
Đến đầu tháng 3-1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào thời kỳ kết
thúc, hồng quân Liên Xô Đã giải phóng hoàn toàn lảnh thổ Liên Xô Viết và
đang đứng ở ngưỡng cửa sào huyệt của pháp xit Đức.
Nước Pháp được giải phóng, chính phủ kháng chiến Đờ Gôn lên cầm
quyền. Ở mặt trận Thái Bình Dương, Nhật thất bại liên tiếp và đang bị hải quân
Anh Mỹ phong tỏa. Nhật lúc bấy giờ chỉ còn con đường liên lạc duy nhất ở
Đông Á- Nhật qua Đông Dương, vì Nhật cố bám lấy Đông Dương.
Ở Đông Dương, mâu thuẫn Nhật-Pháp ngày càng trở nên gay gắt. Bọn
Pháp Đờ Gôn đang hoạt động ráo riết, âm mưu chờ đợi quân đồng minh vào
đánh Nhật thì sẽ nhân cơ hội Phục quyền thống trị của chúng ở Đông Dương.
Bọn Nhật biết rõ âm mưu của Pháp Đờ Gôn Nhưng chứng chưa làm ngay cuộc
đảo chính để truất hẳn quyền bọn Pháp ở Đông Dương vì chúng biết rằng nếu
cuộc xung đột quyết liệt giữa Pháp và Nhật nổ ra thì nhân dân Đông Dương
nhân cơ hội đó nổi dậy tiêu diệt chúng. Chính vì vậy, mà Nhật-Pháp bề ngoài
tạm hòa hoãn được ngày nào hay ngày đó. Nhưng chiến tranh không không cho
phép chúng hòa hoản thế mãi đứng như nhân định ban thường vụ Trung Ương
Đảng: “ Sự hòa hoãn này có khác chi một cáu nhọt bộc, chứa chất bên trong
biết bao nhiêu vi trùng và máu mủ,chờ dịp chin mõm là vỡ tung ra…Cả hai
quân thủ của nhân dân ta là Pháp-Nhật đang đóng một tấm kịch vô cùng giả
dooivoo cùng nguy hiểm cho chúng, cả hai điều đang sửa soạn tiến tới chổ tao
sống mày chết quyết liệt cùng với nhau”. Nhưng tình hình ngày càng nguy
ngập ở Thái Bình Dương, đã buộc bọn Pháp xít Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ
Pháp độc chiếm Đông Dương để trừ mối họa quân Pháp đánh sau lưng khi quân
đồng minh đổ bộ vào Đông Dương.
Vì vậy, đêm 9-3-1945 Nhật nổ sung đánh Pháp cùng một lúc trên toàn
Đông Dương. Quân Pháp chống cự yếu ớt, chỉ trong 3 ngày đã hền nhát đầu
hang Nhật. Trong một thời gian ngắn ngủi, Toàn bộ máy thống trị thực dân
Pháp ở Đông Dương bị spj đổ hoàn toàn.
Sau ngày 9-03-1945, Nhật vẫn duy trì bộ máy hành chính cũ của Pháp, chỉ
thay thế viên chức của Pháp bằng viên chức của Nhật ở csc vị trí quan trọng.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 6 -
Lực lượng quân đội và cảnh sát của Pháp bị thay đổi khá triệt để. Hàng vạn
quân Pháp và cảnh sát bị bắt giam giữ. Quân Nhật và Hiến binh được triển khai
ở những vị trí chiến lược trên toàn Đông Dương. Nhật thành lập quân đội và
cảnh sát bản xứ. Lực lượng bảo an binh được thành lập. Chính phủ thân Nhật do
Trân Trong Kim đứng đầu đẫ thiết lập nhưng không có hữu hiệu mấy.
Sau khi lật đổ Pháp, Nhật chỉ giao cho Bảo Đại-Trần Trọng Kim cai quản
Trung Kì. Trước nguy cơ thất bại ngày càng đến gần, Nhật mới trao trả dần Bắc
Kì (2-05-1945), ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng (20-07-1945) và
Nam Bộ (14-08-1945).
Cuộc đảo chính đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị khá trầm trọng ở
Đông Dương.
2.2. Vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm
1945
2.2.1. Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng hoàn chỉnh chủ yếu hướng
chỉ đạo chiến lược Cách Mạng
* Hội nghị trung ương lần thứ 8 (05-1941).
Hội nghị trung ương Đảng (11-1039) đã đánh dấu sự chỉ đạo về chiến lược,
sách lược cách mạng. Hội nghị Trung ương Đảng (11-1940) đả khẳng định
những quân điểm của hội nghị trước đồng thời bổ sung một số điểm mới.
Thứ nhất: trên cơ sở khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
dân tộc dân chủ, đả kịp thời chuyển hướng sự chỉ đạo chiến lược, nhằm tập
trung giải quyết nhiệm vụ hang đầu là đánh đổ đế quốc tay sai, giành độc lập.
Hội nghị trung ương Đảng tháng 11-1939 xác định kẻ thù cụ thể, nguy
hiểm nhất của cách mạng Đông Dương không phải là đó quốc và bọn tay sai
phản bội dân tộc. Hội nghị đã khẳng định: “ Bước đường sinh tồn của các dân
tộc Đông Dương không còn con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế
quốc pháp, chống tất cả ách ngoại xam, vô luận da trắng hay da vàng, để tranh
lấy giải phóng dân tộc”. Hội nghị trung ương Đảng lần thứ VIII nêu bật:
“Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiên của
Đảng ta; “Trong lúc này, không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đọi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 7 -
quốc gia,dân tộc còn mãi chịu kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại được” : “trong giai đoạn hiện tại,…nếu không
đánh đuổi thực dân Pháp-Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp ngựa
trâu muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao gải quyết được”.
Để tập trung mũi nhọn cách mạng và kẻ thù chủ yếu của dân tộc, Đảng đã
tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, mà chỉ ra khẩu hiệu giảm tô, giảm tức,
tịch thu ruộng đất của bon đế quốc và bọn việt gian phản quốc chia cho nông
dân, chia lại công điền cho hợp lý.
Đế quốc tay sai là kẻ thù chủ yếu của dân tộc, phải chĩa mũi nhọn đấu tranh
đánh đổ chúng. Đó là chủ trương thực tế xã hội Việt Nam lúc đó là xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến. Chủ trương đó nhằm phân hóa sâu sắc hang ngũ kẻ thù, tạo
đều kiện tranh thủ thêm bạn đồng minh của cách mạng, nhằm tập trung lực
lượng đánh đổ kể thù nguy hiểm nhất.
2.2.2. Công lao trong cuộc xây dựng lực lượng Cách Mạng
-Hồ Chí Minh có công lao lớn trong cuộc xây dựng Lực lượng cách mạng.
Lực lực lượng cách mạng bao gồm có lục lượng chính trị quần chúng và
lực lượng vũ trang nhân dân. Để có lực lượng chính trị Người cho thành lập Mặt
Trận Việt Minh ngày 19-05-1941) và đề ra Cương lĩnh 10 điểm cho Mặt Trận.
Mặt trận Việt Minh có thành phần rất rộng, bao gồm tất cả các giai cấp, các tầng
lớp yêu nước trong xã hội…Mặt trận Việt Minh và các hội cứu quốc chính là
lực lượng chính trị hung hậu, là tượng trưng cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Đến ngày 22/12/1944 người ra chỉ thị thành lập Đội “VIệt Nam tuyên
truyền giải phóng quân” và đề ra hình thức hoạt động cho đội việt nam tuyên
truyền, nghĩa là vừa đấu tranh chính trị, vừa đấu tranh vũ trang, nhưng lúc đầu
chính trị phải trọng hơn quân sự.
Đội việt nam tuyên truyền giải phóng quân chính là tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam ngày nay. Tới thang04-1945, Người lại cùng trung ương
Đảng cho triệu tập hội nghị quân sự Bắc Kỳ. Hội nghị đã ra quyết định thành
lập Ủy quân sự Bắc Kỳ và cho hợp nhất hai đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân và cứu quốc quân thành đội “Việt Nam giải phóng quân”. Nhờ có
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 8 -
hai lực lượng chính trị, vũ trang trên, ta đã sử dụng kết hai hình thức đấu tranh
chính trị, đấu tranh vũ trang để tiến hành tổng khởi nghĩa.
- Hồ Chủ Tịch có công lớn trong xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Căn cứ địa cách mạng có vai trò rất quân trọng vì là nhân tố thường
xuyên quyết định thắng lợi của cách mạng nên khi đặt chân về nước Người
đã cho xây dựng căn cứ Pắc Bó (Cao Bằng). Người chọn nơi đây là chổ đứng
chân đầu tiên là vừa để tiện chỉ đạo phong trào trong nước, vừa để liên hệ với
phong trào Cách mạng Thế giới. Từ Pắc Bó dần được mở rộng ra được nhiều
nơi ở cấc tỉnh Cao-Bắc-Lạng. Lúc này Hồ Chủ Tịch còn ra chỉ thị Nam tiến để
mở rộng dần căn cứ xuống các tỉnh miền xuôi. Đếm tháng 06/1945 Người Cùng
với trung ương thành lập Ku giải phóng Việt Bắc gốm 6 tỉnh Cao-Bắc-Lạng-Hà-
Tuyên-Thái. Trong khu giải phóng Người cho thi hành 10 chính sách của mặt
trận VIệt Minh để biến khu giải phóng thành chổ dựa vững mạnh của cách
mạng cả nước, đồng thời thí điểm một bước những chính sách ấy, rút kinh
nghiệm trước khi rút ra cả nước sau này (10 chính sách ấy là đường lối đối nội
và đối ngoại của Nhà Nước ta ngày nay). Từ căn cứ địa, khi thời cơ đến ta đã
tiến lên giải phóng cả nước.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 9 -
2.2.3. Công lao trong việc tranh thủ sự ủng hộ của Quốc tế
Đến giữa năm 1942, việc thực hiện Nghị quyêt Hội nghị Trung ương VIII
đã thu được nhiều kết quả. Phong trào chuyển biến mạnh. Nguyễn Ái Quốc
nhận thấy cần phải liên hệ với phe đồng minh phát xít, tranh thủ sự giúp đỡ của
họ để mở rộng ảnh hưởng hoạt động Việt Minh. Đây là một nhiệm vụ rất quan
trọng nhưng đầy nguy hiểm và phức tạp. Nguyễn Ái Quốc đã đảm đương nhiệm
vụ này. Tối 13/08/1942 với hai giấy giới thiệu mang tên Hồ Chí Minh đại diên
cho hai tổ chức (Việt Nam độc lập đồng minh, Quốc tế phản xâm lược Việt
Nam phân hội). Người đã lên đường sang Trung Quốc. Người đã bị chính quyền
ở Túc Vinh (Vĩnh Tây) bắt giam, giải qua 30 nhà tù ở 13 huyện thuộc Quảng
Tây. Đến tháng 9/1943 mới được thả. Cuối tháng 10/1943, Người bắt đầu tham
gia một số hoạt động của tổ chức Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, kêu gọi
mở rộng đoàn kết các lực lượng yêu nước, các đảng phái chính trị thành mặt
trận thống nhất để đấu tranh giải phóng dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước Đồng minh, trước hết là của Trung Quốc nhằm hoàn thành sự nghiệp giải
phóng dân tộc, góp phần liên kết các lực lượng quốc tế chống phát xít Nhật, tạo
ra nhịp cầu giữa cách mạng VIệt Nam và Quốc tế.
Tháng 2/1945. Hồ Chí Minh đi Côn Minh-Trung Quốc với quyết định bắt
liên lạc với phe Đồng Minh (Mỹ) nhằm tranh thủ sự ủng hộ. Quan hệ hợp tác
Việt-Mỹ được thiết lập trong công cuộc đấu tranh chống pháp xít Nhật.
2.2.4. Nhận định thời cơ và chớp thời cơ trong lảnh đạo tổng khởi nghĩa
cách mạng tháng 8 năm 1945
Vấn đề thời cơ khởi nghĩa đã được V. I. Lê-nin nêu rõ trong tác phẩm Chủ
nghĩa Mác và khởi nghĩa, coi khởi nghĩa là một nghệ thuật khi hội tụ ba điểm
chủ yếu: "Muốn thắng lợi, khởi nghĩa không được dựa vào một cuộc âm mưu,
một chính đảng, mà phải dựa vào giai cấp tiền phong. Đó là điểm thứ nhất.
Khởi nghĩa phải dựa vào cao trào cách mạng của nhân dân. Đó là điểm thứ
hai. Khởi nghĩa phải dựa vào một bước ngoặt trong lịch sử của cuộc cách mạng
đang lên, khi mà tính tích cực của những bộ phận tiên tiến trong nhân dân lên
cao hơn cả, khi mà những dao động trong hàng ngũ địch và trong hàng ngũ
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 10 -
những người bạn mềm yếu, lừng chừng và không kiên quyết của cách
mạng, mạnh hơn cả. Đó là điểm thứ ba"(2). ở nước ta, thời điểm tháng 8-1945
thật sự là một bước ngoặt lịch sử khi Đảng và giai cấp tiên phong đã phát triển
mạnh mẽ, sẵn sàng đưa quần chúng vào hành động cách mạng với bản Chỉ
thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (ngày 12-3-1945) và
Quyết định của Hội nghị Đảng toàn quốc ở Tân Trào (tháng 8-1945), đồng thời
cao trào Kháng Nhật cứu nước đã mạnh hơn bao giờ hết, và kẻ thù (Nhật và
chính quyền tay sai) đã hoang mang, dao động, nhất là khi Nhật tuyên bố đầu
hàng Đồng minh (ngày 15-8-1945), và lực lượng quần chúng trung gian ngả về
hàng ngũ cách mạng. Đảng đã quyết tâm phát động khởi nghĩa trong điều kiện
như thế và đã giành thắng lợi.
Ngày 9/03/1945 đúng như dự đoán của Đảng và Hồ Chí Minh, Nhật tiến
hành đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương, tạo ra tình hình khủng hoảng
chính trị sâu sắc. Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương “phát động phong trào
kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”. (thể hiện
trong chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau về hành động của chúng ta” vào ngày
12/03/1945). Chủ trương trên thể hiện rõ sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết kịp
thời sáng tạo, làm kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng làm kim chỉ nam
cho kháng Nhật cứu nước dẫn tới thắng lợi trực tiếp của tổng khởi nghĩa tháng
8/1945. Đầu tháng 6/1945. Hồ Chí Minh quyết định thành lập khu giải phóng
Việt Bắc.
Cuối tháng 7/1945 tại bản Nà Lừa. Hồ Chí Minh nói với Võ Nguyên Giáp:
“Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải kiêm quyết giành cho được độc lập” Nhờ chủ trương
đúng đắn, đến đầu tháng 8/1945, lực lượng cách mạng đã thống nhất toàn quốc.
Chiến tranh du kích và khởi nghĩa từng phần, thành lập chính quyền cách mạng
kết hợp đấu tranh chặt chẽ với đấu tranh chính trị ở nhiều địa phương. Đội tiên
phong cách mạng của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam đã
chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho một cuộc tổng khởi nghĩa, chỉ chờ thời cơ
khách quan thuận lợi là cuộc tổng khởi nghĩa có thể nổ ra.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 11 -
Sau khi Mỹ thả quả bom nguyên tử đầy tiên xuống Hirosima (Nhật Bản).
Người chỉ thị chuẩn bị họp gấp Hội nghị toàn quốc của Đảng. Theo giỏi sát tình
hình của thế giới, ngày 21/08/1945. Người nhận đươc tin Chính phủ Nhật gửi
công hàm cho phe Đồng minh đề nghị đàm phán ngừng bắn và lập lại hòa bình.
Quân Nhật ở Đông Dương mất tinh thần hoang mang riệu rã. Chính phủ bù nhìn
Trần Trọng Kim hoàn toàn tê liệt từ trên xuống dưới, nhưng phát xít Nhật và
bè lủ tay sai còn có những âm mưu vớt vát cứu nguy cho chế độ thuộc địa trong
cơn hấp hối. Ngọn lửa cách mạng của quần chúng lên cao chưa từng thấy. Các
tầng lớp trung gian đã ngã hẳn về cách mạng. Tình hình trên đây chứng tỏ tình
thế cách mạng trực tiếp đã chin muồi. Thời cơ ngàn năm có một đã xuất hiện.
Song cách mạng nước ta đang đứng trước tình thế một mình đối phó với
nhiều kẻ thù vì các thế lực Anh, Pháp, Mỹ, Trung Hoa Dân Quốc điều có mưu
đồ riêng đối với đông dương. Bọn Việt Nam Quốc dân đảng. Việt Nam cách
mạng Đồng minh hội theo quân đội Trung Hoa Dân Quốc kéo về nước mưu
toan cướp chính quyền. Lợi dụng thời cơ, bọn phản động trong nước cũng hoạt
động ráo riết chống phá. Trước tình thế trên Đảng ta đứng dầu là Hồ Chí Minh
đã có quyết định sang suốt: phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính
quyền từ quân đội Nhật với tư cách làm chủ nhà nước đón tiếp quân Đồng minh
vào giải giáp quân Nhật, trước khi quân Pháp tập hợp tàn quân và đưa quân
viễm chinh xâm lược nước ta một lần nữa để phá tan âm mưu của chủ nghĩa đế
quốc. Chủ trương trên được thể hiện trong Nhị quyết của Hội nghị toàn quốc
của Đảng( Từ 13 đến 14-08-1945) và Đại hội Quốc dân Tân Trào (Từ 16 đến
17-08-1945). Việc chớp lấy thời cơ cũa Đảng và Hồ Chí Minh trên đây rất sáng
suốt và kịp thời. Vì thời cơ Cách mạng than Tám chỉ diễm ra từ khi Pháp xít
Nhật đầu hang Đồng minh không điều kiện đến cuối tháng 8/1945, nếu khởi
nghĩa trước ngày Pháp xít Nhật đầu hàng (12-8) thì cách mạng không thể thắng
lợi được vì quân Nhật còn mạnh: còn nếu chần chừ không chớp lấy thời cơ, khi
quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật mới khởi nghĩa thì cách mạng cũng
không thành công vì thực tiễn lịch sử cho thấy khi quân Đồng minh vào Đông
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 12 -
Dương, chúng đã có âm mưu bóp chết cách mạng nước ta, tạo điều kiện cho
thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa.
Ngay sau Đại hội Quốc Tân Trào, Hồ Chí Minh đã kiêu gọi nhân dân cả
nước nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Người nói: Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy , lấy sức ta mà giải
phóng cho ta” Chính quyền quyết định sang suốt trên đây mà cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám 1945 đẫ diễn ra và giành được thắng lợi nhanh chóng (15
ngày), cơ bản trọn vẹn và ít đổ máu.
Có thể nói Cách mạng Tháng 8 thắng lợi bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong
đó có công lao to lớn của Hồ Chí Minh trong việc tích cực chuẩn bị mọi mặt và
kịp thời chớp lấy thời cơ.
2.2.5. Thảo và Độc tuyên ngôn độc lập
Sau khi tổng khởi nghĩa giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội.
Ngày 26/8/1945, Người đã chủ tọa buổi họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng,
đề nghị cải tổ Ủy ban Giải phóng Dân tộc Trung ương thành Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội nghị quết định mở rộng hơn nữa thành
phần Chính phủ lâm thời, quyết định tuyên bố bản Tuyên ngôn độc lập và tổ
chức mít tin lớn tại Hà Nội để chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Hội nghị
quyết định ra mắt của Chính phủ lâm thời cũng là ngày nước Việt Nam chính
thức công bố độc lập và thiết lập chính thể dân chủ cộng hòa.
Ngày 27/8 Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ các vị bộ trưởng Chính Phủ lâm
thời tại Bắc Bộ phủ.
Theo sự phân công Ban thường vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự thảo bản
Tuyên ngôn độc lập tại 248 phố Hàng Ngang, HÀ Nội.
Chiều ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình-Hà Nội trước cuộc mít
tinh trên 50 vạn nhân dân chào mừng chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chín phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản tuyên ngôn
độc lập, tuyên bố trước quốc dân và toàn thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời. Một nước Việt Nam hiện đại đã được xác lập.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-con đẻ
của cuộc cách mạng Tháng 8/1945, ngon cờ tiêu biểu phong trào giải phóng dân
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 13 -
tộc ở Đông Nam Á, lá sự kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ và văn
minh của nhân loại trong Tuyên ngôn Độc lập (1776) của nước Mỹ, Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền (1789) của nước Pháp.
Bản Tuyên ngôn Độc lập mở đầu bằng các câu trích dẫn từ Tuyên ngôn
độc lập của nước Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1789)
của nước Pháp:”Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳn. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được
sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước
Mỹ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn luôn được tự do
và bình dẳng quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (1789) của
nước Pháp). Trích những “lẽ phải không ai chối cãi được” ấy, bản Tuyên ngôn
Độc lập của Việt Nam không chỉ lên án chế độ thực dân-pháp xít đã tước đoạt
quyền con người của nhân dân việt nam mà còn xác nhận rằng quyền của con
người chính là nền tảng của quyền dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do” . Và do đó, (Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập).
Mục tiêu của Cách mạng Tháng 8/1945 là giành độc lập cho dân tộc đồng
thời giành các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, gắn kết mục tiêu của dân tộc
với mục tiêu mang tính thời đại là đứng về phe Đồng minh giải phóng loài
người khỏi chủ nghĩa pháp xít, thực hiện các quyền thiêng liêng mà tạo hóa dẫn
ban cho mỗi dân tộc, mỗi con người- “quyền được sống, quyền được tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc “ và muốn đất nước nhanh chóng hội nhập với thế
giới hiện đại đang hình thành trong và sau cuộc Chiến Tranh thế giới thứ 2.
Việc trích dẫn Tuyên ngôn của các nước là nhằm khẳng định và đòi hỏi cộng
đồng quốc tế phải công nhận nền độc lập, tự do- nền tảng của vấn đề nhân
quyền và dân quyền của nhân dân Việt Nam vì các nước Đồng minh và cộng
đồng quốc tế đã công nhận quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Trngphaanf cuối
bản Tuyên ngôn , Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Chúng tôi tin rằng các nước Đồng
minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêran
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 14 -
và Cựu Kim Sơn quyết không thể không công nhận quyền độc lập của nhân dân
Việt Nam”(…).
Tuyên ngôn đã tố cáo những tội ác tàn bạo của thực dân Pháp đối với nhân
dân ta, có tới trên 10 tội ác tày trời và ( hành động của chúng trái với nhân
đạovà chính nghĩa). Tuyên ngôn còn nhấn mạnh tới cuộc đấu tranh gan góc của
nhân dân ta chống pháp xít Nhật và thực dân Pháp.
Cuối cùng Tuyên ngôn khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta trong
việc đấu tranh để bảo vệ nền độc lập và tự do đã giành được.
Bản Tuyên ngôn Độc lập đồng thời được xem là bản Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Việt Nam.
=>Nhận xét: Tất cả những sự kiện trên đây đã chứng minh rằng Hồ Chủ
Tịch đã có công lao rất lớn trong việc chỉ đạo Cách mạng Tháng 8/1945. Từ
việc hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đến việc xây dựng
lực lượng, xây dựng căn cứ địa Cách mạng, từ việc lảnh đạo tổng khởi nghĩa
đến việc thảo và độc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa đều không thể tách rời với công lao to lớn của Người.
C. KẾT LUẬN
Với Cách mạng Tháng 8, Hồ Chí Minh ngoài góp phần tạo ra bước ngoặc
lịch sử vĩ đại cho dân tộc, Hồ Chí Minh còn góp phần đánh bại chủ nghĩa pháp
xít Nhật ở Đông dương, tạo điều kiện cho cách mạng Lào và cách mạng
Campuchia giành thắng lợi, mà còn góp phần vào kho tang lý luận của chủ
nghĩa Mác-LêNin về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thược
địa dưới sự lảnh đạo của một Đảng Cộng sản với đường lối độc lập, sang tạo,
đúng đắn, tự mình giành lấy độc lập đúng như dự đoán của Người những năm
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 15 -
20: “Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có thể giành thắng lợi
trước khi cách mạng vô sản ở chính quốc thành công”.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 16 -
Một số hình ảnh của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1920-1945
Bác Hồ chẻ củi ở Pác bó
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 17 -
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 18 -
Nhân dân Sài Gòn trong cách mạng tháng 8
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 19 -
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam tập I (1920-1954) NXB sự thật, Hà
Nội, 1981.
2. Sách Giáo Khoa Lịch sử 12 năm 2007.
3. Trương Công Huỳnh Kỳ (chủ biên),Giáo trình Lịch sử Việt Nam cận
đại, ĐHSP Huế, 2012.
4. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB GD
tập II.
5. Huỳnh Công Bá , Lịch sử Việt Nam, (2004), NXB Thuận Hóa, Huế.
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 20 -
MỤC LỤC
Tiểu luận 1
Vai trò của Hồ Chí Minh đối với mạng tháng 8 năm 1945 1
A. MỞ ĐẦU 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 3
B. NỘI DUNG 4
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA HỒ CHÍ
MINH 4
1.1. Cuộc đời 4
1.2. Sự nghiệp cách mạng 5
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG
THÁNG 8 NĂM 1945 5
2.1. Tình hình thế giới và trong nước 6
2.2. Vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945 7
2.2.1. Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng hoàn chỉnh chủ yếu hướng chỉ đạo chiến
lược Cách Mạng 7
2.2.2. Công lao trong cuộc xây dựng lực lượng Cách Mạng 8
2.2.3. Công lao trong việc tranh thủ sự ủng hộ của Quốc tế 10
2.2.4. Nhận định thời cơ và chớp thời cơ trong lảnh đạo tổng khởi nghĩa cách mạng
tháng 8 năm 1945 10
2.2.5. Thảo và Độc tuyên ngôn độc lập 13
C. KẾT LUẬN 15
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 20
SVTH: Nguyễn Thị Thu Hằng – Sử 2A (16/02/19992) - 21 -