Sự phơi sáng (Exposure)
và các thông số cơ bản
trong nhiếp ảnh
Nếu tranh vẽ là nghệ thuật của sự trừu tượng, hiphop là nghệ thuật đường phố
thì nhiếp ảnh – là nghệ thuật của ánh sáng. Một bức ảnh đẹp hay không,
không chỉ thể hiện ở những chi tiết hay cảnh vật trong hình, mà một yếu tố
quan trọng để tạo nên một tác phẩm “để đời” chính là độ sáng.
Bản chất của chụp ảnh cũng giống như cách con mắt chúng ta nhìn mọi vật.
Đó là thu nhận các luồng ánh sáng phản chiếu từ vật thể.
Máy ảnh hình dung đơn giản là một chiếc hộp tối. Khi ta bấm nút chụp ảnh,
màn trập sẽ mở ra cho ánh sáng bên ngoài xuyên qua ống kính đi vào bên
trong hộp tối. Ở cuối hộp tối là nơi chứa cảm biến máy ảnh. Trên bề mặt cảm
biến máy ảnh có vô số các điểm ảnh (chúng ta thường nghe nói “chiếc máy
này độ phân giải 16 chấm”, thực chất chính là 16 triệu điểm ảnh – 16
Megapixel – trên bề mặt cảm biến). Các tia sáng đi vào bên trong hộp tối vốn
phản chiếu từ vật thể phía trước ống kính, sẽ bị các điểm ảnh này thu nhận lại
và sau đó chuyển về phía sau cho cảm biến mã hóa thành tín hiệu ảnh.
Như vậy, độ sáng của tấm ảnh sẽ được quyết định bởi lượng ánh sáng mà các
điểm ảnh này thu được. Khi lượng ánh sáng vào quá nhiều thì ảnh sẽ trắng
xóa, còn không đủ thì ảnh sẽ bị tối. Một bức ảnh có độ sáng đúng với đối
tượng được chụp gọi là đúng sáng.
Vậy làm sao để biết từ trước lúc chụp rằng tấm hình sẽ đúng sáng hay
không?
Khi nhìn vào kính ngắm của máy ảnh ống kính rời, ta sẽ thấy một thanh sáng,
bao gồm các vạch chia như thước kẻ nằm ở phía dưới hoặc cạnh bên (vùng
khoanh màu đỏ trong hình), gọi là thanh đo sáng hay thanh đo giá trị EV.
Vạch chính giữa mặc định EV=0 là đủ sáng. Cách vạch về phía cực âm (-) là
thiếu sáng, và ngược lại là thừa sáng. Khi ta thực hiện thao tác lấy nét cũng
đồng thời là đo sáng cho tấm hình sắp chụp, và dựa vào vị trí của hình tam
giác ngược phía trên thước đo sẽ biết được tấm hình sắp chụp là đủ sáng hay
không.
Thanh đo sáng bên trong kính ngắm.
Độ phơi sáng của tấm hình chịu ảnh hưởng của 3 yếu tố: Độ mở ống kính,
Tốc độ chụp hay tốc độ màn chập, và độ nhạy sáng.
Apeture (Độ mở ống kính, thường ký hiệu là A)
Độ mở ống kính là phần điều chỉnh lượng ánh sáng đi qua ống kính trong
cùng 1 đơn vị thời gian. Cấu tạo bộ phận này bao gồm những lá mỏng ghép
lại tạo ra khe hở dạng hình tròn có thể điều chỉnh được. Tương ứng với các độ
mở ống kính ta có dãy trị số tiêu chuẩn 1, 1.4, 2, 2.8, 4, 5.6, 8, 11, 16, 32…
các trị số này gọi là F-stop hay Khẩu độ. Tại mỗi F-stop ta có đường kính lỗ
mở d tương đương f/1, f/1.4 , f/2 f/2.8 … và f chính là độ dài tiêu cự ống
kính. Như vậy ta có thể thấy Khẩu độ càng lớn thì đường kính d càng nhỏ và
ánh sáng đi qua ống kính càng ít.
Các lá khẩu xếp liền kề nhau tạo thành lỗ mở.
Shutter Speed (Tốc độ chụp, thường ký hiệu là S)
Cấu tạo thân máy ảnh có một màn chập nằm phía sau gương lật, là nơi sẽ mở
ra đón ánh sáng từ bên ngoài xuyên qua ống kính vào hộp tối khi ta nhấn nút
bấm máy. Tốc độ chụp được tính là khoảng thời gian kể từ khi màn chập mở
ra cho tới khi đóng lại. Bởi vậy nó còn được gọi là tốc độ màn chập.
Màn chập máy ảnh.
Thay đổi tốc độ chụp chính là việc điều chỉnh khoảng thời gian màn chập mở
ra, qua đó kiểm soát thời gian ánh sáng đi vào để thay đổi độ sáng của ảnh
chụp. Thời gian này càng lâu (tốc độ chậm) thì lượng ánh sáng đi vào càng
nhiều và ngược lại, thời gian này càng ngắn (tốc độ nhanh) thì lượng sáng đi
vào sẽ ít đi.
Tốc độ chụp nhanh hơn 1 giây có 1/2, 1/4, ….1/125, 1/250…
Còn lâu hơn 1 giây là 2, 4, 8, 16s…
Ngoài ra còn có tốc độ chụp Bulb (ký hiệu chữ B): là thời gian chụp tính từ
lúc màn chập mở ra (bấm chụp và giữ) cho đến khi đóng lại (nhả nút bám
chụp).
Độ nhạy sáng (ISO): thể hiện khả năng thu nhận ánh sáng của cảm biến máy
ảnh. ISO càng cao thì cảm biến máy ảnh càng nhận được nhiều ánh sáng hơn
trong cùng 1 đơn vị thời gian, đổi lại hình ảnh cũng sẽ nhiều nhiễu (còn gọi là
hạt / noise / hay grain) hơn và dễ mất chi tiết hơn so với khi chụp ở ISO thấp.
Ta cùng xem loạt hình được chụp ở cùng góc độ, thời điểm và thiết lập cân
bằng trắng cũng như độ sáng giống nhau sau đây để thấy được sự thay đổi về
chất lượng ảnh khi chụp ở các mức ISO khác nhau:
Ảnh chụp ở ISO 100 sạch nhiễu và tái hiện màu sắc rất chính xác (Click vào
hình để xem ảnh lớn).
Ảnh chụp ở ISO 400, nhiễu bắt đầu xuất hiện (Click vào hình để xem ảnh
lớn).
Ảnh chụp ở ISO 800, nhiễu xuất hiện ngày càng nhiều hơn (Click vào hình để
xem ảnh lớn).
Ảnh chụp ở ISO 1600, nhiễu tăng lên rất nhiều (phần chậu hoa bên dưới)
nhưng màu sắc và tương phản
giữa các chi tiết vẫn được tái hiện tốt (Click vào hình để xem ảnh lớn).
(Click vào hình để xem ảnh lớn).
(Click vào hình để xem ảnh lớn).
3 tấm ảnh ở phía trên: Từ mức ISO 3200 trở lên, tuy đã thiết lập các thông số
chụp thủ công ngay từ đầu để đảm bảo tính cố định nhưng màu sắc ảnh vẫn
bị biến đổi, nhiễu xuất hiện cực nhiều (Click vào hình để xem ảnh lớn).
Mối tương quan giữa ISO, S và A
Mối tương quan giữa ISO, S và A cũng giống như chiếc bập bênh, khi bên này
(A) lên cao thì bên kia (S) phải hạ xuống thấp và ngược lại. Trong khi đó ISO
đóng vai trò như chiếc trục, trục càng lên cao, người chụp càng được phép hạ
khẩu độ nhỏ hơn và dùng tốc độ chụp nhanh hơn mà vẫn đảm bảo ảnh đúng
sáng.
Như vậy, có thể tổng kết lại rằng để đạt được 1 tấm hình đủ sáng, phải đảm
bảo kiểm soát được tốt 3 yếu tố Tốc độ chụp, Độ mở ống kính và ISO. 3 yếu
tố này có mối quan hệ tương tác lên nhau. Cụ thể, khi ta tăng độ mở ống kính
thì tốc độ chụp sẽ nhanh hơn, khi ta giảm độ mở ống kính thì tốc độ chụp sẽ
chậm lại (cần lưu ý một điểm mà nhiều người hay nhầm, rằng giá trị sau số F
càng lớn thì nghĩa là độ mở ống kính càng nhỏ và ngược lại. Ví dụ: F1.8 cho
độ mở ống kính lớn hơn F8).
Trong khi đó, sử dụng ISO thấp sẽ giúp giảm nhiễu và tăng chất lượng ảnh,
nhưng lại đòi hỏi độ mở ống kính lớn và tốc độ chụp chậm hơn so với ISO ở
mức cao.