Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

phân tích thâm hụt thương mại việt nam và các điều khoản cán cân thanh toán quốc tế của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 57 trang )



Tầng 9, Tòa nhà Minexport, 28 Bà Triệu, Hà Nội, Việt Nam
Tel: 04 62702158 Fax: 04 62702138
Email:
; Website: www.mutrap.org.vn





BÁO CÁO

PHÂN TÍCH THÂM HỤT THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM VÀ
CÁC ĐIỀU KHOẢN VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN CỦA WTO



MÃ HOẠT ĐỘNG: WTO-8



Bản Dự thảo lần cuối cùng


Hà Nội, ngày 5 tháng 10 năm 2009






Chuyên gia quốc tế:
Chuyên gia trong nước:
Peter Naray (Điều phối viên, Chuyên gia Chính
sách Thương mại) và
Paul Baker (Nhà Kinh tế học)


Ông Trương Đình Tuyển
Ông Đinh Văn Ân
Ông Lê Triệu Dũng
Ông Ngô Chung Khanh




Tài liệu này nhận được sự hỗ trợ tài chính của Ủy ban Liên minh châu Âu. Quan điểm nêu trong tài liệu này là
của tác giả do đó không phản ánh quan điểm chính thức của Ủy ban hay của Bộ Công Thương.

1
MỤC LỤC



CÁC TỪ VIẾT TẮT 2
BÁO CÁO TÓM TẮT 3
GIỚI THIỆU 10
PHẦN I – PHÂN TÍCH CÁN CÂN THANH TOÁN (BOP) TỪ GÓC ĐỘ KINH TẾ 11
I.1. GIỚI THIỆU 11
I.2. TỔNG QUAN CÁN CÂN THANH TOÁN Ở VIỆT NAM 11
I.2.1 Đặc điểm BOP ở Việt Nam 11

I.2.2 Diễn biến cán cân thương mại 16
I.3. SỰ BỀN VỮNG VÀ VẤN ĐỀ MANG TÍNH CƠ CẤU CỦA BOP 19
I.4. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP CHÍNH SÁCH 20
I.4.1. Đề xuất biện pháp ngắn hạn 20
I.4.2. Đề xuất biện pháp dài hạn 22
PHẦN II – KHUNG KHỔ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI 23
II.1. QUY ĐỊNH VỀ BOP CỦA WTO LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI HÀNG
HÓA 23
II.1.1 Ngoại lệ BOP trong hệ thống GATT/WTO 23
II.1.2 Quy định BOP áp dụng với các thành viên phát triển (Điều XII GATT 1994)
23
II.1.3 Quy định BOP áp dụng với các nước đang phát triển (Điều XVIII:B GATT
1994) 24
II.1.3 Hình thức các biện pháp BOP 24
II.1.4 Mức độ, cơ chế quản lý giám sát, phạm vi và thời hạn áp dụng hạn chế 25
II.1.5 Vai trò của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) 27
II.1.6 Khía cạnh pháp lý và quy định về thủ tục Tham vấn về BOP 31
II.2. QUY ĐỊNH BOP CỦA WTO TRONG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ 39
II.3 CÁC CUỘC THAM VẤN TRONG KHUNG KHỔ UỶ BAN BOP 39
II.3.1 Giới thiệu 39
II.3.2 Các đợt Tham vấn đầy đủ quan trọng nhất giữa Uỷ ban BOP của WTO với các
nước đang phát triển đến năm 2000 40
II.3.3 Tham vấn đầy đủ với các thành viên LDC 44
II.3.4 Tham vấn với các nền kinh tế chuyển đổi theo Điều XII GATT 1994 đến năm
2000 44
II.3.5 Các đợt tham vấn gần đây 49
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56



2

CÁC TỪ VIẾT TẮT


ACFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN – Trung Quốc
AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
AJFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN – Nhật Bản
AKFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN – Hàn Quốc
ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
BOP Các cân Thanh toán
CAB Cán cân Tài khoản vãng lai trong Cán cân Thanh toán
EU Liên minh châu Âu
FDI Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài
FTA Thỏa thuận Thương mại Tự do
G20 Nhóm 20 nước
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
KAB Cán cân Tài khoản vốn trong Cán cân Thanh toán
MUTRAP Chương trình Hỗ trợ Thương mại Đa biên
US Hoa Kỳ
USBTA Hiệp định Thương mại Song phương Hoa Kỳ-Việt Nam
US$ Đôla Mỹ
VND Đồng Việt Nam
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
LDC Nước/Quốc gia kém phát triển
GATT Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại

3


BÁO CÁO TÓM TẮT

Kể từ 2002, ở Việt Nam đã xuất hiện thâm hụt thương mại gia tăng mang tính chất hệ
thống, đến nay đã đạt đến mức cao trong lịch sử. Thâm hụt thương mại mang tính cơ cấu
là gánh nặng lớn đối với Cán cân Thanh toán (BOP) của quốc gia, và kết quả là cán cân
vãng lai đã rơi vào tình trạng thâm hụt trong những năm gần đây. Mặc dù tình hình BOP
của Việt Nam không bị coi là đáng báo động, nhưng thực trạng này yêu cầu cần phân tích
sâu sắc về các nguyên nhân kinh tế và chính sách thương mại cũng như các bước đi để
lọai bỏ bất cập này. Nghiên cứu này của MUTRAP ghi nhận sự thay đổi sâu sắc đối với
cơ cấu cũng như chức năng của nền kinh tế Việt Nam kể từ thời điểm bắt đầu quá trình
cải cách kinh tế xã hội chủ nghĩa vào giữa những năm 90 và việc tự do hóa đáng kể hoạt
động nhập khẩu là kết quả của việc Việt Nam trở thành thành viên WTO và ngày càng
tham gia nhiều hơn vào các thỏa thuận thương mại tự do song phương và khu vực. Quá
trình hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế thế giới cũng định hình lại môi trường chính
sách thương mại ở Việt Nam cũng như các cam kết quốc tế trong lĩnh vực thương mại tạo
ra khung khổ cho các biện pháp đối phó với các bất cập liên quan đến BOP.

PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH KINH TẾ

Sau khi thực hiện cải cách kinh tế khá mạnh mẽ, mở cửa đối với thương mại quốc tế và
thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao, đầu tư
tăng, và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong những năm gần đây, nền kinh tế
Việt Nam trở nên quá nóng, luồng vốn vào tăng cao và thâm hụt tài khoản vãng lai gia
tăng, chủ yếu là do thâm hụt thương mại tăng lên. Thâm hụt tài khoản vãng lai lên mức 9
tỷ đôla Mỹ vào 2008. Do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu từ năm 2007, luồng
vốn vào Việt Nam đã giảm
mạnh, thoái đầu tư và rút
vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài (FII) diễn ra ở mức
nhất định, tạo ra hiện tượng

thâm hụt kép trên cả tài
khoản vãng lai và tài khoản
tài chính. Trong 2009, dự
trữ quốc tế dự kiến sẽ giảm
xuống mức thấp khoảng 3
tháng nhập khẩu của năm
kế tiếp, mặc dầu giá hàng
nhập khẩu đã giảm nhiều so
với năm 2008 (xem Biểu đồ
i). Hiện tượng này tạo ra lo
ngại cho các nhà xây dựng
chính sách về sự bền vững
của các chính sách áp dụng trong thời gian qua và tạo nên cơ sở để xem xét áp dụng các
biện pháp chính sách thương mại nhằm giải quyết vấn đề thâm hụt thương mại mang tính
cơ cấu, với vai trò là nhóm biện pháp nhằm cải thiện BOP của Việt Nam.

Phân tích kỹ lưỡng các nguyên nhân và bản chất của diễn biến cán cân thanh toán giúp
đúc rút ra một số điểm đáng lưu ý cần cân nhắc trước khi tiến hành điều chỉnh chính sách
thương mại. Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu tạm thời, được phép áp
dụng theo quy định của WTO, cũng đòi hỏi phải phân tích kỹ lưỡng tổng thể cán cân
Biểu đồ i. Tình hình dự trữ quốc tế, 2002-2009

Nguồn: IMF (2009) Thống kê Tài chính Quốc tế, 9/2009; IMF (2009) Tham vấn Điều khoản IV,
tháng 4
Ghi ch
ú
: * T

n
g

d

trữ th

hi

n mức d

trữ vào 5/2009

4

thanh toán để đảm bảo được sự phù hợp với quy định của WTO. Nghiên cứu này xác
định quan điểm chủ đạo là sự mất cân đối về kinh tế vĩ mô là yếu tố quyết định cơ bản
dẫn đến tình hình cán cân thanh toán như hiện nay ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng nhấn
mạnh rằng mặc dù cán cân thương mại bị mất cân bằng cơ cấu, nhưng bản thân cán cân
thương mại không phải là nguyên nhân dẫn tới sự sụt giảm dự trữ quốc tế một các nhanh
chóng.

Hiện trạng cán cân vãng lai của Việt Nam chủ yếu bao gồm cán cân thương mại hàng hóa
và cán cân chuyển khoản, còn dịch vụ và thu nhập tương đối nhỏ. Chuyển khoản giảm
mạnh trong năm 2008, một
phần là do khủng hoảng tài
chính toàn cầu, nên kiều
hối giảm xuống, và thoái
đầu tư của cá nhân
1
. Cán
cân thu nhập bao gồm
chuyển lợi nhuận từ hoạt

động đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam thông thường
luôn ở trạng thái thâm hụt.
Thương mại dịch vụ có
quan hệ gắn kết chặt chẽ
với thương mại hàng hóa
do thống kê dịch vụ chủ
yếu bao gồm vận tải và bảo
hiểm, mặc dù thương mại
dịch vụ còn bao gồm cả các
dịch vụ đáng kể khác như du lịch và dịch vụ tài chính. Thương mại hàng hóa là nhân tố
lớn nhất gây ra thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, với mức 12.3 tỷ đôla Mỹ năm 2008
(xem Biểu đồ ii).

Thâm hụt tài khoản vốn của Việt Nam
2
trước đây thường là thặng dư, chủ yếu là do dòng
đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đổ vào khá lớn, FDI
đạt mức đỉnh là 7,8 tỷ đôla
Mỹ vào năm 2008. Do sự
sụt giảm chung trong đầu tư
của thế giới, FDI có khả
năng chỉ đạt được 1 nửa
mức này trong năm 2009
(xem Biểu đồ iii). Nợ ngắn
hạn hay dòng vốn ngắn hạn
vào Việt Nam, dưới hình
thức đầu tư gián tiếp cũng
có xu hướng dương (mặc

dù biến động khá mạnh).
Tuy nhiên, sự tin tưởng vào
thị trường Việt Nam cũng

1
Mặc dù trên lý thuyết chuyển khoản chỉ bao gồm kiều hối, nhưng thông thường con số này bao gồm cả đầu tư trực
tiếp nước ngoài không chính thức từ cá nhân bên ngoài thông qua người Việt Nam.

2
Thuật ngữ tài khoản vốn là thuật ngữ kinh tế chỉ các mục được ghi chép theo thuật ngữ kế toán như tài khoản tài
chính trong cán cân thanh toán và phản ánh dòng nợ nước ngoài thuần (dòng vốn) vào và ra khỏi Việt Nam.
Biểu đồ ii. Tình hình Tài khoản Vãng lai của Việt nam, 2000-09

-15,000
-10,000
-5,000
0
5,000
10,000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008e 2009f
U
S
$

M
i
l
l
i
o

n
s
Transfers
Services
Income
Goods
Current
Account

Nguồn: IMF (2009) Thống kê Tài chính Quốc tế, 9/2009; IMF (2009) Tham vấn Điều khoản IV,
tháng 4
Biểu đồ iii. Diễn biến tài khoản vốn của Việt Nam, 2000-09
-5,000
0
5,000
10,000
15,000
20,000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008e 2009f
U
S
$

M
i
l
l
i
o
n

s
Direct
Portfolio
Other
Financial
Account

Nguồn: IMF (2009) Thống kê Tài chính Quốc tế, 9/2009; IMF (2009) Tham vấn Điều khoản IV,
tháng 4

5

bị suy giảm mạnh trong năm 2008 và dòng vốn đầu tư gián tiếp giảm mạnh. Số liệu sơ bộ
cho Quý II năm 2009 cho thấy đầu tư gián tiếp tiếp tục giảm mạnh, làm tài khoản vốn bị
thâm hụt. Tác động tổng hợp của thâm hụt tài khoản vãng lai và cán cân tài khoản vốn
giảm xuống đã làm dự trữ quốc tế giảm xuống trong Quý II năm 2009.

Tình hình cán cân thanh toán của Việt Nam không bị coi là trầm trọng bởi một số lý do
nhất định. Thứ nhất, nghĩa vụ nợ ngắn hạn của Việt Nam có thể được thực hiện. Mức dự
trữ hiện nay cao hơn so với năm trước đồng thời nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn tương đối nhỏ,
vì vậy xét về ngắn và trung hạn nhu cầu đối với dự trữ quốc tế không lớn. Dự trữ hiện
nay đủ lớn để đảm bảo thanh toán nhập khẩu và sự mất cân đối thương mại của Việt Nam
cũng đang có những dấu hiệu được cải thiện trong năm 2009. Ngoài ra, luồng vốn quốc tế
có khả năng sẽ quay trở lại xu hướng như trước đây khi nền kinh tế thế giới phục hồi
trong n
ăm 2010. Điều quan trọng là Việt Nam phải giành được niềm tin vào nền kinh tế
của mình từ đó hạn chế tối đa hiện tượng rút vốn. Để đạt được điều này, không chỉ cần ổn
định tình hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam mà còn cần đảm bảo môi trường đầu tư hấp dẫn.

Từ góc độ dài hạn hơn, tình hình cán cân thanh toán của Việt Nam chỉ thực sự

bền vững
nếu có đủ năng lực trả nợ nước ngoài bằng thặng dư thương mại trong tương lai. Mất cân
đối cơ cấu cần được giải quyết để đảm bảo rằng cán cân thanh toán không trở nên báo
động. Trước hết là cần đối mặt với các bất cập mang tính cơ cấu gắn với thâm hụt thương
mại. Lý do chính dẫn tới thâm hụt thương mại lớn là việc Việt Nam nhập khẩu một lượng
lớn nguyên liệu thô và đầu vào phục vụ sản xuất xuất khẩu. Nâng cao vai trò của các
ngành sản xuất trong nước và tăng tỷ lệ giá trị gia tăng của sản xuất trong nước, thì tỷ lệ
nhập khẩu để xuất khẩu sẽ giảm xuống. Các biện pháp bảo hộ do các nước thành viên
G20 áp dụng kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể ảnh hưởng xấu hơn
nữa tới kết quả xuất khẩu của Việt Nam, hiện nay một số ngành đã chịu ảnh hưởng tiêu
cực của các biện pháp bảo hộ tại thị trường nước thứ ba.

Thâm hụt thương mại tăng cao cũng xuất phát từ việc cắt giảm nhanh chóng hàng rào bảo
hộ kể từ khi, hội nhập với ASEAN, tham gia khu vự mậu dịch tự do ASEAN, ASEAN-
Trung Quốc, ASEAN- Ấn Độ, ASEAN- Hàn Quốc và đàm phán để trở thành thành viên
của WTO vào năm 2007. Việt Nam hiện tiếp tục cân nhắc các thỏa thuận thương mại
song phương khác (BTA) thông qua ASEAN và đây cũng là cơ sở để nhập khẩu tăng lên.
Việc đánh giá kỹ lưỡng các hiệp định như vậy và lợi ích cho Việt Nam từ các hiệp định
này cần được thực hiện trước khi ký kết, không nên chỉ nhìn nhận những chi phí phát
sinh sau khi ký kết.

Trong 2009, Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng và nới lỏng chính sách tài
khóa nhằm kích cầu trong nước. Các chính sách kinh tế vĩ mô này của Chính phủ đã giúp
đạt được tăng trưởng kinh tế khá trong năm, lạm phát phát sinh ở mức thấp. Tuy nhiên,
chính sách này đã dẫn đến sự gia tăng nhu cầu nhập khẩu, được phản ánh trong cơ cấu
nhập khẩu. Ngoài ra, thâm hụt ngân sách cũng đòi hỏi tăng mức nợ, từ đó đặt ra yêu cầu
phải có thặng dư cán cân tài khoản vãng lai trong tương lai thì mới có nguồn để thanh
toán khoản nợ này.

Thông thường FDI tập trung vào ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu hoặc và các ngành

dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính và du lịch. Tuy nhiên, gần đây FDI lại tập trung vào
bất động sản, tạo ra nhu cầu lớn đối với vật liệu xây dựng và thiết bị nhập khẩu, trong khi
không tạo ra năng lực xuất khẩu trong tương lai. Điều này tạo ra bất cập với cán cân
thương mại, và giải pháp là Việt Nam nên cố gắng thu hút FDI vào các ngành sản xuất
của nền kinh tế.

6


Một lý do cơ bản khác dẫn tới bất cập của cán cân tài khoản vãng lai là sự mất cân đối
lớn giữa tiết kiệm và đầu tư ở Việt Nam. Mặc dù mức đầu tư lớn là dấu hiệu tích cực nếu
được tập trung vào các hoạt động sản xuất, nhưng trong điều kiện tiết kiệm quốc gia thấp,
thì đầu tư lớn cũng đồng nghĩa với việc phải đi vay nước ngoài. Để giảm bớt thâm hụt tài
khoản vãng lai, Việt Nam cần tăng tiết kiệm. Mặc dù Việt Nam vẫn là nước có thu nhập
tương đối thấp, cần bắt đầu khuyến khích tiết kiệm ngay khi thu nhập tăng lên để giảm
bớt sự phụ thuộc nặng nề vào vốn nước ngoài.

Áp dụng các biện pháp hạn chế để khắc phục thâm hụt tài khoản vãng lai, bao gồm từ
việc hạn chế nhập khẩu đến nâng thuế nhập khẩu đều có khả năng không có lợi cho lợi
ích kinh tế của Việt Nam. Thứ nhất, do tỷ lệ nhập khẩu về phục vụ xuất khẩu là khá cao,
nên áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ dẫn tới suy giảm sức cạnh trạnh của hàng
xuất khẩu. Thứ hai, áp dụng các biện pháp chính sách thương mại như vậy thường dẫn tới
hậu quả là các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bị rút vốn hoặc đóng băng do không giải
quyết được nhu cầu nhập khẩu đầu vào hoặc công nghệ. Thứ ba, những biện pháp này có
thể làm cho các nhà đầu tư mất niềm tin và triển vọng kinh tế của Việt Nam, dẫn tới rút
vốn quy mô lớn và tạo sức ép làm cho đồng tiền Việt Nam mất giá.

Điểm cuối cùng, cần hết sức lưu ý rằng bất cập về cán cân thanh toán thực chất là bất cập
về cơ cấu kinh tế và chính sách vĩ mô, vì vậy giải pháp tốt nhất chính là cải cách cơ cấu
và các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô, như chính sách tài khóa hoặc tiền tệ, hoặc giảm

bớt tổng cầu nội địa (và như vậy sẽ cải thiện cán cân thương mại khi nhập khẩu giảm
bớt), hoặc thay đổi cơ cấu chi tiêu từ hàng nhập khẩu sang hàng sản xuất trong nước,
thông qua hạ thấp tỷ giá thực của đồng tiền. Đây là phương pháp tiếp cận hợp lý hơn để
đối phó với bất cập về cán cân thanh toán.

PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI

Các quy định của WTO liên quan đến Cán cân Thanh toán

Việt Nam đã gia nh
ập WTO, điều đó có nghĩa là Việt Nam phải tuân thủ các quy định và
thủ tục của tổ chức này liên quan đến bản chất, hình thức và mức độ của các biện pháp tự
vệ đối phó với bất cập tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán của mình.

Điều XVIII:B của GATT 1994, được diễn giải trong “Tuyên bố về các Biện pháp
Thương mại Áp dụng vì mục đích Cán cân Thanh toán”, thông qua vào 28 tháng 11 năm
1979 (Tuyên bố) và “Cách hiểu về Điều khoản Cán cân Thanh toán của GATT 1994”
(Cách hiểu) đặt ra quy định áp dụng với các nước đang phát triển muốn vận dụng các
điều khoản về BOP của WTO. Quy định cơ bản áp dụng với các nước đang phát triển nêu
rõ “nhằm tự vệ đối phó với bất cập tài chính đối ngoại và đảm bảo dự trữ quốc tế đủ để
thực hiện chương trình phát triể
n kinh tế, có thể… kiểm soát tổng mức nhập khẩu…” Các
biện pháp BOP chỉ được phép áp dụng tạm thời, dựa vào cơ sở giá cả (ví dụ như áp dụng
phụ thu nhập khẩu), minh bạch và áp dụng chung đối với toàn bộ hàng hóa nhập khẩu.
Mức độ hạn chế nhập khẩu không được vượt quá mức cần thiết để giải quyết bất cập về
BOP.

Đối với các vấn đề về BOP, WTO hợp tác chặt chẽ với IMF. Theo Điều XV: 2 của
GATT 1994, WTO “sẽ chấp nhận kết quả phân tích số liệu và thực tiễn do Quỹ đưa ra
liên quan đến tỷ giá ngoại hối, dự trữ tiền tệ và cán cân thanh toán, và sẽ chấp nhận kết

luận của Quỹ về việc một nước thành viên thực hiện biện pháp về tỷ giá có phù hợp với

7

Thỏa thuận chung của Quỹ Tiền tệ Quốc tế hay không…” WTO chấp nhận kết luận của
IMF về nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng dự trữ quốc tế, về việc xác định
mức dự trữ tiền tệ bị coi là quá thấp hoặc tỷ lệ tăng dự trữ tiền tệ hợp lý, và các khía cạnh
tài chính khác được thảo luận trong hoạt động tham vấn trong những trường hợp này”.
Nhìn chung, dự trữ tiền tệ cần phải đủ mức để đáp ứng yêu cầu tối thiểu là 3 tháng nhập
khẩu. Tùy điều kiện từng nước, mức dự trữ cần thiết có thể khác nhau tùy thuộc vào các
điều kiện đặc biệt.

Các thành viên vận dụng các điều khoản về BOP phải thực hiện thông báo biện pháp hạn
chế nhập khẩu được áp dụng và tham vấn với Ủy ban BOP của WTO theo đúng quy định
chi tiết của GATT/WTO. Ủy ban này sẽ rà soát hiện trạng và triển vọng BOP của nước
đề nghị, xem xét các biện pháp khác có thể giúp phục hồi sự cân đối, hệ thống và phương
pháp luận của biện pháp cũng như tác động của biện pháp hạn chế. IMF, Ban Thư ký
WTO và nước tham gia tham vấn sẽ chịu trách nhiệm chuẩn bị tài liệu cần thiết. Ủy ban
đưa ra kết luận và khuyến nghị nhằm mục đích đảm bảo và nâng cao tính thực thi của các
quy định về BOP của WTO. Ủy ban chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng. Nếu
không thống nhất được ý kiến trong nội bộ Ủy ban, thì báo cáo nộp lên có thể bao gồm
các quan điểm khác nhau. Các thành viên có thể vận dụng quy định về giải quyết tranh
chấp của WTO để đưa ra quyết định cuối cùng như đã từng xảy ra trong trường hợp liên
quan đến Ấn Độ và Hoa Kỳ, trong đó Ấn Độ từ chối xóa bỏ biện pháp hạn chế nhập khẩu
vì lý do BOP. Ấn Độ thua kiện trong vụ này và cuối cùng phải xóa bỏ biện pháp hạn chế.

Tham vấn tại Ủy ban BOP

Kể từ đầu thập niên 70, sau sự sụp đổ của hệ thống tỷ giá cố định, số nước yêu cầu tham
vấn theo quy định về BOP của GATT/WTO đã liên tục giảm xuống. Trong thập ký 60, có

10 nước đang phát triển vận dụng điều khoản BOP của GATT. Trong thập niên 70 và 80,
con số tương ứng chỉ là 3 và 4 nước. Nhưng hầu hết các biện pháp hạn chế nhập khẩu do
các nước này áp dụng được duy trì trong một thời gian dài. Ấn Độ duy trì hạn chế định
lượng vì mục đích BOP trong thời gian 37 năm, Ai Cập 32 năm, Bangladesh 31 năm và
Pakistan là 41 năm.

Năm năm đầu sau khi WTO được thành lập, ngoài các thành viên đã duy trì hạn chế nhập
khẩu trong thời gian dài như trên, tất cả các thành viên có nền kinh tế chuyển đổi đều áp
dụng hạn chế nhập khẩu vì mục đích BOP theo Điều XII GATT 1994. Nhưng tất cả các
nước này đều bị Ủy ban yêu cầu xóa bỏ biện pháp hạn chế và sử dụng các biện pháp kinh
tế vĩ mô để giải quyết bất cập về BOP. Trong giai đoạn 2001-2008, không có cuộc tham
vấn nào về BOP tại Ủy ban BOP. Khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, Ecuador và Ukraine
thông báo về biện pháp hạn chế vì mục đích BOP của mình và tham vấn tại Ủy ban BOP.
Cả Ukraine và Ecuador đều nhận được sự lạnh nhạt của Ủy ban BOP và bị yêu cầu loại
bỏ tất cả các biện pháp hạn chế trong vòng một vài tháng.

Căn cứ kinh nghiệm 14 năm qua của WTO, có thể rút ra kết luận rằng trong khung khổ
WTO, một thành viên tham vấn tại Ủy ban BOP nhận được sự cảm thông ít hơn nhiều so
với những năm GATT còn tồn tại. Các nước áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu
thường được yêu cầu loại bỏ các biện pháp của mình trong thời gian rất ngắn và được
khuyến nghị sử dụng các biện pháp kinh tế vĩ mô để giải quyết bất cập về BOP. Trong
nhiều trường hợp, thành viên bảo lưu quyền của mình theo quy định của WTO với ý
nghĩa như một thông điệp giành cho các nước tham vấn rằng trong trường hợp không
tuân thủ họ sẽ vận dụng quy định về giải quyết tranh chấp. Xu hướng hiện nay như một

8

lời cảnh báo với tất cả các nước đang cân nhắc áp dụng biện pháp hạn chế thương mại
trong khung khổ WTO rằng họ sẽ nhận được rất ít sự thông cảm từ Ủy ban BOP.


CÁC KHUYẾN NGHỊ VỚI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI

Báo cáo đưa ra các kết luận chính như sau:

• Việt Nam hiện nay chưa rơi vào tình trạng “khó khăn về cán cân thanh toán”
hoặc “tình trạng nghiêm trọng về cán cân thanh toán” theo nghĩa nêu trong quy
định của WTO. Vì vậy, với tình hình BOP hiện nay, Việt Nam không nên áp
dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu vì mục đích BOP;

• Trong bối cảnh hiện nay, nếu Việt Nam vận dụng các điều khoản BOP của WTO
và áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu vì mục đích BOP, thì phản ứng từ
các bên tiếp nhận nhiều khả năng sẽ là tiêu cực và Việt Nam có thể bị yêu cầu
xóa bỏ các biện pháp này ngay lập tức, đi kèm với nguy cơ bị vận dụng điều
khoản giải quyết tranh chấp của WTO;

• Việc áp dụng hạn chế nhập khẩu vì mục đích BOP có thể ảnh hưởng xấu tới uy
tín của Việt Nam là một nước có môi trường kinh tế có khả năng đoán định, có
thể ảnh hưởng quan hệ với các đối tác FTA và đối tác thương mại chủ chốt khác,
bao gồm cả các nhà đầu tư nước ngoài, với những hậu quả nghiêm trọng. Tác
động trực tiếp sẽ làm tăng chi phí sản xuất hàng xuất khẩu vì 2/3 giá trị xuất khẩu
là nguyên liệu nhập khẩu;

• Mặc dù tình trạng hiện nay chưa thực sự đáng báo động, nhưng các chuyên gia
khuyến nghị Việt Nam thực hiện cải cách cơ cấu kinh tế và điều chỉnh chính sách
vĩ mô dưới hình thức điều chỉnh chính sách tài khóa và tiền tệ để hạn chế tốc độ
tăng vay nợ nước ngoài, từ đó đảm bảo thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai là
bền vững trong dài hạn. Các chuyên gia cũng khuyến nghị cần tiếp tục tạo ra môi
trường đầu tư hấp dẫn ở Việt Nam để duy trì niềm tin đối vớ
i nền kinh tế Việt
Nam và đảm bảo rằng kiều hối và đầu tư nước ngoài tiếp tục chảy vào các lĩnh

vực sản xuất của nền kinh tế và nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng trong xuất khẩu;

• Giảm hệ số sử dụng hàng nhập khẩu ở Việt nam có thể được thực hiện tốt nhất
thông qua các biện pháp điều chỉnh cung. Từ
khía cạnh này, điểm tích cực đáng
ghi nhận là đang dần hình thành sự dịch chuyển từ công nhiệp gia công, lắp ráp
sang công nghệ cao phục vụ xuất khẩu. Định hướng này có khả năng giải quyết
được sự mất cân đối thương mại trong dài hạn. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng
khuynh hướng tăng đầu tư vào bất động sản cũng đang tăng lên;

• Mở cửa nền kinh tế Việt Nam với thế giới bên ngoài mà đặc biệt là việc gia nhập
WTO và tham gia vào các thỏa thuận thương mại tự do đã làm gia tăng nhập
khẩu. Nếu sự gia tăng nhập khẩu tạo nên bất cập cho nền kinh tế trong nước, Việt
Nam có thể vận dụng các khả năng áp dụng hạn chế nhập khẩu phù hợp với quy
định trong nước và cam kết quốc tế (WTO, FTA và song phương). Sau những
diễn biến về BOP, nếu tình hình BOP trở nên nghiêm trọng, và cần có biện pháp
kịp thời, thì có thể cân nhắc việc áp dụng hạn chế nhập khẩu, nhưng cần ghi nhớ
đây là lựa chọn cuối cùng, vì có thể tạo ra nhiều tác động tiêu cực khi áp dụng
các biện pháp này. Các giải pháp khác giành cho Việt Nam bao gồm:


9

• Sử dụng không gian chính sách của mình dưới hình thức dư địa thuế suất nhập
khẩu chính là phần chênh lệch giữa thuế suất áp dụng hiện hành với mức thuế suất
cam kết trần trong WTO, theo đó có thể nâng thuế áp dụng lên bằng với mức thuế
cam kết trần;

• Cân nhắc áp dụng biện pháp tự vệ trong WTO cũng như quy định về biện pháp tự
vệ trong các FTA;


• Cân nhắc áp dụng biện pháp chống bán phá giá;

• Cân nhắc áp dụng thuế đối kháng theo Hiệp định WTO về Trợ cấp và Thuế Đối
kháng;

• Cân nhắc sử dụng Điều XXVIII GATT 1994 (Sửa đổi Biểu cam kết) để đàm phán
lại cam kết thuế.

10

GIỚI THIỆU

Nằm trong mục tiêu chung “Tăng cường năng lực của BCT trong việc điều phối và thực
hiện các cam kết WTO,” báo cáo của Hoạt động WTO-8 do Dự án Hỗ trợ Thương mại
Đa biên giai đoạn III (EU – Việt Nam MUTRAP III) tài trợ là nghiên cứu các lý do chính
dẫn tới thâm hụt thương mại lớn đối với Việt nam, ảnh hưởng của thâm hụt thương mại
đối với tình hình cán cân thanh toán của quốc gia và làm rõ tác động của gia nhập WTO
và các biện pháp tự do hóa thương mại khác được thực hiện trong vòng mấy năm qua đối
với thâm hụt thương mại ngày càng gia tăng. Nghiên cứu này đưa ra tổng quan về các
quy định liên quan đến BOP của WTO (Điều XII, XV và XVIII:B của GATT 1994) và
xem xét kinh nghiệm hoạt động của Ủy ban BOP của WTO.

Báo cáo này đặt 2 mục tiêu cụ thể bao gồm (1) hỗ trợ Bộ Công Thương phân tích rõ
nguồn gốc kinh tế vĩ mô của tình trạng thâm hụt thương mại quy mô lớn và đề xuất các
biện pháp kinh tế phù hợp để xử lý bất cập và (2) trình bày các biện pháp thuộc chính
sách thương mại cần cân nhắc áp dụng để giảm bớt áp lực từ hiện tượng gia tăng nhập
khẩu do tự do hóa thương mại. Nghiên cứu này có thể hỗ trợ Chính phủ Việt Nam áp
dụng các biện pháp được coi là phù hợp với nghĩa vụ quốc tế và sẽ giúp loại bỏ bất cập
mà không gây ra thiệt hại kinh tế cho đất nước hay sự phản đối từ các đối tác thương mại.


Nghiên cứu phân tích kinh nghiệm trong thập kỷ trước của các thành viên GATT/WTO
khi áp dụng các biện pháp hạn chế thương mại vì mục đích BOP. Điểm đáng chú ý đối
với Việt Nam là kể từ thập kỷ 70, việc vận dụng các điều khoản BOP của GATT/WTO
có xu hướng giảm xuống và Ủy ban BOP trên thực tế đã trở nên nghiêm khắc hơn đối với
các biện pháp hạn chế nhập khẩu vì mục đích BOP. Nội dung phân tích và thông tin nêu
trong nghiên cứu này sẽ giúp các cơ quan chức năng xây dựng chính sách và các biện
pháp thúc đẩy sự chuyển đổi của nền kinh tế Việt Nam theo hướng kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa thực hiện tốt các chức năng, hiểu rõ các quy định và thương mại quốc tế và
áp dụng đúng để giúp đất nước phát triển tiến bộ.

Báo cáo do 2 chuyên gia châu Âu thực hiện với sự giúp đỡ của 4 chuyên gia trong nước
đã cung cấp các quan điểm sâu sắc về nội dung thảo luận cũng như số liệu thống kê cần
thiết.













11



PHẦN I – PHÂN TÍCH CÁN CÂN THANH TOÁN TỪ GÓC ĐỘ KINH TẾ
I.1. GIỚI THIỆU

Từ khi thực hiện cải cách thị trường, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện tự do hóa thương
mại và đầu tư, làm gia tăng sự liên hệ với chu kỳ kinh tế và sự dịch chuyển luồng vốn
quốc tế. Giống như hầu hết các nền kinh tế chuyển đổi khác, việc từng bước tự do hóa
các giao dịch thương mại quốc tế của Việt Nam đã dẫn tới thâm hụt thương mại tăng lên,
dấy lên lo ngại về tính bền vững của chính sách thương mại. Gần đây, mất cân đối
thương mại đang trở nên đáng kể hơn với ảnh hưởng lâu dài đối với cán cân thanh toán
của Việt Nam. Các khoản thâm hụt khác trong tài khoản vãng lai thuộc cán cân thanh
toán đã tác động đáng kể tới dự trữ tiền tệ quốc tế của quốc gia.

Thâm hụt thương mại gia tăng đặt ra những câu hỏi chính trị khó trả lời về sự thành công
của chính sách thương mại được áp dụng ở Việt Nam, bao gồm cả việc tham gia khu vực
mậu dịch tự do ASEAN, ASEAN+, gia nhập WTO vào năm 2007 và cả một số hiệp định
FTA mà Việt Nam đang đàm phán và đang có ý định đàm phán (FTA với Chi Lê, Thụy
Sỹ và Ấn Độ). Cán cân thanh toán xấu đi cũng đặt ra yêu cầu phân tích lại vai trò của
FDI, tác dụng của các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (SBV), việc áp dụng và gói kích cầu từ ngân sách, trong việc củng cố năng lực xuất
khẩu của Việt Nam.

Phần này của báo cáo sẽ tập trung vào các nhân tố vĩ mô và vi mô có vai trò quyết định
đến cán cân thanh toán và đưa ra khuyến nghị đối với các chính sách kinh tế nhằm giải
quyết bất cập trong cán cân thanh toán. Trước khi thực hiện phân tích này, báo cáo giới
thiệu sơ lược về các mục tài khoản trong cán cân thanh toán và tình hình cán cân thanh
toán trong thời gian qua cũng như các phương trình cân bằng trong cán cân thanh toán để
giải thích rõ mối quan hệ cơ bản giữa các giao dịch tiền tệ, ngân sách và quốc tế.
I.2. TỔNG QUAN CÁN CÂN THANH TOÁN Ở VIỆT NAM

I.2.1 Đặc điểm BOP ở Việt Nam

Cán cân thanh toán là hệ thống kế toán ghi chép l
ại các giao dịch quốc tế do một quốc gia
thực hiện với thế giới bên ngoài. Tài khoản vãng lai bao gồm giao dịch thuần về hàng
hóa, dịch vụ, thu nhập và chuyển khoản
3
, còn tài khoản vốn bao gồm đầu tư trực tiếp
nước ngoài thuần, đầu tư gián tiếp thuần và các dòng luân chuyển tài chính khác
4
. Cuối
cùng là sự thay đổi dự trữ quốc tế sẽ cân bằng với cán cân tài khoản vảng lai và tài khoản
vốn
5
(xem Biểu đồ 1-3).






3
Trong trường hợp Việt Nam, thu nhập thuần chỉ bao gồm lợi nhuận chuyển về nước từ hoạt động FDI của công ty mẹ.
Chuyển khoản thuần bao gồm kiều hối chuyển về cho gia đình ở Việt Nam và đầu tư không chính thức qua gia đình
4
Tài khoản vốn là thuật ngữ một số nhà kinh tế học quen gọi theo ý nghĩa bao gồm các luồng vốn. Tuy nhiên, theo
chuẩn mực hạch toán cán cân thanh toán, tài khoản vốn thực chất được gọi là tài khoản tài chính (IMF, 1993).
5
Sai số thuần là mục thể hiện các sai số thống kê và thống kê thiếu. Giá trị sai số thuần trong cán cân thanh toán theo
quý ở Việt Nam là khá lớn do phản ánh không đầy đủ các giao dịch tài chính.

12


Biểu đồ 1. Thành phần Tài khoản Vãng lai Biều đồ 2. Thành phần Tài khoản Vốn










Tài khoản vãng lai được bù đắp bởi một trong hai nguồn là dòng vốn vào (hạch toán dòng
vốn vào dưới tài khoản vốn) hoặc sử dụng dự trữ quốc tế. Theo phương trình cân bằng tài
khoản quốc gia, phần chênh lệch do đầu tư quốc gia vượt mức tiết kiệm sẽ bằng với thâm
hụt tài khoản vãng lai. Nếu đầu tư quốc gia nâng cao được sức cạnh tranh dài hạn trên thị
trường thế giới, thì cán cân tài khoản vãng lai có bị thâm hụt cũng không phải là bất cập.
Trên thực tế, nhiều quốc gia bao gồm cả Hoa Kỳ luôn xảy ra thâm hụt tài khoản vãng lai
trong nhiều thập kỷ mà vẫn không bị coi là đáng báo động, do thâm hụt cán cân vãng lai
được coi là sẽ giúp cải thiện cán cân thương mại của các nước này trong tương lai.

Một góc nhìn khác đối với thâm hụt cán cân vãng lai đó là xem xét mức nhập khẩu vượt
xuất khẩu là nhằm đầu tư cho tương lai, và như vậy thâm hụt được coi là việc sử dụng
trước một phần chi phí cho hiện tại để tăng cường năng lực sản xuất trong nước trong dài
hạn. Để đảm bảo sự cân bằng trong chuyển dịch chi phí trong khung thời gian này, thì giá
trị hiện tại thuần của nghĩa vụ trả nợ không được vượt quá giá trị hiện tại thuần của thặng
dư thương mại trong tương lai
6
. Để đảm bảo đạt được thặng dư thương mại trong tương
lai, cơ cấu hàng nhập khẩu phải tập trung vào hàng hóa phục vụ đầu tư tạo ra năng lực

xuất khẩu mới hoặc bán thành phẩm là những nhân tố đóng góp vào năng lực sản xuất và
sức cạnh tranh trong dài hạn. Như vậy, bản thân thâm hụt thương mại không phải là vấn
đề quan trọng nhất, mà cơ cấu nhập khẩu mới là vấn đề đáng chú ý.


6
Để hiểu thêm chi tiết về nội dung phương pháp phân tích về sự chuyển dịch chi phí, lợi ích của tài khoản vãng lai
trong khung thời gian nhất định, xem thêm Obstfeld và Rogoff (1995, 1996)
Biều đồ 3. Hệ thống Cán cân Thanh toán

13

Cán cân vãng lai của Việt Nam hiện nay đã chuyển từ thặng dư nhỏ ở mức 1,2 tỷ đôla
Mỹ trong 2000 sang thâm
hụt khá lớn ở mức 9,2 tỷ
đôla Mỹ trong năm 2008.
Mặc dù cán cân vãng lai
hình thành xu hướng đi
xuống rất rõ, nhưng giá trị
có biến động khá lớn, trong
đó đột biến xảy ra trong
thời gian Khủng hoảng Tài
chính châu Á 1997
7
(xem
Biểu đồ 4). Đáng chú ý là
kể từ những năm 80 thì Hoa
Kỳ luôn ghi nhận thâm hụt
lớn còn EU thì có sự biến
động mang tính chu kỳ

xung quanh mức 0 của cán
cân vãng lai. Tính chất biến
động lớn của cán cân vãng
lai ở Việt Nam về cơ bản giống các nước các nước ASEAN 5
8
trước khủng hoảng châu
Á, tuy nhiên ASEAN 5 đã giải quyết được vấn đề này kể từ Khủng hoảng Tài chính châu
Á và duy trì thặng dư. Việc chuyển từ thâm hụt sang thặng dư thực ra là kết quả của quá
trình các nước này dịch chuyển dần lên mức giá trị gia tăng cao hơn trong công nghiệp
sản xuất chế tạo và đạt được cải thiện đáng kể về năng suất lao động. Việt Nam thì năm
nào cũng thâm hụt kể từ thập kỷ 1980, chỉ trừ 3 năm nền kinh tế Đông Nam Á đi xuống
nghiêm trọng (1999-2001).

Cán cân tài khoản vãng lai chủ yếu bao gồm cán cân thương mại hàng hóa (thâm
hụt 12,3 tỷ đôla Mỹ năm
2008) và cán cân chuyển
khoản (7,3 tỷ đôla Mỹ), còn
dịch vụ và thu nhập thì
tương đối nhỏ trong tổng
thể cán cân vãng lai (mức
tương ứng là 2,3 tỷ đôla Mỹ
và 2,0 tỷ đôla Mỹ) (xem
Biểu đồ 5). Chuyển khoản
giảm mạnh trong năm
2008, một phần là do khủng
hoảng tài chính toàn cầu,
làm cho kiều hối giảm
xuống
9
. Cán cân thu nhập

phản ánh việc chuyển lợi
nhuận từ hoạt động đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam

7
Như giải thích ở trên, điều này phản ánh việc rút vốn ra đi kèm với cuộc khủng hoảng tài chính và ở mức độ nào đó
tài khoản vãng lai chính là tấm gương phản chiếu tài khoản vốn, nên tình trạng rút vốn đã làm tài khoản vãng lai sụt
giảm mạnh.
8
ASEAN 5 bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thailand
9
Mặc dù trên lý thuyết chuyển khoản chỉ bao gồm kiều hối, nhưng thông thường con số này bao gồm cả đầu tư trực
tiếp nước ngoài không chính thức từ cá nhân bên ngoài thông qua người Việt Nam.

Biểu đồ 5. Diễn biến các cấu phần Tài khoản Vãng lai, 2000-09

-15,000
-10,000
-5,000
0
5,000
10,000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008e 2009f
U
S
$

M
i
l

l
i
o
n
s
Transfers
Services
Income
Goods
Current
Account

Nguồn: IMF (2009) Thống kê Tài chính Quốc tế, 9/2009; IMF (2009) Tham vấn Điều khoản IV
tháng Tư

Biều đồ 4. Diễn biến Tài khoản Vãng lai của Việt Nam và một số
nước, giai đoạn 1980-2014
-15
-10
-5
0
5
10
1980 1985 1990 1995 2000 2005 2010
%

o
f

G

D
P
Vietnam
ASEAN 5
EU
USA
2014

Nguồn: IMF (2009) CSDL Dự báo Kinh tế Thế giới, 4/2009
Ghi chú: Giai đoạn 2009-2014 là số dự báo của Cán bộ IMF

14

và thông thường mục này ở trạng thái thâm hụt, mặc dù mức thâm hụt này đang tăng lên
do tổng lượng vốn đầu tư vào Việt Nam tăng lên qua các năm. Cán cân thương mại dịch
vụ gắn kết chặt chẽ với cán cân thương mại hàng hóa chủ yếu là do các dịch vụ được
thống kê chủ yếu bao gồm vận tải và bảo hiểm, mặc dù các dịch vụ khác như du lịch và
dịch vụ tài chính cũng chiếm tỷ lệ đáng kể
10
. Thương mại hàng hóa là nhân tố chính đóng
góp vào thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, ở mức 12,3 tỷ đôla Mỹ trong năm 2008.

Tài khoản vốn
11
ở Việt Nam thông thường có mức thặng dư nhờ luồng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) chảy
vào khá lớn, đạt đỉnh là 7,8
tỷ đôla Mỹ trong năm 2008.
Do đầu tư trên thế giới nói
chung đều giảm, FDI dự

kiến chỉ đạt được 1/2 mức
nói trên trong năm 2009
(xem Biểu đồ 6). Việt Nam
tiếp cận với vốn vay nợ
ngắn hạn, dưới hình thức
đầu tư gián tiếp, có xu
hướng tăng lên (mặc dù
biến động khá lớn). Tuy
nhiên, niềm tin vào thị
trường Việt Nam bị suy
giảm mạnh trong năm 2008
và luồng vốn gián tiếp giảm mạnh
12
. Số liệu sơ bộ quý 2 năm 2009 cho thấy đầu tư gián
tiếp tiếp tục giảm mạnh, làm cho tài khoản vốn bị thâm hụt. Tác động tổng quát của hiệu
ứng thâm hụt kép tài khoản vãng lai và tài khoản vốn làm cán cân thanh toán tổng thể
tính riêng cho năm 2009 bị thâm hụt, giảm dự trữ quốc tế trong quý 2 năm 2009. Tuy
nhiên, dự báo cả năm tài khoản tài chính sẽ thặng dư mặc dù tài khoản vãng lai thì vẫn
lớn hơn khoản thặng dư này, do vậy dự trữ sẽ giảm đi 2,3 tỷ đôla Mỹ trong năm 2009
(xem Bảng 1).

Mặc dù dự trữ giảm xuống,
tình hình cán cân thanh
toán của Việt Nam vẫn
không bị coi là trầm trọng
bởi một số lý do. Thứ nhất,
nghĩa vụ nợ ngắn hạn của
Việt Nam có thể được thực
hiện. Mức dự trữ hiện nay
cao hơn so với nhiều năm

trước đây đồng thời nghĩa
vụ trả nợ ngắn hạn tương
đối nhỏ, vì vậy xét về ngắn
và trung hạn nhu cầu đối

10
GSO áp dụng hệ số vận tải và bảo hiểm chuẩn đối với thương mại hàng hóa để tính toán giá trị các dịch vụ này, vì
vậy nhập khẩu tăng sẽ làm dịch vụ tăng lên. Thống kê dịch vụ du lịch, bao gồm cả ngành du lịch còn rất kém trong
thống kê cán cân thanh toán của Việt Nam vì vậy cán cân dịch vụ thường được thống kê thấp hơn giá trị thực tế.
11
Thuật ngữ tài khoản vốn là thuật ngữ kinh tế chỉ các mục được ghi chép theo thuật ngữ kế toán như tài khoản tài
chính trong cán cân thanh toán và phản ánh dòng nợ nước ngoài thuần (dòng vốn) vào và ra khỏi Việt Nam.
12
Nhập khẩu vàng tăng mạnh trong đầu năm 2009, cho thấy xu hướng đầu tư vào tài sản an toàn, là tài sản không chịu
rủi ro về sụt giảm tỷ giá của đồng nội tệ.
Biểu đồ 6. Diễn biến Tài khoản Vốn của Việt Nam, 2000-09
-5,000
0
5,000
10,000
15,000
20,000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008e 2009f
U
S
$

M
i
l

l
i
o
n
s
Direct
Portfolio
Other
Financial
Account

Nguồn: IMF (2009) Thống kê Tài chính Quốc tế, 9/ 2009; IMF (2009) Tham vấn Điều khỏan IV,
Tháng Tư

Biểu đồ 7. Diễn biến dự trữ quốc tế của Việt Nam, 2000-09


Nguồn: IMF (2009) Thống kê Tài chính Quốc tế, 9/2009; IMF (2009) Tham vấn Điều IV, tháng 4
Ghi chú: * Tổng dự trữ thể hiện mức dự trữ vào 5/2009


15

với dự trữ quốc tế không lớn. Dự trữ hiện nay lớn hơn so với giai đoạn 2002 và 2006
(xem Biểu đồ 7), đủ lớn để đảm bảo thanh toán 3 tháng nhập khẩu của năm kế tiếp. Mất
cân đối thương mại của Việt Nam cũng đang có những dấu hiệu được cải thiện trong năm
2009.

Luồng vốn quốc tế có khả năng sẽ quay trở lại xu hướng như trước đây khi nền kinh tế
thế giới phục hồi trong năm 2010. Điều quan trọng là Việt Nam phải giành được niềm tin

vào nền kinh tế của mình từ đó hạn chế tối đa hiện tượng rút vốn. Để đạt được điều này,
không chỉ cần ổn định tình hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam mà còn cần đảm bảo môi
trường đầu tư hấp dẫn.

Bảng 1. Tài khoản Cán cân Thanh toán của Việt Nam từ 2000-2009

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008e 2009f

A. Tài khoản vãng lai 1,106 682 -604 -1,931 -957 -560 -164 -6,992 -9,237 -7,318

Cán cân thương mại Hàng
hóa 375 481 -1,054 -2,581 -2,287 -2,439 -2,776 -10,360 -12,283 -7,074
Hàng xuất theo giá FOB 14,448 15,027 16,706 20,149 26,485 32,447 39,826 48,561 62,906 53,167
Hàng nhập theo giá FOB -14,073 -14,546 -17,760 -22,730 -28,772 -34,886 -42,602 -58,921 -75,189 -60,241
Cán cân thương mại Dịch vụ -550 -572 -750 -778 872 -296 -8 -894 -2,315 -1,858
Dịch vụ: Có 2,702 2,810 2,948 3,272 3,867 4,176 5,100 6,030 6,300 5,500
Dịch vụ: Nợ -3,252 -3,382 -3,698 -4,050 -4,739 -4,472 -5,108 -6,924 -8,615 -7,358
Cán cân Thu nhập -451 -477 -721 -811 -891 -1,205 -1,429 -2,168 -1,969 -2,486
Thu nhập: Có 331 318 167 125 188 364 668 1,093 1,068 364
Thu nhập: Nợ -782 -795 -888 -936 -1,079 -1,569 -2,097 -3,261 -3,037 -2,850
Cán cân Chuyển khoản 1,732 1,250 1,921 2,239 3,093 3,380 4,049 6,430 7,330 4,100
Chuyển khoản: Có 1,732 1,250 1,921 2,239 3,093 3,380 4,049 6,430 7,330 4,100
Chuyển khoản: Nợ

B. Tài khoản Vốn


Tài khoản Vốn: Có
Tài khoản Vốn: Nợ


C. Tài khoản Tài chính -316 371 2,090 3,279 2,807 3,087 3,088 17,540 9,175 5,024

Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài
không

không

không

không

không
có -65 -85 -150
không

không

Đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam 1,298 1,300 1,400 1,450 1,610 1,954 2,400 6,700
không

không

Đầu tư trực tiếp ròng 1,298 1,300 1,400 1,450 1,610 1,889 2,315 6,550 7,800 4,000
Đầu tư gián tiếp ra nước
ngoài
Cổ phiếu
Các công cụ nợ
Đầu tư gián tiếp vào Việt

Nam
không

không

không

không

không
có 865 1,313 6,243 -400 0
Cổ phiếu
không

không

không

không

không
có 115 1313 6243 -400 0
Các công cụ nợ
không

không

không

không


không
có 750
không

không

không

không

Đầu tư vào sản phẩm tài
chính phái sinh
Đầu tư vào sản phẩm tài
chính phái sinh ra nước
ngoài
Đầu tư vào sản phẩm tài
chính phái sinh tại Việt Nam
Các tài sản đầu tư khác ra
nước ngoài -2,089 1,197 624 1,372 35 -634 -1,535 2,623
không

không

Cơ quan quản lý tiền tệ
Chính phủ
Ngân hàng -2,089 -1,197 624 1,372 35 -634 -1,535 2,623
không

không


Các ngành khác

16

Các tài sản đầu tư khác vào
Việt Nam 475 268 66 457 1,162 967 995 2,124
không

không

Cơ quan quản lý tiền tệ
Chính phủ
Ngân hàng
Các ngành khác 475 268 66 457 1,162 967 995 2,124
không

không

Tổng, từ Nhóm A đến C 790 1,053 1,486 1,348 1,850 2,527 2,924 10,548
không

không


Điều chỉnh do sai sót -680 -847 -1,038 798 -915 -397 1,400 -342 -100 0

Cán cân tổng thể 110 206 448 2,146 935 2,130 4,324 10,206 -162 -2,295

E. Dự trữ và hạng mục liên

quan -110 -206 -448 -2,146 -935 -2,130 -4,324 -10,206 162 2,295
Nguồn: Tác giả và số liệu 1998-2007: IMF Thống kê Tài chính Quốc tế, 9/2009; số liệu 2008-09: IMF
Tham vấn Điều khoản IV, tháng Tư năm 2009
*: tháng 5/2009

I.2.2 Diễn biến cán cân thương mại
Như đề cập ở trên, cán cân thương mại hàng hoá là cấu phần thâm hụt lớn nhất, đã tăng
lên mức cao nhất kể từ 2007. Cho đến năm 2006, mức thâm hụt lớn nhất dừng ở mức 2,8
tỷ đôla Mỹ. Con số này tăng lên 10,4 tỷ đôla Mỹ năm 2007 và 12,3 tỷ đôla Mỹ năm 2008.
10 tháng năm 2009 đã nhập siêu 8,78 tỷ. Dự kiến năm 2009 mức thâm hụt này lên trên 10
tỷ, thấp hơn so vơi năm 2008. Cán cân thương mại thâm hụt tăng lên mặc dù kim ngạch
xuất khẩu tăng nhanh, với mức tăng trung bình hàng năm là 15,6% trong suốt giai đoạn
2000-2009.

Biểu đồ 8 thể hiện rõ thương mại hàng hoá quốc tế của Việt Nam đã tăng lên nhanh
chóng. Cả nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng nhanh chính là kết quả của cải cách thị
trường được Việt Nam thực
hiện từ giữa thập kỷ 90, thể
hiện thông qua ký kết các
hiệp định thương mại song
phương với các đối tác khu
vực, gia nhập WTO, sức
cạnh tranh hàng xuất khẩu
tăng lên, đầu tư trực tiếp
nước ngoài chảy vào ở mức
cao, nhập khẩu máy móc và
công nghệ từ nước ngoài và
các dự án cơ sở hạ tầng quy
mô lớn đòi hỏi nhiều cấu
phần phải nhập khẩu. Gần

đây, cơ cấu nhập khẩu đã
bắt đầu xuất hiện một số
mặt hàng tiêu dùng xa xỉ như ôtô, mặc dù tỷ trọng những mặt hàng này còn khá nhỏ trong
tổng kim ngạch nhập khẩu.

Như đã minh họa, hệ số đồng biến giữa xuất khẩu và nhập khẩu đã lên tới 99.7%
13
. Điều
này chứng tỏ cơ cấu đầu tư của Việt Nam chưa thực sự mang lại giá trị gia tăng, với
lượng đầu tư ít ỏi vào các lĩnh vực hỗ trợ phát triển các ngành phụ trợ hoặc dây chuyền

13
Hệ số này là hệ số đồng biến Pearson dùng để xác định chiều và mức độ của mối quan hệ tuyến tính giữa hai biến số
nhập khẩu và xuất khẩu – con số này là do chuyên gia tính.

Biểu đồ 8. Diễn biến cán cân thương mại hàng hoá, 2000-09
‐100,000
‐80,000
‐60,000
‐40,000
‐20,000
0
20,000
40,000
60,000
80,000
2000 20 01 2002 2003 2004 200 5 2006 2007 2008e 2009f
U
S
$


M
i
l
l
i
o
n
s
BalanceoftradeinGoods Goods:exportsf.o.b Goods:importsf.o.b

Nguồn: IMF (2009) Thống kê Tài chính Quốc tế, 9/2009; IMF (2009) Tham vấn Điều khoản IV,
tháng 4

17

sản xuất sử dụng nhiều đầu vào nội địa. Chính vì tỷ trọng nhập khẩu trong sản xuất xuất
khẩu rất cao, nên mọi biện pháp làm tăng chi phí của hàng nhập khẩu sẽ giúp hạn chế nhu
cầu nhập khẩu nhưng cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng xuất khẩu của Việt Nam.

Ngoài ra, vì Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, nhu cầu đối với công nghệ và máy
móc hiện còn rất cao và cần phải nhập khẩu từ nước ngoài. Dòng vốn FDI đầu những
năm 2000 tập trung vào các ngành sản xuất phục vụ thị trường trong nước đã tạo ra nhu
cầu nhập khẩu để đầu tư trong khi không tạo ra tiềm năng xuất khẩu. Kể từ giữa những
năm 2000, FDI tập trung vào công nghiệp chế tạo phục vụ xuất khẩu, làm gia tăng cả
nhập khẩu (nhập đầu vào nguyên liệu, bán thành phẩm và máy móc thiết bị) lẫn xuất
khẩu. Trong một vài năm gần đây, FDI có dấu hiệu tập trung nhiều hơn vào xây dựng, du
lịch và thị trường bất động sản, làm tăng thêm nhu cầu nhập khẩu vật liệu xây dựng và
máy móc công nghiệp nặng, đồng thời chỉ tạo ra chút ít lợi thế cho tăng xuất kh
ẩu mà

thôi. Các dự án cơ sở hạ tầng lớn của khu vực tư nhân và nhà nước, ví dụ như nâng cấp
cảng hoặc đầu tư cơ sở hạ tầng là đường xá, nhiều khả năng sẽ làm gia tăng thâm hụt
thương mại nhưng sẽ gián tiếp nâng cao năng lực xuất khẩu trong tương lai.

Một vấn đề khác thường được các nhà làm chính sách coi là nguyên nhân làm cán cân
thương mại xấu đi
đó chính là chính sách giảm thuế nhập khẩu, đã được thực hiện theo
các cam kết trong thoả thuận thương mại khu vực và trong WTO. Một vài nghiên cứu
kinh tế đã được thực hiện nhằm xác định tác động của tự do hoá thương mại đối với cán
cân thương mại và cho những kết quả tương đối khác nhau
14
. Trong trường hợp Việt
Nam, tác động của không chỉ tự do hóa thương mại mà cả của các yếu tố khác như làn
sóng đầu tư, càng làm cho thâm hụt thương mại tăng lên.
Có một số bất cập mang tính chất cơ cấu tồn tại đằng sau sự mất cân đối thương mại của
Việt Nam khởi nguồn từ sự hạn chế về năng lực xuất khẩu cũng như sử dụng nhập khẩu.
Xuất khẩu có những khiếm khuyết nhất định làm hạn chế khả năng gia tăng xuất khẩu
nhanh hơn so với nhập khẩu, đó là:

• Việt Nam chưa thực sự hội nhập hoàn toàn vào chuỗi giá trị trong khu vực và chỉ
đóng vai trò là nơi thực hiện hoạt động lắp ráp cho các tập đoàn đa quốc gia chứ
ch
ưa trở thành cơ sở sản xuất với giá trị gia tăng cao.
• Tỷ lệ nhập khẩu là cấu phần trong xuất khẩu còn rất cao, chiếm khoảng 2/3 giá
xuất xưởng.
• Hàng hoá xuất khẩu chưa đa dạng, tập trung vào một số ngành hàng như dầu thô,
dệt may, thuỷ sản, nông sản và giày dép. Do vậy, Việt Nam dễ chịu ảnh hưởng
tiêu cực khi có sự biến động lớn về giá hàng hoá cũng như biến động trong nhu
cầu ở thị trường nước ngoài.
• Khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế tại các nước phát triển làm

thu hẹp nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam dẫn đến sự sụt giảm lớn
trong năm 2009.
• Mặc dù đồng đôla Mỹ mất giá đôi chút vào giữa năm 2009 đã giúp làm dịu tính
thiếu cạnh tranh đ
i kèm với tỷ giá thực tăng lên, nhưng tỷ giá thực hiện nay vẫn
còn được định giá cao.


14
Santos &Thirwall (2004) cho thấy tự do hoá thương mại có tác động tiêu cực đối với cán cân thương mại, trong khi
Wu & Zeng (2008) cho thấy sự đồng biến giữa hai hiện tượng này thấp hơn nhiều, mặc dù nghiên cứu của họ đưa ra kết
luận là tự do hoá thương mại làm tăng giá trị tuyệt đối của cả nhập khẩu và xuất khẩu.

18

Từ góc độ nhập khẩu, có một số yếu điểm trong nhu cầu trong nước dẫn tới sự phụ thuộc
đáng kể vào nhập khẩu. Cụ thể:

• Như đề cập ở trên, tỷ lệ nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu ở mức khá cao dẫn
tới thực tế là nếu xuất khẩu muốn tăng lên thì nhất thiết nhập khẩu sẽ tăng.
• Thu nhập ở Việt Nam tăng lên sẽ tạo thêm nhu cầu đối với hàng tiêu dùng và xa
xỉ phẩm.
• Nền kinh tế quá nóng, đầu cơ bất động sản và các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn
chính là mầm mống dẫn tới nhập khẩu gia tăng vượt mức yêu cầu phục vụ cho sản
xuất trong những năm gần đây.
• Sự biến động trong giá hàng hoá thế giới dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hoá, nên
nhiều hàng hoá được nhập khẩu để tích trữ trước khi giá tăng.
• Dự đoán đồng tiền Việt Nam sẽ mất giá làm gia tăng đột biến vàng nhập khẩu
trong năm 2007, 2008 và 2009 vì vàng được coi là tài sản đầu tư an toàn.
• Việc áp dụng các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại và nâng cao các dịch vụ

hỗ trợ thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất khẩu nhưng cũng đồng
thời thúc đẩy cả hoạt động nhập khẩu.
• Áp dụng thuế nhập khẩu thấp hơn đối với thương mại hàng hoá theo FTA trong
nội khối ASEAN (AFTA), FTA giữa ASEAN với Trung Quốc (ACFTA), và việc
gia nhập WTO trong 2007, làm cho hàng nhập khẩu trở nên rẻ đi tương đối so với
các sản phẩm trong nước và phù hợp hơn với túi tiền của dân chúng nên đã tạo ra
tỷ lệ tiêu dùng hàng nhập khẩu cao hơn.




19

I.3. SỰ BỀN VỮNG VÀ VẤN ĐỀ MANG TÍNH CƠ CẤU CỦA BOP

Như đã đề cập trong mục I.2.1 ở trên, vay mượn vốn nước ngoài để đáp ứng yêu cầu tăng
mức đầu tư trong nước nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong tương lai của Việt Nam là
một mục tiêu phát triển tích cực. Việt Nam cần nguồn lực con người và vốn cao hơn nữa
để cạnh tranh trên thị trường thế giới với các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, ví dụ
như sản phẩm điện từ.

Đồng thời, Việt Nam vẫn là nền kinh tế chuyển đổi có thu nhập tương đối thấp cần phải
đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng và con người để nâng tỷ lệ giá trị gia tăng trong dài hạn. Cần
đầu tư vào bệnh viện, trường học, dạy nghề, phát triển hành lang giao thông và dịch vụ
hỗ trợ ở Việt Nam, giảm bớt chi phí dịch vụ tiện ích và viễn thông, củng cố môi trường
kinh doanh và tăng cường trình độ các trung tâm nghiên cứu phát triển ở Việt Nam. Quy
mô nền kinh tế còn nhỏ nên tổng tiết kiệm trong nước còn thấp khó có thể đủ để đáp ứng
nhu cầu vốn của các dự án đầu tư này. Vì vậy, cần thu hút đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ
để có nguồn đáp ứng nhu cầu vốn của các dự án này. Quá trình này tất yếu sẽ làm cán cân
vãng lai bị thâm hụt.


Cán cân thanh toán về cơ bản vẫn bền vững trong dài hạn nếu Việt Nam có đủ khả năng
tạo ra thặng dư thương mại trong tương lai để tạo ra tích luỹ dự trữ ngoại hối dùng để trả
nợ nước ngoài. Muốn đảm bảo được yêu cầu này Việt Nam sẽ phải đảm bảo thực hiện tốt
các quyết định đầu tư và sử dụng khôn ngoan nguồn vốn nợ nước ngoài.

Trong ngắn hạn, cán cân thanh toán sẽ trở nên không bền vững nếu Việt Nam rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ hay không đủ ngoại tệ để thanh toán cho
hoạt động nhập khẩu vì dự trữ quốc tế có thể rơi xuống mức quá thấp. Mức dự trữ quốc tế
được coi là thấp khi chỉ đủ 3 tháng nhập khẩu, tuy nhiên Việt Nam đã từng có mức dự trữ
thấp hơn so với mức này mà vẫn không gặp khó khăn cán cân thanh toán do nợ nước
ngoài được giữ ở mức thấp.

Về ngắn hạn, Việt Nam sẽ chưa rơi vào tình trạng báo động, và xác suất mất khả năng
thanh toán các khoản nợ hoặc rơi vào khủng hoảng nhập khẩu do khủng hoảng ngoại tệ là
thấp và xa vời. Việt Nam đã chứng kiến mức độ rút vốn nhất định do nền kinh tế quá
nóng và lạm phát cao dẫn đến giảm giá trị tiền đồng trong năm 2008 và khủng hoảng tài
chính toàn cầu ảnh hưởng đến nhu cầu và đầu tư nước ngoài giảm xuống. Tuy nhiên, theo
IMF, Việt Nam dự kiến sẽ vẫn tăng trưởng ở mức 5% trong năm 2009.

Việt Nam sẽ không rơi vào tình trạng báo động vì các điều kiện sau vẫn tiếp tục được bảo
đảm trong năm 2009 và 2010:

• Thâm hụt cán cân vãng lai hiện nay thấp hơn năm 2008 do nhập khẩu giảm mạnh
hơn so với xuất khẩu. Ngoài ra, nhu cầu tại các nền kinh tế phát triển dự kiến sẽ
phục hồi trở lại kể từ 2010, nên nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ
tăng lên
15
.
• Yêu cầu thanh toán trả nợ tương đối nhỏ và sẽ không làm giảm dự trữ quốc tế một

cách đáng kể.


15
Xuất khẩu của các nước đang phát triển và trỗi dậy sẽ tăng khoảng 4,7% trong năm 2009, so với mức suy
giảm 9,7% trong năm 2008 (Báo cáo về Triển vọng Kinh tế Thế giới năm 2009 của IMF, theo Khảo sát
Kinh tế Tài chính Thế giới, số tháng 10, Bảng A9).

20

• FDI cơ bản vẫn tốt dù rằng có giảm xuống trong 2009. Dự kiến FDI sẽ tăng trở lại
kể từ 2010.
• Mức dự trữ đạt 3 tháng nhập khẩu dự kiến sẽ được cải thiện trong năm 2010, nếu
Việt Nam khai thác có hiệu quả Hiệp định EPA Việt Nam-Nhật Bản, và thị
trường các nước ASEAN 5 và Trung Quốc, vì các nước này từ năm 2010 sẽ phải
đưa thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN xuống 0% ở khoảng 90% số dòng thuế.
Nếu không tận dụng được cơ hội này, thì trong năm 2010 điều kiện để cải thiện
cán cân thương mại là không nhiều, vì theo dự báo của IMF (tháng 10 năm 2009
nhu cầu nhập khẩu của các nền kinh tế phát triển chỉ tăng 1,5%.

Tuy vậy, một số điểm yếu trong cán cân thanh toán hiện nay cần
được quan tâm giải
quyết. Bao gồm:

• Gần đây, FDI tập trung vào các lĩnh vực phi sản xuất của nền kinh tế có thể dẫn
tới hậu quả là cán cân thương mại không được cải thiện.
• Sự phụ thuộc vào nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam cần được
giải quyết trong dài hạn để đảm bảo cán cân tài khoản vãng lai sẽ
chuyển sang
thặng dư trong tương lai.

• Gói kích cầu từ ngân sách đã đạt tới mức 6,8% GDP ở Việt Nam trong năm 2009
sẽ làm gia tăng thâm hụt thương mại nhưng cũng sẽ ngăn chặn được suy giảm
tăng trưởng và không chịu sức ép giảm phát bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Tuy vậy, thâm hụt ngân sách phải đảm bảo tính bền vững trong dài hạn.
• Đồng Việt Nam được dự báo sẽ mất giá, và vào cuối năm 2008, tỷ giá thực đã
tăng lên. Sự giảm giá tiền đồng có thể dẫn tới hậu quả là nghĩa vụ nợ trở nên cao
hơn (các khoản nợ bằng đồng đôla Mỹ), làm tăng giá tương đối của hàng nhập
khẩu (do đó làm cho giá xuất khẩu tăng lên vì xuất khẩu được cấu thành với tỷ lệ
cao là nguyên liệu nhập khẩu), và có thể dẫn tới việc dòng đầu tư gián tiếp đảo
chiều.
• Các biện pháp bảo hộ đang gia tăng ở nước thứ ba sẽ hạn chế tiềm năng xuất khẩu
của Việt Nam và cần được theo dõi thật sâu sát.

I.4. ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP CHÍNH SÁCH

Khó khăn về cán cân thanh toán ở Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc từ cơ cấu kinh tế (là
hệ quả của cơ cấu đầu tư) và các điều kiện kinh tế vĩ mô. Vì vậy, tái cấu trúc nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô chính là các giải
pháp phù hợp nhất để đối phó tời tình trạng hiện nay hơn là các công cụ chính sách
thương mại, mặc dù công cụ chính sách thương mại có thể dùng để giải quyết khó khăn
của một số ngành nghề cụ thể. Các biện pháp được đề xuất dưới đây để đối phó với khó
khăn cán cân thanh toán được phân loại theo tính chất của vấn đề bất cập là ngắn hạn hay
dài hạn.

I.4.1. Đề xuất biện pháp ngắn hạn
Công cụ kinh tế vĩ mô có thể sử dụng để điều chỉnh sự mất cân đối bên ngoài thông qua 2
kênh chính, đó là áp dụng chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ:

• Thắt chặt tài khoá hoặc tiền tệ có thể sử dụng để giảm tiêu dùng trong nước, từ đó
sẽ giúp giảm nhu cầu đối với hàng nhập khẩu. Hiện tại Việt Nam đang nới lỏng

tiền tệ (thông qua chương trình hỗ trợ lãi suất) và mở rộng tài khoá (thông qua gói

21

kích cầu từ ngân sách nhà nước). Cả 2 nhóm chính sách này đều làm cán cân
thanh toán của Việt Nam trở nên xấu hơn.
• Chính phủ có thể khuyến khích người tiêu dùng thay đổi cơ cấu chi tiêu theo đó
ưu tiên tiêu dùng các mặt hàng trong nước, giảm tiêu dùng nhập khẩu thông qua
giảm tỷ giá thực của đồng nội tệ. Đồng nội tệ giảm giá sẽ có tác dụng làm cho giá
các hàng hoá sản xuất trong nước trở nên rẻ hơn so với hàng hoá nước ngoài.

Một cách khác để giải quyết bất cập cán cân tài khoản vãng lai đó là giảm nhu cầu nhập
khẩu thông qua tăng thuế nhập khẩu. Trong khung khổ WTO, thành viên được phép tăng
thuế nhập khẩu lên tới mức cam kết trần. Trong trường hợp của Việt Nam, dư địa thuế
suất (phần chênh lệch giữa
thuế suất cam kết trần với
thuế suất áp dụng) là tương
đối đáng kể và có thể sử
dụng như một chiếc phanh
để hãm bớt đà gia tăng
nhập khẩu. Biểu đồ 9 cho
thấy còn dư địa thuế suất
nhập khẩu trong nhiều
ngành khác nhau. Không
gian chính sách còn tương
đối rộng với Việt Nam
trong các ngành thiết bị vận
tải, đồ uồng và thuốc lá và
thực phẩm chế biến. Việt
Nam cũng có thể vận dụng

các biện pháp hạn chế nhập khẩu trên cơ sở khó khăn về cán cân thanh toán theo các điều
kiện chặt chẽ, sẽ được nêu tại Phần II của nghiên cứu này. Tuy nhiên, việc áp dụng thuế
suất cao hơn trong khung cam kết được phép hoặc áp dụng các biện pháp hạn chế nhập
khẩu trên cơ sở điều kiện khó khăn về cán cân thanh toán sẽ đi kèm với các ảnh hưởng
tiêu cực lâu dài cho Việt Nam. Tác động của các lựa chọn chính sách này bao gồm (i) ảnh
hưởng tới kết quả xuất khẩu vì xuất khẩu phụ thuộc khá chặt chẽ vào nhập khẩu; (ii) làm
tăng cán cân thương mại nếu hệ số co giãn của nhập khẩu nhỏ hơn 1; (iii) ảnh hưởng đến
lợi ích của người tiêu dùng vì chi phí tiêu dùng tăng lên; (iv) làm môi trường kinh doanh
ở Việt Nam bị giảm khả năng đoán định do thay đổi chính sách, và có thể ảnh hưở
ng đến
đầu tư trực tiếp nước ngoài; (v) giảm niềm tin của các nhà đầu tư đặt vào Việt Nam nếu
việc áp dụng các biện pháp bảo hộ bị các nhà đầu tư coi là tín hiệu của khủng hoảng.
Ngoài ra, sử dụng phụ thu nhập khẩu cũng có tác dụng giống như phá giá đồng tiền trong
cắt giảm nhập khẩu, nhưng biện pháp này sẽ không đạt được lợi ích cho hoạt động xuất
khẩu.

Cho đến nay, Việt Nam mới áp dụng một số biện pháp bảo hộ kể từ khi khủng hoảng tài
chính toàn cầu bắt đầu. Trong giai đoạn tháng 3-4/2009, Việt Nam đã áp dụng các biện
pháp tăng thuế sau đây:

• Tăng thuế nhập khẩu với 15 sản phẩm sữa.
• Tăng thuế nhập khẩu với thịt và gia cầm (từ 17% lên 33%), thịt bò đ
ông lạnh (từ
17% lên 20%) và thịt lợn tươi (từ 24% lên 28%).
• Tăng thuế nhập khẩu đối với thép và các sản phẩm thép bán thành phẩm (từ 5%
lên 8%); sản phẩm thép dùng trong xây dựng (từ 12% lên 15%); thép tấm và thép
ống cán nguội (từ 7% lên 8%); tấm và ống bọc thép (từ 12% lên 13%).
Biểu đồ 9. Dư địa thuế suất nhập khẩu trong một số ngành trong năm 2009

Nguồn: WTO/ITC (2008) Số liệu Thuế Nhập khẩu Thế giới 2008, Geneva


22

• Tăng thuế nhập khẩu đối với thép hợp kim từ 0% lên 10%.

Các chuyên gia làm báo cáo này khuyến nghị nên hạn chế áp dụng các biện pháp bảo hộ
mới và chỉ áp dụng các biện pháp chọn lọc khi thực sự cần thiết. Việc này có thể thực
hiện thông qua thuế suất áp dụng hoặc áp dụng các biện pháp tự vệ, trợ cấp hoặc biện
pháp đối kháng theo đúng các điều kiện do WTO quy định.

I.4.2. Đề xuất biện pháp dài hạn
Để giải quyết bất cập mang tính cơ cấu trong dài hạn, báo cáo khuyến nghị Việt Nam tập
trung vào nâng cao triển vọng cán cân thanh toán của mình dựa trên các gợi ý sau đây:
• Đánh giá kỹ lưỡng lợi ích từ các FTA mà Việt Nam dự kiến sẽ ký với các nước
khác để đảm bảo thu được lợi ích thực sự từ các FTA này và đảm bảo không làm
gia tăng đột biến nhập khẩu thuần. Điều này là vô cùng quan trọng đối với các
FTA như ASEAN-Trung Quốc, ASEAN- Hàn Quốc (AKFTA) và ASEAN-Nhật
Bản (AJFTA), nhất là các FTA mà Việt Nam dự kiến sẽ tham gia.
• Tìm cách nâng cao giá trị gia tăng trong hoạt động sản xuất ở Việt Nam và đa
dạng hoá diện mặt hàng xuất khẩu nhằm giảm tác động tiêu cực từ biến động giá
hàng hoá và thay đổi nhu cầu trên thị trường thế giới.
• Giải quyết sự mất cân đối kinh tế vĩ mô bằng cách điều chỉnh mức thâm hụt ngân
sách và củng cố chính sách tiền tệ vững mạnh.
• Tiếp tục củng cố các dịch vụ hỗ trợ trong nước, nâng cao các biện pháp tạo thuận
lợi cho thương mại, phát triển hơn nữa mạng lưới vận tải và dịch vụ hỗ trợ và tiếp
tục cải cách thể chế và thủ tục hành chính để giảm chi phí giao dịch nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
• Duy trì môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh
tranh của Việt Nam.
• Nâng cao năng lực vốn con người ở Việt Nam thông qua đầu tư giáo dục vì nguồn

vốn con người là yếu tố then chốt để thúc đẩy các hoạt động có giá trị gia tăng cao
ở Việt Nam.
• Giảm thiểu tình trạng buôn lậu qua đường biên giới của Việt Nam và nâng cao
công tác giám sát, quản lý chất lượng hàng hoá nhập khẩu cũng như theo dõi sát
sao hoạt động phá giá.
• Giám sát và vận động việc xoá bỏ các biện pháp bảo hộ hoặc hình thức bảo hộ trá
hình do các nước G-20 áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam
16
.






16
Xem Evenett (2009)

23

PHẦN II – KHUNG KHỔ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI
II.1. QUY ĐỊNH VỀ BOP CỦA WTO LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA

II.1.1 Ngoại lệ BOP trong hệ thống GATT/WTO
Cơ sở lý luận của hệ thống GATT/WTO được xây dựng dựa trên nguyên tắc thương mại
tự do hơn sẽ đem lại lợi ích chung về kinh tế và xã hội cho mọi thành viên. Vì vậy, quy
định của WTO tạo lập nên một hệ thống xác lập nghĩa vụ với các thành viên, đòi hỏi họ
tự do hoá thể chế thương mại và ngăn chặn việc áp dụng các biện pháp hạn chế thương
mại mới. Tuy nhiên, hệ thống cũng cho phép nhiều ngoại lệ để các chính phủ có thể áp
dụng các biện pháp hoặc quy định pháp luật mang tính chất hạn chế thương mại nhưng

với mục tiêu đạt được các lợi ích và giá trị xã hội khác nhau. WTO ghi nhận một số
trường hợp đặc biệt, dưới hình thức quy định ngoại lệ, theo đó các biện pháp hoặc văn
bản pháp luật quy định hạn chế thương mại được chấp nhận, nếu thoả mãn các điều kiện
đặt ra. Các ngoại lệ cơ bản bao gồm:

• Các ngoại lệ chung tại Điều XX GATT 1994 và Điều XIV GATS;
• Ngoại lệ về an ninh tại Điều XXI GATT 1994 và Điều XIV bis GATS;
• Ngoại lệ về tình trạng kinh tế khẩn cấp tại Điều XIX GATT 1994 và Hiệp định
Tự vệ;
• Ngoại lệ về hội nhập khu vực tại Điều XXIV GATT 1994 và Điều V GATS;
• Ngoại lệ về phát triển kinh tế tại Điều XVIII:A GATT 1994 và “Điều khoản tạo
thuận lợi”, và
• Ngoại lệ về cán cân thanh toán (BOP) tại Điều XII và XVIII:B GATT 1994 và
Điều XII GATS.

Theo quy định ngoại lệ về BOP, khi gặp tình trạng bất cập về BOP, các thành viên WTO
được phép áp dụng các biện pháp hạn chế thương mại vốn bị cấm áp dụng trong điều
kiện bình thường.

Cần lưu ý là ngoại lệ BOP chỉ được sử dụng khi tình hình tài chính đối ngoại và cán cân
thanh toán của một nước rơi vào tình trạng nghiêm trọng. Vì vậy, không thể vận dụng
quy định BOP của WTO cũng như không thể áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu
nếu thâm hụt chỉ xảy ra với một bộ phận của cán cân thanh toán, ví dụ như chỉ thâm hụt
cán cân thương mại, trong khi tình hình tài chính đối ngoại của quốc gia vẫn ổn định.

Điểm đáng lưu ý là kể từ khi hệ thống tỷ giá linh hoạt được áp dụng kể từ thập kỷ 70, thì
lý do kinh tế biện minh cho việc áp dụng ngoại lệ BOP bị công kích mạnh hơn. Lập luận
chính chống lại việc vận dụng quy định BOP của GATT/WTO là trong điều kiện gặp khó
khăn về BOP thì cần thực hiện các biện pháp chính sách kinh tế và tỷ giá chứ không phải
là các biện pháp chính sách thương mại.


II.1.2 Quy định BOP áp dụng với các thành viên phát triển (Điều XII GATT 1994)
Điều XI GATT 1994 xác lập quy định chung không cho phép áp dụng các biện pháp hạn
chế định lượng đối với thương mại. Điều XII quy định về ngoại lệ BOP đối với các thành
viên phát triển theo nguyên tắc đã được xác lập tại Điều XI. Theo quy định này, bất cứ
thành viên nào “Không trái với quy định tại đoạn 1 Điều XI… nhằm bảo vệ an toàn cho

24

tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán của mình, có thể hạn chế số lượng hoặc giá trị
hàng hoá được phép nhập khẩu” nếu thoả mãn các điều kiện nêu cụ thể tại điều này.

Đoạn 2 (a). Điều XII quy định rằng các biện pháp hạn chế nhập khẩu ban hành mới, duy
trì hay mở rộng “sẽ không vượt quá mức cần thiết: (i) để ngăn ngừa mối đe dọa hay để
ngăn chặn sự suy giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại hối, hoặc (ii) trong trường hợp một bên
ký kết có dự trữ ngoại hối rất thấp, để nâng dự trữ ngoại hối lên một mức hợp lý.” Đoạn 2
(b) quy định các thành viên áp dụng biện pháp hạn chế “sẽ nới lỏng các hạn chế đó khi
các điều kiện dẫn tới hạn chế được cải thiện, chỉ duy trì các hạn chế đó ở mức độ các điều
kiện đã nêu tại điểm đó còn chứng minh được sự cần thiết phải áp dụng. Họ sẽ loại bỏ
các hạn chế khi các điều kiện không còn chứng minh được việc định ra hay duy trì các
biện pháp đó theo như quy định tại mục (a)”.

II.1.3 Quy định BOP áp dụng với các nước đang phát triển (Điều XVIII:B GATT 1994)
Quy định của GATT 1994 ghi nhận điều kiện của các nước đang phát triển khi xây dựng
quy định về các vấn đề liên quan đến BOP. Như đã được tuyên bố tại Hội nghị Bộ trưởng
Doha năm 2001, Điều XVIII là quy định đặc biệt và khác biệt áp dụng với các nước
thành viên đang phát triển và việc vận dụng điều khoản này sẽ không bị điều chỉnh chặt
chẽ như Điều XII.
17
Vì vậy, Mục B của Điều XVIII, từ đoạn 8 đến 12, đưa ra ngoại lệ đặc

biệt về BOP đối với các nước thành viên đang phát triển. Đoạn 9 có ghi:

“Để đảm bảo tình hình tài chính đối ngoại và bảo đảm đủ mức dự trữ ngoại hối nhằm
thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, một bên ký kết thuộc diện nêu tại tiết (a)
khoản 4. của Điều này có thể, với điều kiện đáp ứng các quy định của khoản 10 và 12,
điều chỉnh tổng mức nhập khẩu bằng cách hạn chế khối lượng và trị giá của hàng hóa
được phép nhập khẩu ”

So sánh Điều XII và Mục B Điều XVIII cho thấy các thành viên phát triển chỉ áp dụng
hạn chế nhập khẩu để xử lý vấn đề BOP chỉ nhằm tự bảo vệ tình hình tài chính đối ngoại
và cán cân thanh toán của mình, trong khi thành viên đang phát triển thì khả năng áp
dụng các biện pháp hạn chế sẽ rộng hơn do mục tiêu của các biện pháp BOP còn bao gồm
cả việc duy trì mức dự trữ cần thiết để thực hiện chương trình phát triển kinh tế.

II.1.3 Hình thức các biện pháp BOP
Biện pháp định lượng

Quy định của GATT 1947 chỉ cho phép áp dụng hạn chế định lượng để xử lý bất cập về
BOP. Tuy nhiên, nhìn chung thực tế thường thấy biện pháp BOP đặt dưới hình thức thuế
hoặc các biện pháp tương tự, ví dụ như phụ thu nhập khẩu. Biện pháp thuế được chính
thức cho phép trong Tuyên bố Vòng Tokyo về “Biện pháp thương mại theo mục đích Cán
cân Thanh toán” được thông qua vào năm 1979 (Tuyên bố 1979). “Cách hiểu về Điều
khoản Cán cân Thanh toán của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994”
(Cách hiểu), được coi là các diễn giải chính thức quy định BOP của GATT 1994, trong
đó nêu rõ các tính chất của biện pháp BOP:

“Các thành viên khẳng định cam kết giành ưu tiên cho các biện pháp ít gây tổn hại nhất
cho thương mại. Các biện pháp như vậy (được nêu trong Cách hiểu này với thuật ngữ

17

Quyết định Bộ trưởng về Các Vấn đề Thực thi, thông qua vào 14 tháng 11 năm 2001, WT/MIN(01)/17, ngày 20
tháng 11 năm 2001, đoạn.1.1.

×