Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Luận văn: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 87 trang )



1






Luận văn
Một số giải pháp thúc đẩy hoạt
động đầu tư trực tiếp của Nhật
Bản tại Việt Nam




2
LỜI NÓI ĐẦU

Năm 1986 là năm đánh dấu một bước ngoặt rất lớn trong lịch sử kinh tế Việt
Nam. Đó là năm Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung bao cấp được chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa .Cho đến nay Việt Nam đã đạt được những
thành tựu quan trọng trên con đường phát triển kinh tế, tốc độ tăng trưởng khá cao,
đời sống nhân dân được cải thiện, Việt Nam đã có tiếng nói trên thương trường quốc
tế …
Những biến triển này thực sự là tiền đề cho việc phát triển kinh tế mở rộng quan hệ
kinh tế với các nước khác trên thế giới.Trong chiến phát triển kinh tế tới năm 2000
và những năm tiếp theo, Đảng cộng sản Việt Nam và chínhphủ đã đưa ra chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế trong những năm tới là 7-9%/năm và phấn đấu đến năm 2020 đưa


Việt nam trở thành một nước công nghiệp hoá -hiện đạI hoá hoàn toàn với mức GPD
đầu người là 2000-3000 USD /người –năm. Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh
tế đó, yêu cầu về vốn là một trong những thách thức quan trọng nhất và khó giải
quyết nhất đối với nền kinh tế Việt Nam.Về nguyên tắc, muốn tích luỹ vốn, chúng ta
phải tăng cường sản xuất và tiến hành tiết kiệm.Tuy nhiên,Việt Nam là một nước
đang phát triển, có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, đương nhiên mức tiết
kiệm nội địa hiện tại không thể đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày càng tăng. Vì vậy
việc tập trung vốn nước ngoài là sự cần thiết, là một cách tạo vốn tích luỹ nhanh nhất
mà các nước đi sau có thể làm được. Đối với quá trình phát triển nền kinh tế Việt
Nam, từ một nước có xuất phát điểm thấp, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết
sức quan trọng. Nó là nguồn bổ sung vốn cho đầu tư, là một kênh chuyển giao công
nghệ, một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho
ngân sách và giúp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế .
Với chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước Việt Nam, quan hệ kinh tế Việt
Nam trong thập niên 90 có bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là quan hệ với các
nước trong khu vực Đông Nam Á. Về phía Nhật Bản, trong chính sách phát triển
kinh tế thì chính sách hướng vào Châu á đặc biệt là hướng vào khu vực ASEAN đang


3
được coi trọng ,nhất là trong quan hệ đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN. Việt
Nam là một thành viên nên đương nhiên phải chịu ảnh hưởng của chính sách này
.Nhật Bản là một quốc gia có tiềm lực kinh tế hàng đầu khu vực và cũng là một đối
tác chiến lược của Việt nam trong thập niên qua .Nhật Bản dẫn đầu về kim ngạch
mậu dịch ,về cung cấp viện trợ ODA cho Việt Nam và là một trong ba nhà đầu tư
trực tiếp hàng đầu ở Việt Nam .Tuy nhiên ,so với tiềm lực kinh tế tài chính của Nhật
Bản ,so với sốvốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản trên thế giới và vào ASEAN thì đây
chỉ là lượng rất nhỏ .Mặt khác trong vài năm gần đây,đầu tư trực tiếp của Nhật Bản
vào Việt Nam lại có phần giảm sút.
Sự gia tăng quan hệ kinh tế Việt Nam –Nhật Bản không chỉ góp phần vào sự tăng

trưởng kinh tế của hai nước mà còn tạo ra bầu không khí hữu nghị ,hợp tác
kinhdoanh trong khu vực. Chính vì vậy, được sự hướng dẫn và giúp đỡtận tình của
Thầy giáo TS .Đỗ Đức Bình, em đã lựa chọn đề tài :

“Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt
Nam”
Trong khuôn khổ của đề tài này, em muốn phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật
Bản tại Việt Nam trong thời gian qua, đánh giá khách quan những điểm mạnh, những vấn
đề còn tồn tại. Từ đó, đưa ra một số giải pháp khuyến khích và thúc đẩy hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài nói chung và của Nhật Bản nói riêng tại Việt Nam.
Nội dung của đề tài bao gồm:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài .
ChươngII: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam .
Chương III: Những nguyên nhân và một số giải pháp khuyến khích và thúc đẩy
hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam.


Qua đây, em muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy giáo TS. Đỗ Đức
Bình – chủ nhiệm KT & KDQT, cùng toàn bộ cán bộ nhân viên trung tâm nghiên cứu
Nhật Bản đã giúp em thực hiện dề tài này.




4

CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

I. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài

1. Khái niệm
Đầu tư : Đầu tư nói chung là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu được các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó . Nguồn lực đó có thể là vốn, tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ… Các kết quả thu đực có thể là sự tăng
thêm các tài sản tài chính ( tiền vốn), tài sản vật chất ( nhà máy , đường xá… ) , tài
sản trí tuệ ( trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật …) và nguồn nhân lực
có đủ điều để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. Trên giác độ nền kinh
tế, đầy tư là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền
kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các
cá nhân, tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. Thực chất của vấn đề này
là như thế nào? chúng ta cùng xem xét một số tình huống sau : Một công ty bỏ ra 10
triệu USD để xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất mới. Một sinh viên bỏ ra 10
triệu VND để học tiếp cao học, một nhân viên bỏ ra 2000 USD để mua cổ phần của
một công ty, một công nhân bỏ ra 10 triệu VND. Tất cả các hoạt động bỏ tiền trên
đây đều nhằm mục đích chung là thu được một lợi ích nào đó trong tương lai về tài
chính, cơ sở vật chất, trí tuệ…, lớn hơn các chi phí bỏ ra. Vì vậy nếu xem trên giác
độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra thì các hoạt động trên đều được gọi là đầu
tư. Tuy nhiên nếu xem xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các
hoạt động trên đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh
tế. Bởi vì các hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần không làm tăng tài sản cho
nền kinh tế. Các hoạt động này thực chất chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng tiền,
quyền sở hữu cổ phần từ người này sang người khác. Do đó chỉ làm tăng số tiền thu
về của người đầu tư, những giá trị tăng thêm của người này là phần mất đi của người
khác, tài sản của nền kinh tế không thay đổi. Bên cạnh đó, các hoạt động bỏ tiền xây


5
dựng phân xưởng, bỏ tiền học cao học làm tăng thêm tài sản vật chất trí tuệ cho nền
kinh tế do đó các hoạt dộng này được gọi là đàu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ

nền kinh tế.
Đầu tư quốc tế : đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh trong đó vốn đầu tư
được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với mục đích sinh lời. Đầu tư
quốc tế là một hình thức hoạt động cao nhất của các công ty khi thực hiện kinh
doanh quốc tế. Về mặt sở hữu, đầu tư nước ngoài là quyến sở hữu gián tiếp những tài
sản của công ty ở nước khác. Về bản chất, đầu tư quốc tế là những hình thức xuất
khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức
luôn bổ xung hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của
các công ty, tập đoàn nước người hiện nay. Trong nhiều trường hợp việc buôn bán
hàng hoá ở nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, luật pháp để tiến hành đầu tư.
Sau đó việc tiến hành thành lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước sở tại là điều kiện để
xuất khẩu máy móc thiết bị vật tư… Hình thức đầu tư quốc tư thường gắn liền với
các hoạt động của các công ty đa quốc gia ( Multinational Enteprises)
Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài: đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một
loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người
trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vân hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi đủ
vốn đã bỏ ra.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựhg các cở sở ở nước
ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ sở
hữu đầu tư nước ngoài đóng góp một phần vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc
dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối trọng mà họ bỏ vốn ra. Trên
thực tế, phần lớn FDI được thực hiện dưới dạng thành lập cáccông ty con hoặc công
ty liên doanh trực thuộc các công ty đa quốc gia và nhà đầu tư là những tổ chức chóp
bu của các công ty nay. Một điều đáng lưu ý là ngày nay, FDI còn được thực hiện
bởi các công ty vừa và nhỏ, tuy nhiên các công ty đa quốc gia vẫn giữ vai trò chủ
đạo trong quá trình này. Do đó FDI có thể được định nghĩa là sự mở rộng phạm vi
hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty đa quốc gia trên phạm vi quốc tế. Sự
mở rộng đó bao gồm chuyển giao vốn, công nghệ và các kỹ năng sanư xuất, bí quyết





6
quản lý … tới nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh theo
kế hoạch của dự án đầu tư .
2. Đặc điểm của FDI.
Hiện nay xét về bản chất, FDI có những đặc điểm sau:
2.1. FDI trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư nước ngoài
Xét về xu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất lượng
trong nền kinh tế thế giới , gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp , tham gia vào sự
phân công lao động theo chiều sâu và tạo thành cơ sở hoạt động của các công
tyãuyên qốc gia và các doanh nghiệp quốc tế .
2.2. FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển
Đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển tăng mạnh trong vài thập
kỷ lại đây, đặc biệt là nửa cuối những năm 1980 là một trong những đặc điểm quan
trọng nhất của cá quan hệ kinh tế quốc tế kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai .
Có nhiều lý do giả thích mức độ đầu tư cao giửa các nước công nghiệp phát triển
với nhau, nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu .Thứ nhất , môi trường đầu tư
ở các nước phát triển có độ tương hợp cao . Môi trường này hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm cả môi trường công nghệ và môi trường pháp lý. Thứ hai, xu hướng khu vực hoá
đã thúc đẩy các nước này xâm nhập thị trường của nhau. Dĩ nhiên đây không phải lý
do trực tiếp vì trong khi khu vực hoá vối chủ nghĩa bảo hộ chặt chẽ chỉ là một xu
hướng thì mức độ mổ cửa hiện nay không cản trở điều đó .
Cũng với hai lý do chính đó, ta có thể giải thích đực xu hướng tăng lên của FDI
ở các nước công nghiệp mới ( NICs), các nước ASEAN và Trung Quốc. Quá trình tự
do hoá nền kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường ở các nước này cũng như khu vực
Đông Âu và Liên Xô đã tạo nên nhưngx khoảng trống mới cho đầu tư. Mặt khác, các
nhà đầu tư lớn nhất có xu hướng củng cố khu vực lân cận của mình .Lấy ví dụ đầu tư
nước ngoài của Nhật Bản .Vào đầu những năm 1980, Nhật Bản đầu tư mỗi năm
khoảng 1,2 tỷ USD cho toàn bộ khu vực châu á. Đến năm 1990 con số này tăng gấp 6

lần .
Như vậy, xu hướng tự do hoá và mở cửa nền kinh tế các nước đang phát triển
trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi dòng chảy FDI . Năm


7
1990 , các nước đang phát triển nhận được 19% tổng số vốn FDI, năm 1991 là 25%
và năm 1992 khoảng 30%. Trong những năm gần đây tỷ lệ này vẫn có xu hướng tăng
lên.
2.3. Cơ cấu và phương thức FDI trở nên đa dạng hơn .
Trong những năm gần đây, cơ cấu và phương thức đầu tư nước ngoài trở nên đa
dạng hơn so với trước đây. Điều này liên quan đến sự hình thành hệ thống phân công
lao động quốc tế ngày càng sâu rộng và sự thay đổi môi trường kinh tế thương mại
toàn cầu.
Về cơ cấu FDI, đặc biệt là FDI vào các nước công nghiệp phát triển có những
thay đổi sau:
- Vai trò và tỷ trọng của đầu vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao tăng lên.
Hơn 1/3 FDI tăng lên hàng năm là tập trung vào các ngành then chốt như điện tử, chế
tạo máy tính, chất dẻo, hoá chất và chế tạo máy . Trong khi đó, trong nhiều ngành
công nghiệp truyền thống dùng nhiều vốn và lao động, FDI giảm tuyệt đối hoặc
không đầu tư. Các công ty xuyên quốc gia của Mỹ đã đóng cửa các chi nhánh của
mình ở Tây Âu và Canada trong các ngành dệt, da, sản xuất các đồ dùng và thực
phẩm. Các nguồn vốn thu hồi này được chuyển về Mỹ và sử dụng để cải tạo và hiện
đại hoá các cơ sở sản xuất trong nước .
- Tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế tạo giảm xuống khi FDI vào các ngành
dịch vụ tăng lên. Điều này liên quan đến tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP của các
nước OECD tăng lên và hàm lượng dịch vụ trong công nghiệp chế tạo cao. Một số
lĩnh vực được ưu tiên là các dịch vụ thương mại, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính và
giải trí Tỷ lệ các nguồn FDI vào dịch vụ tăng rất mạnh từ thập kỷ 80 : năm 1985,
FDI vào dịch vụ tại Mỹ chiếm tỷ trọng 44% ( so với 32% năm 1950), vào Nhật Bản

là 52%( so với 20% năm 1965) và cộng hoà Liên bang Đức là47%(so với 10% năm
1966).
Một vấn đề đáng lưu ý trong phương thức tiến hành FDI trong thời gian gần đây là
vai trò tăng lên của các công ty vừa và nhỏ . Chẳng hạn số dự án FDI của các công ty
vừa và nhỏ của Nhật Bản tăng mạnh từ 318 dự án năm 1985 lên 994 dự án năm 1990,




8
chiếm 58% số dự án ( so với 13% năm 1985). Đa số các công ty này thuộc mạng lưới
các công ty xuyên quốc gia, tiến hành đầu tư theo yêu cầu của công ty mẹ .
2.4. Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa FDI với ODA, thương mại, và chuyển
giao công nghệ .
FDI và thương mại có liên quan chặt chẽ với nhau.Thông thường, một chính sách
khuyến khích đầu tư nước ngoài được nhằm vào mục đích tăng tiềm năng xuất khẩu
cuả một nước. Mặt khác, các công ty nước ngoài được lựa chọn ngành và địa điểm
đầu tư cũng dựa trên cơ sở tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường
quốc tế . Sự thay đổi kết cấu ngành đầu tư , như phân tích ở trên, đã chứng minh điều
này. Ngay cả đối với Nhật Bản, nước đã từng hướng đầu tư nước ngoài vào những
ngành khai thác để cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp trong nước thì
những năm gần đây cũng đã chuyển sang các ngành nhằm vào xuất khẩu là chủ yếu .
FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của chuyển giao công nghệ . Xu hướng hiện
nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Đây chính
là hình thức có hiệu quả nhất của sự lưu chuyển vốn và kỹ thuật trên phạm vi quốc
tế. Nhiều nước đã đạt được thành công trong việc hấp thụ các yếu tố bên ngoài để
phat triển kinh tế trong nước là nhờ đến điều này .
Sự gắn bó giữa FDI và các nguồn viện trợ và vay nợ khác cũng là một đặc điểm
nổi bật của sự lưu chuyển các nguồn vốn và công nghệ trên phạm vi quốc tế trong
những năm gần đây. Hơn nữa, xu hướng này sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn. Lý do

là trước đây, các nguồn viện trợ và cho vay thường nhằm vào mục đích quân sự và
chíng trị, do đó hiệu quả của nó đối với thúc đấỵ phát triển kinh tế của các nước
nhận và nước cho rất thấp. Ở các nước chậm phát triển nhất hiện nay viện trợ và cho
vay chiếm đến 90% các nguồn vốn từ bên ngoài. Viện trợ và cho vay trong nhiều
trường hợp dẫn đến sự phụ thuộc một chiều hơn là giúp cho các nước nhận có được
sự phát triển tự thân và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế .Vì
vậy, các nguồn vốn này đã được các chính phủ, các tổ chức quốc tế đặt trong mối
quan hệ với các nguồn vốn tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng .


9
3. Ưu nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
3.1. Đối với nước đi đầu tư.
Mối quan tâm đến tác động của FDI đối với bản thân nước đi đầu tư là rất
lớn.Phần lớn các công ty đi đầu tư thuộc các nước phát triển mà tỷ suất lợi nhuận
đầu tư ở trong nước có xu hướng ngày càng giảm, kèm theo hiện tượng thừa tương
đối tư bản . Khi đầu tư ra nước ngoài họ tận dụng được lợi thế và chi phí sản xuất
thấp của nước nhận đầu tư (Do giá lao động rẻ, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại
chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm , giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất
hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư , nhờ đó nâng cao hiệu quả của vốn
đầu tư .
Đầu tư trực tiếp cho phép các công ty kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm mới được
tạo ra.
Đầu tư trực tiếp giúp các công ty tạo dựng được thỉ trường cung cấp nguyên vật
liệu dồi dào với giá rẻ.
Đầu tư trực tiếp cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế ,tăng
cường ảnh hươnmgr của mình trên thị trường thế giới .
Đầu tư trực tiếp làm tăng tổng sản phẩm quốc dân của nước đi đầu tư ,từ các
khoản lợi nhuận, tiền bản quyền và các khoản khác do các chi nhánh của các công ty
đa quốc gia từ nước ngoài chuyển về. Nhiều trường hợp đầu tư trực tiếp là phương

tiện không những để kích thích sự phát triển kinh tế ,mà còn để phục vụ cho các mục
tiêu khác của nước thực hiện đầu tư .
Đầu tư trực tiếp biến các nước thực hiện đầu tư từ địa vị là nước xuất khẩu thành
địa vị là nước nhập khẩu đối với một số hàng hoá nhất định.
Tuy những ảnh hưởng tiêu cực của dòng FDI ra nước ngoài đối với các chủ đầu
tư là chưa được khảng định một cách chắc chắn ,nhưng những ảnh hưởng tiêu cực
đối với việc làm và thu nhập của người lao động trong nước ,việc suy giảm dòng vốn
tiết kiệm trong dài hạn ,cũng như làm mất đi tính cạnh tranh của hành hoá sản xuất
của các nước đầu tư trên thị trường quốc tế cũng là những vấn đề cần được xem xét
và phân tích hiện nay.





10
3.2. Đối với nước nhận đầu tư .
a. Ưu điểm:
Đối với các nước tiếp nhận đầu tư , đặc biệt là các nước đang phát triển ,FDI là
yếu tố quan trọng làm tăng cường vốn đầu tư trong nước trong điều kiện tỷ lệ tiết
kiệm nội địa thấp, thiếu ngoại tệ và quá trình tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chậm,
không đáng kể so với nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế .
Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp, các công ty đã
chuyển giao công nghệ và các tài sản vô hình khác từ nước mình hoặc các nước khác
sang nước tiếp nhận đầu tư. Phần lớn những ảnh hưởng tích cực của FDI đối với các
nước đang phát triển diễn ra thông qua hoạt động này. Sự chuyển giao này làm
nâng cao năng suất lao động bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực và
kết quả cuối cùng là thu nhập bình quân đầu người sẽ cao hơn ở nước tiếp nhận đầu
tư. Những tác động này có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp .
- Tác động trực tiếp : Thông qua việc chủ đầu tư chuyển giao công nghệ và các

tài sản vô hình khác cho các nhà sản xuất, cung cấp và phân phối địa phương mà chủ
đầu tư có quan hệ kinh doanh. Hoặc có thể do các doanh nghiệp do chủ đầu tư hoạt
động có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh địa phương .
- Tác động gián tiếp ( còn được gọi là “hiệu ứng lan toả”) :Thông qua việc các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài tạo nên một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ giữa
các công ty trong nội bộ khu vực. Môi trường cạnh tranh buộc các công ty trong khu
vực phải hoạt động có hiệu quả hơn, do đó năng suất lao động của tất cả các công ty
sẽ tăng lên.Ngoài ra, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài còn góp phần làm tăng kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing … cho công
nhân viên nước nhận đầu tư, đội ngũ lao động được đào tạo rèn luyện về nhiều mặt.
Họ có thể làm việc một cách hiệu quả với bất kỳ nơi nào với vốn kỹ năng và kiến
thức đã được đào tạo và tích luỹ .Tác động tích cực trên còn được gọi là “lợi ích bên
ngoài” .
FDI góp phần bổ sung đáng kể vào nguồn thu ngân sách của chính phủ các nước
đang phát triển thông qua thuế từ các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .


11
FDI còn có thể mang lại lợi ích trong việc khuyến khích đầu tư trong nước .Nguồn
vốn FDI được dùng để phát triển cơ sở hạ tầng thì có thể trực tiếp khuyến khích đầu
tư hơn nữa.Thậm chí nếu FDI được chú trọng đặc biệt cho một ngành nào đó thì nó
có thể khuyến khích đầu tư bằng việc giảm chi phí hoặc tạo cầu cho các ngành khác .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho các tiềm năng phát triển kinh tế xã hội của
đất nước có điều kiện để khai thác, điều đó có tác động mạnh mẽ đến việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động,
cơ cấu lãnh thổ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phù hợp với xu thế chung của thời đại,
của các nước trong khu vực
Tiếp nhận đầu tư trực tiếp, nước chủ nhà không phải lo trả nợ, thông qua hợp tác
với chủ đầu tư, nước chủ nhà có điều kiện xâm nhập vào thị trường thế giới. Các

công ty thuộc các nước đang phát triển khó hoặc ít có cơ hội xâm nhập vào thị
trường quốc tế, với sự liên doanh với các công ty đa quốc gia, các công ty thuộc các
nước đang phát triển sẽ vươn tới các thị trường nước ngoài. Có thể nói đây là cách
thức nhanh và có hiệu quả nhất giúp các công ty đó đến với thị trường nước ngoài và
thực hiện kinh doanh quốc tế .
Nếu đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, nước nhận đầu tư có được hàng
hoá cần thiết với giá cả thấp hơn giá nhập từ nước ngoài nhờ tiết kiệm được chi phí
vận chuyển và những lợi thế về lao động, nguồn nguyên liệu trong nước .
Đầu tư trực tiếp được sử dụng một cách có hiệu quả trong việc phát triẻn các khu
địa lý, khu công nghiệp hoặc ngành công nghiệp cụ thể thông qua việc xây dựng và
giới thiệu dự án gọi đầu tư vói những ưu đãi, khuyến khích các công ty nước ngoài
đầu tư vào các ngành, vùng mà họ muốn phát triển .
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo công ăn việc làm cho nước nhận đầu tư .Trong
thực tế ,FDI còn có tác động tích cực đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo tâm lý đội ngũ
người lao động của các nước tiếp nhận đầu tư .
b.Nhược điểm :
Việc quản lý vốn đầu tư trực tiếp của nước chủ nhà có nhiều khó khăn do các chủ
đầu tư có kinh nghiệm né tránh sự quản lý của nước chủ nhà Trong khi đó nước chủ




12
nhà lại chưa có nhiều kinh nghiệm, còn có nhiều sơ hở trong quản lý hoạt động các
cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài .
Lợi dụng sự yếu kém , thiếu kihn nghiệm trong quản lý và trong pháp luật của
nước sở tại, tình trạng trốn thuế, gian lận, vi phạm những quy định về bảo vệ sinh
thái môi trường và nhữnh lợi ích khác của nước chủ nhà thường xảy ra .
Trong số các nhà đầu tư, có những trường hợp vào không có mục đích là thu lợi
nhuận mà với mục đích tình báo, gây rối trật tự an ninh chính trị .Các công ty đa

quốc gia đầu tư trực tiếp có thể sử dụng như một công cụ để can thiệp vào các hoạt
động chính trị, kinh tế ngoại giao của nước sở tại .
Quá trình chuyển giao công nghệ trong đầu tư trực tiếp còn nhiều hạn chế và tiêu
cực, không thực hiện đúng quy định như chuyển giao các công cụ lạc hậu, ô nhiễm
môi trường, giá chuyển giao cao … Đồng thời nó đặt nước nhận đầu tư phụ thuộc
nhiều vào dòng vận động của công nghệ mới và công nghệ được cập nhật. Đối với
các nước kém phát triển, các công nghệ mà họ nhận đươc từ các công ty đa quốc gia
nhìn chung là các công nghệ ở giai đoạn cuối của sự vận động. Vì vậy giá trị của
công nghệ nhận được đó thường không cao và nó đặt các nước kém phát triển vào
tình trạng phụ thuộc nhiều hơn vào công nghệ của nước tiên tiến. Điều này được giải
thích bởi lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm và chu kỳ sống của sản phẩm mở rộng.
Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia có thể gây ra hiện tượng “chảy máu
chất xám” do việc thu hút các nhà khoa học của nước nhận đầu tư vào các trung tâm
nghiên cứu. Việc các công ty đa quốc gia trả lương cho các nhân viên của họ cao hơn
các công ty nội địa đã taọ ra dòng di chuyển lao động có chuyên môn, tay nghề cao
từ các công ty nội địa đến các công ty quốc gia. Đồng thời các công ty đa quốc gia
cũng thường là nhân tố làm rối loạn quá trình hoạch định chính sách kế hoạch phát
triển kinh tế .Sự hoạt động của các công ty này gây ra những thay đổi trong cách
thức kinh doanh, nếp sống, sở thích tiêu dùng… ảnh hưởng tới giá trị tinh thần của
dân cư nước sở tại. Dòng FDI vào các nước đang phát triển có thể tác động làm giảm
tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa. Tác động này xuất phát từ quyền lực thị trường của
các công ty đa quốc gia và khả năng của các công ty này trong việc sử dụng quyền
lực đó nhằm thu lợi nhuận cao và chuyển ra nước ngoài .Bằng các phương pháp cạnh


13
tranh khác nhau, các công ty đa quốc gia có thể làm phá sản các doanh nghiệp trong
nước nhằm chiếm lĩnh thị phần của họ .
Dòng FDI vào các nước đang phát triển thường có xu hướng làm tăng sự phát
triển vốn đã không đồng đều giữa các ngành, các vùng và các khu vực kinh tế, làm

tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.
Đầu tư trực tiếp là nguồn vốn quan trọng đối với các nước đang phát triển, tuy
nhiên lượng vốn đổ vào thi trường nước nhận đầu tư chưa chắc đã lớn hơn lượng vốn
đổ ra do việc các công ty đa quốc gia mang các khoản lợi nhuận ra khỏi nước sở tại
.Do đó lợi ích kinh tế do đầu tư nước ngoài trực tiếp tạo ra cũng là vấn đề cần gây
nên nhiều tranh luận .
Hai loại tác động tiêu cực và tích cực luôn song song tồn tại trong quá trình đầu
tư và tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài .Tuy nhiên tuỳ từng thời điểm, từng điều
kiện của các quốc gia mà có thể tác động này hay tác động khác chiếm ưu thế hơn.
Mỗi quốc gia cần phải xác định rõ các điều kiện của nước mình, từ đó xem xét các
tác động nhằm hạn chế các tiêu cực và để quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
nước mình được hiệu quả hơn
II. Các hình thức và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
1. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Đầu tư nước ngoài ngày 09 tháng 6 năm 2000 thì đầu tư trực tiếp nước ngoài
được định nghĩa là "việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì
tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”.
Luật quy định các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức
sau:
* Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
* Doanh nghiệp liên doanh.
* Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, còn có các phương thức tổ chức đầu tư khác như khu chế xuất, khu công nghiệp,
hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh
doanh (BTO), hợp đồng xây dựng-chuyển giao (BT).





14
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết giữa hai bên hay nhiều bên (các bên hợp
doanh) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh để tiến hành hoạt động đầu tư
tạiViệt Nam mà không thành lập pháp nhân. Các hợp đồng thương mại và hợp đồng kinh tế
có tính chất trao đổi hàng hoá như giao nguyên liệu lấy sản phẩm, mua thiết bị trả chậm
bằng sản phẩm không thuộc hình thức đầu tư này.
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành
lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí kết giữa Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh
nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên doanh làm hình thành một
pháp nhân mới. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
2. Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
2.1. Xu hướng tự do hoá đầu tư và sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô vốn đầu tư :
Những năm gần đây, hoạt động đầu tư phát triển mạnh mẽ trên thế giới và đã được tự do
háo trên tất cả các mặt. Xu hướng thể hiện trên ba bình diện : quốc gia ,khu vực và quốc tế.
Các quốc gia thì giảm dần những hạn chế về các hình thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư, luật pháp
liên quan tới đầu tư, về vấn đề góp vốn, chuyển giao công nghệ … đồng thời các chính sách
khuyến khích đầu tư như khuyến khích về thuế quan , nhân công … được ban hành. Bên
cạnh đó, trên thế giới hình thành các khu vực đầu tư, liên minh kinh tế, các hiệp định đầu tư

đa phương và song phương liên tục ra đời, vốn đầu tư được trải rộng trên toàn thế giới .


15
Xu hướng tự do hoá đầu tư và quá trình quốc tế hoá đã làm cho lượng vốn đầu tư gia tăng
mạnh mẽ trên toàn thế giới. Tổng số vốn lưu chuyển quốc tế trong những năm gần đây tăng
mạnh khoảng 20-30%/năm. Những năm 70, vốn đầu tư trực tiếp trên toàn thế giới trung bình
hàng năm khoảng 25 tỷ USD, đến thời kỳ 1980 – 1985, đã tăng lêngấp hai lần, đạt mức
khoảng 50 tỷ USD.Từ năm 1985 – 1990, tỷ lệ gia tăng danh nghĩa của dòng FDI hàng năm
là 34%, vượt xa mức tăng 13% hàng năm của tổng số hàng xuất khẩu trên thế giới .Số vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới năm 1986 là 78 tỷ USD, năm 1987 là 133 tỷ
USD , năm 1988 là 158 tỷ USD , năm 1989 là 195 tỷ USD và từ năm 1990 đến 1993,số
lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới hầu như không tăng lên , chỉ dừng ở
mức trên dưới 200 tỷ USD.Đến năm 1994, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới
lại tiếp tục tăng lên đạt mức 226 tỷ USD và đến năm 1995 con số đó là 253 tỷ USD. Số
lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số vốn đầu tư
trên toàn thế giới , cuối thập kỷ 70, vốn đầu tư nước ngoài bằng 5% trong tổng số vốn đầu tư
trên toàn thế giới. Năm 1989 con số này là 13%(bằng 200 tỷ USD so với 1500 tỷ USD ).
Tình hình này cho thấy xu hướng phát triển sản xuất ngày càng được mở rộng trên toàn thế
giới và ngày càng có nhiều quốc gia, tổ chức và các công ty đa quốc gia tham gia vào hoạt
đọng đầu tư ra nước ngoài .
2.2. Địa bàn thu hút vốn đầu tư có sự thay đổi :
Một xu hướng lâu dài là vốn đầu tư được luân chuyển chue yếu giữa các nước công
nghiệp phát triển. Năm 1950, số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào các nước
công nghiệp phát triển chiếm khoảng 40% trong tổng vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thế
giới: đến năm 1960 đã tăng lên 69%, năm 1998 con số này là 73% và cuối thập kỷ đó đạt
mức 80%. Sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước công nghiệp phát triển bị
chững lại vào đầu nhữnh năm90, do suy thoái kinh tế rộng khắp trên thế giới .Tư bản và
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này giảm mạnh trong những năm đầu
thập kỷ. Cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển

và tác động của qúa trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
thế giới đang có những biến đổi theo xu hướng tăng dần quy mô và tốc độ vốn đầu tư vào
các nước đang phát triển, tuy nhiên tốc độ tăng hàng năm là không đều. Những số liệu dưới
đây sẽ chứng minh cho nhận định này .




16
Bảng 1:Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước công nghiệp phát triển và đang phát
triển
Đơn vị tính : tỷ USD
Năm Các nước phát
triển
Nước đang phát
triển
Thế giới
1987-1988 142 31 173
1989 172 29 201
1990 176 35 211
1991 115 41 158
1992 111 55 166
1993 141 79 220
1994 148 105 253
1995 216 111,8 328
1996 213 145 358
1997 285,2 178,8 464
1998 464,5 179,5 644
1999 657,9 207,6 865,5
2000 800 200 1000

Tổng 3651,8 1391,7 5043,5

Nguồn :World Investment Report,2000,World Economic Out-look,2000.

Năm 1987-1988, FDI vào các nước đang phát triển đạt 31 tỷ USD thì đến năm 1990 (35
tỷ USD), các dòng vốn đầu tư (gồm đầu tư trực tiếp , gián tiếp ) vào các nước đang phát
triển đã tăng 4 tỷ USD.Tốc độ tăng FDI trung bình hàng năm là hơn 30% và đạt mức 111,8
tỷ USD năm 1995, năm 1997 178,8 tỷ USD, năm 1999 là207,6 tỷ USD, năm 2000 con số
này là 200 tỷ USD. Do vậy vốn FDI của các nước đang phát triển ngày càng tăng lên theo
thời gian ,cao nhất là năm 1999 và đến năm 2000 lượng vốn có giảm một chút ít nhưng


17
không đáng kể,điều đó đã khẳng định rằng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước
đang phát triển là thực sự cần thiết ,để xây dựng nền kinh tế đất nước. Hiện tượng dòng vốn
FDI chuyển hướng sang các nước đang phát triển có thể do các nguyên nhân sau : Thứ nhất:
Do suy giảm lãi suất, lợi nhuận đầu tư trong các nước công nghiệp phát triển làm cho địa
bàn đầu tư bị thu hẹp Các nhà đầu tư buộc phải tìm đến các địa bàn đầu tư mới, đó là các
nước đang phát triển. Thứ hai:Do xu hướng toàn cầu hoá và đa dạng hoá trong đầu tư quốc
tế.Trên thế giới ngày càng xuất hiệnnhiều vấn đề mang tính chất toàn cầu, buộc các nước
công nghiệp phát triển phải có sự hợp tác với các nước đang phát triển để cùng nhau giải
quyết .Thứ ba: Các nước đang phát triển thường là các nước có nền khoa học kỹ thuật lạc
hậu, với tốc độ phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các nước đang phát triển là
nơi để các nước phát triển chuyển giao các thiết bị cũ, lạc hậu thông qua việc đầu tư trực
tiếp vào các nước này. Như vậy các nước công nghệp phát triển vừa thay thế được các thiết
bị lạc hậu, lại vừa thu được một phần giá trị còn lại của các thiết bị cũ .Thứ tư: Do chính quá
trình phát triển mạnh mẽ của mình, các nước đang phát triển thu được rất nhiều vốn đầu tư
trực tiếp .Những năm gần đây, nhiều nước đang phát triển đã thu được những thành tựu lớn
về phát triển kinh tế, bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô , thực hiện sự cải cách kinh tế phù
hợp , tạo được môi trường đầu tư thuận lợi .Đặc biệt nhiều nước đang phát triển đã gần gỡ

bỏ được cuộc khủng hoảng nợ , một trở ngại lớn trong quan hệ giữa các nước đang phát
triển với các nước công nghiệp phát triển .
Tuy nhiên, sự phân phối FDI giữa các nước đang phát triển lại rất không đồng đều
.Trong những năm 60 và đầu những năm 70, các nước Mỹ La Tinh là những nước thu hút
được nhiều vốn đầu tư lớn nhất thế giới. Đây là thời kỳ các nước Mỹ La Tinh đạt được mức
đọ tăng trưỏng kinh tế thần kỳ. Cuối những năm 70 và đầu những năm 80, các nước Mỹ La
Tinh lại rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái nghiêm trọng, lạm phát tăng nhanh và có nhiều
nước rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ nước ngoài. Chính vì vậy, vốn FDI vào các nước
đang phát triển có xu hướng chuyển dần từ các nước Mỹ La Tinh sang các nước và vùng
lãnh thổ Đong Nam Á. Đây là khu vực đang có sự phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng
cao, sự ổn định chính trị – kinh tế – xã hội cùng với những cải cách kinh tế quan trọng đã
tạo nên sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài .




18
Thời kỳ 1986 – 1990, trung bình hàng năm lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy
vào các nước ở Đông và Đông Nam á là 14 tỷ USD bằng 54% tổng số vốn đầu tư trực tiếp
vào các nước đang phát triển trên thế giới .Các nước đang phát triển ở khu vực châu á - Thái
Bình Dương chiếm khoảng 62% tổng số vốn đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển
trên thế giới vaò năm 1995 (con số này vào năm 1990 là 46%). Từ năm 1992, Trung Quốc
nổi lên là một trong số các nước thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất thế giới. Năm
1993 : 20 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đổ vào Trung Quốc, so với các nước
trên thế giới thì Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ về việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc trong thời gian qua tăng rất
nhanh và chiếm tới 1/3 tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới vào các
nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước trong khu vực Đông và
Đông Nam Á tăng lên mạnh mẽ trong thời gian qua có thể do một số nguyên nhân sau: Thứ
nhất : Các nước ở khu vực này đã đạt được tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, đồng thời cải

cách lại các chính sách kinh tế – chính trị – xã hội nên đã tạo được một môi trường đầu tư
thuận lợi. Việc cải cách một số vấn đề trong luật đầu tư, đặc biệt là việc hình thành và phát
triển một số hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (như các khu chế xuất , đặc
khu kinh tế , bán trái phiếu ,cổ phiếu …) ở các nước này đã làm tăng khối lượng vốn đầu tư
vào trong nước. Thứ hai : Việc đồng yên tăng giá đã kích thích Nhật Bản đầu tư ra nước
ngoài nhiều hơn mà Châu á lại là địa bàn quen thuộc của Nhật Bản .Thứ ba : Các nước trong
khu vực có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế nên đã tạo ra được một lưọng tư bản thừa, do
đó các nước trong khu vực có sự đầu tư lẫn nhau .
Như vậy, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào các nước đang phát triển tăng lên
trong những năm gần đây nhưng chủ yếu chỉ đổ vào các nước đang phát triển có trình độ
phát triển kinh tế tương đối cao .Phải nói rằng , sự năng động và khả năng tăng trưởng mạnh
của nền kinh tế có sự hấp dẫ đáng kể đối với đầu tư nước ngoài .Vì vậy , muốn tăng cường
thu hút đầu tư nước ngoài , các nước đang phát triển phải tạo ra được sự ổn định chính trị –
xã hội và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu dài .Đặc biệt là trong giai đoạn
hiện nay, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh quyết liệt nhằn lôi kéo đầu tư trực
tiếp nước ngoài, việc tạo lập một môi trường đầu tư thuận lợi là nhân tố cơ bản có yếu tố
quyết định đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .


19
2.3. Cơ cấu đầu tư có sự thay đổi theo hướng tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến
và dịch vụ :
Hiện nay, một cơ cấu kinh tế được coi là hiện đại là cơ cấu kinh tế trong đó các ngành
công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm một tỷ trọng lớn. Đây là xu hướng có tính phổ biển
trên thế giới và xu hướng này đã chi phối toàn bộ hoạt động đầu tư, trong đó đáng kể là hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy mà hầu hết các nước đều tập trung mọi cố gắng để
tạo ra những điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển hai ngành
này. Xuất phát từ yêu cầu phát triển một cơ cấu kinh tế hiện đại theo hướng công nghiệp
hoá, Chính phủ của nhiều nước đang phát triển đã dành nhiều ưu đãi cho những người nước
ngoài đầu tư vào hai ngành này điều đó đã tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ cho các nhà đầu tư

nước ngoài. Xu hướng chung của thế giới trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư là chuyển từ
đầu tư khai thác các nguồn lực tự nhiên sang công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Vào giữa thập
kỷ 80, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ chiếm tới 50% tổng số vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới, trong đó dịch vụ ngân hàng, buôn bán chiếm phần
quan trọng nhất, mặc dù khoản đầu tư trực tiếp vào quảng cáo, giao thông vận tải cũng
chiếm phần không nhỏ. Trong những năm 90 đến nay, dòng FDI lại có xu hướng chuyển
dịch mạnh mẽ sang các ngành dịch vụ có hàm lượng vốn và công nghệ cao như viễn thông
… vì đó là khu vực mới phát triển và đang có khả năng thu lợi nhuận cao nhất .
Riêng trong lĩnh vực sản xuất thì có sự chuyển dịch các ngành sử dụng sức lao động
nhiều từ những nước có nền kinh tế phát triển cao sang các nước có nền kinh tế phát triển
thấp hơn (thường là những nước đang phát triển ). Những nước phát triển bắt đầu thu hút
FDIvào các ngành đòi hỏi sử dụng lao động có trình độ cao .
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế
biến và dịch vụ có thể do một số nguyên nhân sau : Thứ nhất: Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất ngày càng được nâng cao, vì vậy mà nhu cầu
về các loại dịch vụ phục vụ đời sống và sản xuất kinh doanh tăng lên mạnh mẽ, nhát là dịch
vụ kỹ thuật, tài chính, du lịch, đòi hỏi ngành dịch vụ phải được phát triển tương ứng. Thứ
hai : Ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành , mà những phân ngành đó
thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học công nghệ như điện tử, thông tin
liên lạc, vật liệu mới … Thứ ba : Do đặc tính kỹ thuật của hai ngành này là dễ dàng thực




20
hiện sự hợp tác. .Thứ tư : Việc đầu tư vào hai ngành này cho phép người đầu tư thu được lợi
nhuận cao, đõ gặp rủi ro hơn và nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư .
2.4. Hiện tượng đa cực đa biên trong đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự xuất hiện của một
số chủ đầu tư mới trên thế giới :
Trước đây , do Mỹ không bị ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nên Mỹ có

nhiều tiềm năng kinh tế để thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .Tuy nhiên ,tính chất
“một cực” này đã hoàn toàn bị thay thế bởi tính chất “đa cực” Hiện tượng này xuất hiện do
có sự cạnh tranh của Tây Âu , Nhật Bản và mới đây là sự xuất hiện của NICs đốibvới hoạt
động FDI của Mỹ. Ngày nay, số lượng các đối tác nước ngoài ở mỗi nước không phải có
một hay vài nước mà có rất nhiều các quoóc gia khác nhau cùng đầu tư vào .Ví dụ ở Việt
Nam, tính đến hết năm 1995 đã có trên 700 công ty của 50 nước và vùng lãnh thổ đầu tư
vào, với tổng số vốn lên đến gần 20 tỷ USD. Nguyên nhân của hiện tượng này là do có sự
phát triển nhanh chóng của một loạt nước công nghiệp mới, các nước này đã và đang rút
ngắn dần khoảng cách với các nước công nghiệp phát triển và do tình hình quan hệ kinh tế
quốc tế có nhiều biến đổi theo hướng các nước trên thế giới ngày càng hơp tác chặt chẽ với
nhau và có thể là chia sẻ rủi ro khi xảy ra. Về mặt lý thuyết, khi các công ty nội địa của một
quốc gia đã tích luỹ đầy đủ các điều kiện về vốn, công nghệ … thì họ sẽ đầu tư ra nước
ngoài. Trong một vài năm trở lại đây cũmg đã xuất hiện thêm một số chủ đầu tư mới trong
khu vực Châu á - Thái Bình Dương mà nổi bật là các nước mới công nghiệp hoá .Những
nước này đang dần trở thành nhà đầu tư hàng đầu , thay thế dần các nhà đầu tư của các nước
công nghiệp phát triển trước đây trong khu vực. Các quốc gia Singapore, Hàn Quốc, Đài
Loan và Hồng Kông đã chuyển sang thành các quốc gia xuất khẩu vốn .
2.5. Hiện tượng hai chiều trong đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Từ thế kỷ 18 đén nay đã xuất hiện hiện tượng hai chiều trong đầu tư trực tiếp nước
ngoài, tức là hiện tượng một nước vừa tiếp nhận đầu tư, vừa thực hiện đầu tư ra nước ngoài
.Những nước NICs cũng là những nước có hiện tượng này. Các nước NICs cũng là các chủ
đầu tư lớn trong những năm từ đầu thập kỷ 80 đến nay: 37% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
được phê chuẩn ở các nước đang phát triển vào thời điểm những năm 80 là từ NICs Châu
Á.Trong khi đó, các nước này lại tiếp nhận một khối lượng vốn đầu tư rất lớn từ Nhật Bản
và Mỹ. Hiện tượng trên đây là kết quả của quá trình phân công lao động và quốc tế hoá đời


21
sống kinh tế. Quá trình đó đã tạo điều kiện cho các công ty xuyên quốc gia của một số nước,
đang có nhu cầu tìm kiếm địa bàn đầu tư, đã năng động nắm bắt lấy nhữnh cơ hội kinh

doanh ở nước ngoài nhằm đạt được mức lợi nhuận cao. Mỗi nước có lợi thế tương đối về
một lĩnh vực kinh tế kỹ thuật nào đó nhưng lại kém hơn ở lĩnh vực khác, bằng hoạt động đầu
tư ra nước ngoài các nước này sẽ phát huy được lợi thế tương đối của mình, trên cơ sơ đó
làm tăng hiệu quả kinh doanh và cũng thông qua việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài,
họ sẽ bổ sung những mặt hạn chế để tăng hiệu quả phát triển kinh tế .
2.6. Vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia trong đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Hầu hết các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là bắt nguồn từ các công ty xuyên quốc
gia. Các công ty xuyên quốc gia là nguồn cung cấp vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý
chính trong đầu tư quốc tế. Năm 1995 có khoảng 39.000 tập đoàn với 270.000 chi nhánh và
cơ sở nước ngoài, nắm giữ 2.700 tỷ USD vốn FDI, tương đương với 10% GDP trên thế giới.
Do đó các tập đoàn xuyên quốc gia chi phối hầu hết các hoạt động FDI trên thế giới. Điều
đáng chú ý là các tập đoàn xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển hầu hết tập trung ở
Châu Á.





22

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM .
I. Khái quát mối quan hệ hợp tác Nhật –Việt .
1. Vài nét về đất nước Nhật Bản .
Đất nước Nhật Bản có diện tích 377.835 km2, gồm 4 đảo lớn (Honsu, Hokaiđo,
Kyusu, Sikoku) và hàng ngàn đảo nhỏ dải ra theo hình cánh cung dài 3.800 km ở
ngoài khơi lục địa Châu á.
Hiện nay Nhật Bản là một trong ba trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới (Mỹ,EU,Nhật
Bản )và đồng Yên đang có ảnh hưởng lớn đến thị trường tài chính –tiền tệ thế
giới.Tổng sản phẩm quốc dân năm 1996 của Nhật Bản là 4.760 tỷ USD,chiếm

19,1%GNP toàn thế giới và gấp 10 lần GNP các nước ASEAN.Do hậu quả để lại của
“nền kinh tế bong bóng” ,do nạn đầu cơ vào buôn bán bất động sản gây ra vào những
năm 90,kinh tế Nhật Bản vào đầu những nâưm 90 bị rơi vào tình trạng trì trệ suy thái
,đặc biệt là trong lĩng vực tài chính .Trước nguy cơ phá sản của 7 công ty tài chính
kinh doanh bất động sản .Cho đến tận cuối năm 1996, đầu 1997, hầu hết các ngân
hàng nb vẫn chưa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nợ khó đòi nên đến hàng trăm
tỷ USD,Tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản trong tháng 10/1997là 3,5%tức là khoảng
2,46 triệu người, tốc độ tăng trưởng chậm :1992-1995 là 1,4%/năm;1996 là
3,6%;1997 là -0,7%;1998là -1,8% và 1999 là 0,5% .

2. Mối quan hệ Nhật Bản –Việt Nam .
Trong thời đại ngày nay xu thề quốc tế hoá diễn ra ngày càng đa dạng và phong phú
,quan hệ giữa các nước càng thêm chặc chẽ ,phụ thuộc lẫn nhau.Việt Nam và Nhật
Bản cũng không nằm ngoài bối cảnh quốc tế đó, quan hệ của hai nước cũng có nhiều
lúc thăng thầm.Song có thể chia làm 3 giai đoạn :Giai đoạn 1 (1973-1978 ) –giai
đoạn mở đầu chậm chạp .Giai đoạn 2 (1979-1991) quan hệ Việt –Nhật lạnh nhạt và
có nhiều khó khăn .Giai đoạn 3 (1992-nay) được thúc đẩy và phát triển nhanh nhất
trong lịch sử quan hệ hai nước:Trong thập kỷ 90 tình hình thế giới thay đổi sâu sắc,


23
chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ hai nước có điều kiện và khả năng phát triển, cụ
thể là :
Xu thế đối thoại và hợp tác phát triển, tính chất tuỳ thuộc lẫn nhau trên phạm vi toàn
cầu và khu vực Châu Á Thái Bình Dương –khu vực quan trọngthu hút sự chú ý của các nước
lớn và trung tâm kinh tế lớn thế giới, đã làm cho khu vực này trở thành khu vực năng động
nhất thế giới .
Sự điều chỉnh chính sách của Nhật Bản từ chỗ gắn Châu Mỹ và Phương Tây quay trở
lại Châu á, coi trọng Châu á, điều đó đã gây ảnh hưởng lớn cho khu vực đặc biệt là Đông
Nam Á .

Việt Nam thực hiện thành công đường lối đổi mới kinh tế ,chính sách đối ngoại rộng mở, đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế trên tinh thần làm bạn với tất cả các quốc
gia.,nhằm tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng đất nước thành nước công nghiệp
hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Quan hệ chính trị :Từ 1993 quan hệ Việt Nam –Nhật Bản diễn ra rất tốt đẹp,hai bên đã tiến
hành nhiều cuộc thăm viếng cao cấp thường kỳ .Về phía Việt Nam ,mở đầu là chuyến thăm
Nhật của thủ tướng VõVăn Kiệt (3/1993) đã đánh dấu một bước ngoặt lớn đặt nền tảng cơ
sở vững chắc cho quan hệ Việt- Nhật ,tổng bí thư Đỗ Mười thăm Tokyo 4/1995, Chủ tịch
Quốc hội Nông Đức Mạnh thăm Nhật Bản 12/1995 … .Bên Nhật Bản ,hai lần Thủ tướng
thăm Việt Nam 8/1994 và 1/1997 …ngoài ra còn có nhiều cuộc viếng thăm khác, đã ngày
càng khảng định Việt Nam có một vị trí quan trọng đối với Nhật Bản trong hiện tại và tương
lai lâu dài .
Quan hệ kinh tế : 12/1992 đến nay Nhật Bản luôn là nước tài trợ tín dụng ưu đãi lớn .Nhật
Bản giành ODA cho Việt Nam liên tục tăng (80,5 tỷ Yên –1995, 93,5 tỷ Yên –1996, 97,5 tỷ
Yên -1997) .Phần viện trợ không hoàn lại dưới hình thức viện trợ chung và hỗ trợ kỹ thuật
chủ yếu tập chung vào một số dự án nhằm tăng cường trang thiết bị cơ sở vạt chất trong lĩnh
vực ytế, giáo dục, cấp thoát nước ,phát triển nông thôn….Phần tín dụng ưu đãi đồng Yên
được giành cho các dự án phát triển cơ sơ hạ tầng của Việt Nam (giao thông vận tải ,điện lực
…) Nhìn chung ,viện trợ phát triển của Nhật Bản cho Việt Nam là phù hợp với những ưu
tiên phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực sản xuất , quản lý, chuyển giao công nghệ




24
và phát triển nguồn nhân lực.Tuy nhiên vấn đề tồn tại là sở dụng có hiệu quả ODA, khắc
phục tình trạng giải ngân chậm (1997là 92%,1998 là 18-19%) .
Về mậu dịch, Nhật Bản trở thành bạn hàng số một với kim ngạch buôn bán hai chiều ngày
càng tăng :1996 là 3 tỷ USD tăng 135% so với 1995 chiếm tỷ trọng 17,4% tổng kim ngạch
XNK của Việt Nam ; 1997 là 3,481 USD tăng 110,2% so với 1996. Xuất khẩu Việt Nam

chủ yếu là nguyên liệu, dầu thô, than, hải sản và nhập khẩu là máy móc thiết bị .
Trong lĩnh vực đầu tư Nhật Bản –nước lớn thứ 3 sau Xingapo, Đài Loan, việc thực hiện các
dự án đầu tư của Nhật Bản khá tốt, tỷ lệ dự án rút giấy phép rất thầp trung bình 7% dự án và
khoảng 4% vốn đầu tư, một số dự án có hiệu quả cao, đóng góp đáng kể vào phát triển kinh
tế của Việt Nam. Trongđó việc cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại hoá một số
ngành công nghiệp dầu khí, ô tô, điện tở ,xe máy … làm tăng khối lượng hàng hoá xuất
khẩu, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động .
Quan hệ giáo dục -đào tạo ,văn hoá :1992-1998 Nhật Bản đã giành cho Việt Nam 341 suất
học bổng các loại, đến 1995 giúp Việt Nam xây dựng 115 trường ,1999 thêm 40 trường và
cho đến nay con số này còn cao hơn rất nhiều, các hoạt động văn hoá bước đầu đã được
triển khai khá tích cực với sự đa dạng về loại hình,phong phú về nội dung,hình thức .Tuy
nhiên nó chưa xứng với tầm vóc quan hệ đã tiến triển nhanh khi Việt Nam là thành viên của
ASEAN, ký kết hiệp định thương mại với Mỹ và tiến đến là tổ chức thương mại thế giới –
WTO.
Từ những phân tích trên có thể rút ra nhận xét chung là :Việt Nam –Nhật Bản có mối quan
hệ truyền thống lâu dài, tình hữu nghị hợp tác hai bên cùng có lợi .Tuy thời gian không
nhiều và có những lúc thăng trầm khác nhau, song quan hệ Việt Nam –Nhật Bản đã có
những bước phát triển mới rất tích cực, đang đứng trước thời điểm thuận lợi nhất, mở ra
tương lai hợp tác toàn diện lâu dài, hữu nghị, hai bên cùng có lợi .

II. Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Việt Nam .
1. Đầu tư trực tiếp chung của Nhật Bản .
1.1. Những nhân tố quyết định Nhật Bản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài .
Sau chiến tranh thế giới thứ 2 Nhật Bản tái thiết nền kinh tế từ một đống tro tàn đổ nát,
bước sang thập kỷ 60 Nhật Bản đã đủ tiềm lực kinh tế để ồ ạt tiến hành đầu tư ra nước


25
ngoài, thời gian này với nguồn lực lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, Nhật
Bản rát chú trọng phát triển công nghiệp nhẹ, đặc biệt là công nghiệp dệt may. Giữa những

năm 70 Nhật Bản bắt đầu chú trọng phát triển các ngành công nghiệp có khả năng tạo ra giá
trị cao hơn như côngnghiệp ôtô ,điện tử và tiếp đó là ngành công nghệ cao. Kết quả của quá
trìng phát triển công nghiệp đã làm nẩy sinh các sức ép kinh tế vĩ mô như cạn kịêt nguồn lao
động môi trường bị ô nhiễm và xung đột thương mại với Mỹ và Tây âu. Đó là những nhân tố
buộc Nhật Bản phải tiến hành đầu tư ra nước ngoài:
Cạn kiệt nguồn lao động: Ngày nay ít ai có thể hình dung được rằng sau chiến tranh thế
giới 2 Nhật Bản là một quốc gia nghèo và có mức lương thất nhất tại khu vực Châu Á. Để có
được ngoại tệ phục vụ công cuộc tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh ,Nhật Bản theo đuổi
chính sách tận dụng nguồn lao động trong nước nhằm mở rộng các ngành sản xuất các sanr
phẩm có hàm lượng lao động cao phục vụ xuất khẩu.Việc mở rộng một số ngành công
nghiệp dệt may, tạp phẩm ,gốm sứ phục vụ thị trường khoảng 200 triệu khách hàng, đã mau
chóng làm cho lực lượng lao động phổ thông bị cạn kiệt và làm tăng mức lương trung bình,
có thể nói đây là điều kiện để cho thanh niên Nhật Bản trang trải cho việc học tập tại các
trường cao đẳng ,đại học để có được học vấn cao hơn ,do vậynhucầu kiếm sống bằng lao
dộng chân tay không còn trở nên bức thiết. Để duy trì thế mạnh những ngành công nghiệp
buộc Nhật Bản phải tiến hành đầu tư ra nước ngoài, chủ yếu là tiếp cận nguồn lao động,
nguyên liệu dồi dào, đó là những ngành dệt may, khai thác, chế biến nguyên liệu .
Ônhiễm môi trường: Để thúc đẩy nhanh chóng phát triển nền kinh tế Nhật Bản đã đề ra và
cương quyết thực hiện khẩu hiệu “công nghiệp hoá các ngành công nghiệp nặng và công
nghiệp hoá chất”. Các ngành được lựa chọn phát triển: năng lượng, luyện kim , chế tạo máy
đóng tàu, phân bón, hoá chất… .Kết quả, quá trình này đã đóng góp to lớn cho sự thành
công của kỷ nguyên tăng trưởng cao. Song bên cạnh đó là tình trạng ô nhiễm môi trường
một cách nghiêm trọng và hệ sinh thái bị phá huỷ đến mức tồi tệ. Đến cuối những năm 70
ngoài vấn đề tăng trưởng kinh tế ,Nhật Bản bắt đầu đề cao chất lượng cuộc sống, ổn định
chính trị, bảo vệ môi trường và sự hoà hợp quốc tế(được gọi là cái “đa giá trị”) .Để đạt mục
tiêu “đa giá trị” Nhật Bản không ngừng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài –gọi là chính sách dọn
nhà(đưa ngành công nghiệp ô nhiễm ra nước ngoài ) .

×