Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Phát triển thị trường TTSP của công ty TNHH Sông Công Hà Đông(sản xuất và kinh doanh phụ tùng xe máy)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.63 KB, 71 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam theo hướng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại đòi hỏi rất cao phẩm chất về mọi mặt
của mỗi quân nhân, đặc biệt phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ.
Bởi vì, đạo đức cách mạng là cái gốc, là cơ sở nền tảng của người cán bộ. Quá
trình phát triển đạo đức cách mạng của người cán bộ từ trước tới nay là quá
trình tự giác. Trong đó, người cán bộ luôn hướng tới, tiếp nhận và hành động
theo những chuẩn mực, giá trị của nền đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta dày công xây dựng .
Học viện chính trị quân sự - trung tâm đào tạo cán bộ chính trị các cấp
cho toàn quân. Xuất phát từ nhiệm vụ, mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà
trường hiện nay. Đòi hỏi phải đào tạo ra những cán bộ chính trị có kiến thức
toàn diện cả về phẩm chất đạo đức cách mạng,
cả về trình độ năng lực, để khi ra trường có đủ khả năng hoàn thành tốt chức
trách , nhiệm vụ được giao.
Trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ, chỉ
huy các cấp, sự cố gắng nỗ lực trong công tác giáo dục, đào tạo của
nhà trường và sự tích cực tự giác giáo dục, rèn luyện ở mỗi học viên
nên đã tạo được nền tảng đạo đức cách mạng của học viên khá bền
vững.
Tuy nhiên, bên cạnh xu hướng tích cực đó do tính chất phức tạp của tình
hình kinh tế xã hội thời kỳ quá độ, sự chống phá điên cuồng của các thế lực đối
với cách mạng nước ta trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống là mũi nhọn tiến công của chúng, những quan niệm
đạo đức, lối sống phương tây thực dụng nảy sinh trong nền kinh tế thị
trường và len lỏi vào con đường giao lưu, hợp tác, mở rộng hội nhập từ
1
nhiều hướng làm nảy sinh tiêu cực xã hội. Tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân
có chiều hướng gia tăng. Tình hình trên đã làm ảnh hưởng tới môi trường


đạo đức , lối sống như: Thờ ơ với chính trị, giảm sút niềm tin, biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân cơ hội, thực dụng sống buông thả suy giảm về đạo đức ...
những biểu hiện tiêu cực đó đã cản trở nền tảng đạo đức cách mạng của học
viên làm chất lượng đào tạo và ảnh hưởng tới môi trường đạo đức đơn vị,
bản chất truyền thống quân đội và ảnh hưởng đến đạo đức cách mạng và xây
dựng đạo đức của học viên.
Từ những vấn đề trên, để nhận thức đúng về đạo đức cách mạng và
xây dựng đạo đức cho học viên Học viện chính trị quân sự hiện nay cần phải
ngăn ngừa các tác động tiêu cực, đấu tranh khắc phục những sai lệch về
chuẩn đạo đức là một vấn đề cấp thiết.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về đạo đức cách
mạng của các lãnh tụ, các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài quân đội
như: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” Hồ Chí
Minh toàn tập, tập 9 Nxb CTQG, H.1996; “ Sự biến đổi của tháng giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức cho cán bộ
quản lý của nước ta” của PGS - PTS Nguyễn Chí Mỳ, Nxb CTQG, H.1999.
Hà Huy Thông “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của người cán bộ quân
sự - lý luận vận dụng” luận án Phó tiến sỹ khoa học triết học, Hà Nội 1995.
Đặng Kim Bôi “Sự tác động của kinh tế thị trường đến xây dựng đạo đức
cách mạng của đội ngũ sỹ quan cấp cơ sở trong quân đội ta hiện nay”. Luận
văn cao học triết học, Hà Nội 1997. Nguyễn Hùng Oanh “ Phát triển đạo đức
cách mạng ở thanh niên quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện
nay” Hà Nội 2002.
Tuy nhiên, các công trình trên nghiên cứu dưới góc độ triết học khác
nhau, song vấn đề “ Đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức cho học viên ở
2
Học viện chính trị quân sự hiện nay” chưa sâu sắc. Vì vậy, tác giả lựa chọn
vấn đề này để luận giải sâu sắc hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

- Mục đích: Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về
đạo đức cách mạng và xây dựng đạo đức cho học viên ở Học viện chính trị
quân sự hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản xây dựng đạo đức
cho học viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay.
- Nhiệm vụ: Luận giải đặc điểm, đặc trưng đạo đức cách mạng của học
viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản cho học viên ở Học viện chính trị
quân sự hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở hệ thống quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị quân sự của
Đảng cộng sản Việt Nam , các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy quân sự
trung ương, Bộ quốc phòng, Tổng cục chính trị, các bài nói và viết của các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về đạo đức cách mạng và xây dựng đạo
đức.
- Phương pháp luận: Chủ yếu sử dụng phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương
pháp lôgíc - lịch sử phân tích - tổng hợp xã hội học...
5. ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về đạo đức cách mạng và
vấn đề xây dựng đạo đức cho học viên ở Học viện chính trị quân sự hiện nay.
- Có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ học tập, nghiên cứu cho học
viên và giáo viên các nhà trường quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Gồm: Mở đầu, 2 chương(4 tiết), phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo.
3

4
Chương 1

đạo đức cách mạng và đặc điểm đạo đức cách mạng củahọc viên ở
Học viện chính trị quân sự hiện nay
1.1. Đặc trưng đạo đức cách mạng
1.1.1. Khái niệm đạo đức cách mạng
Xã hội loài người xuất hiện đồng thời đời sống đạo đức cũng xuất hiện.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là Mos (movis) - lề thói moralis
nghĩa là liên quan với lề thói, đạo nghĩa. Còn “luân lý” được xem như đồng
nghĩa với “đạo đức” có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos - lề lối, tập tục. Khi nói
đến đạo đức, tức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất
định giữa người với người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.
Thuật ngữ “đạo đức” (moral) xuất hiện vào thế kỷ thứ IV trước công
nguyên. ở Phương Tây nó gắn liền với tên tuổi của Arixtốt (384-322 TCN), ở
phương Đông và gắn liền với tên tuổi của Khổng Tử (551- 479 TCN)
Đạo đức ngay từ khi ra đời luôn được coi là những giá trị cơ bản
thể hiện trong mối quan hệ trực tiếp của con người với các đối tượng
giao tiếp đồng thời đạo đức là đời sống tinh thần là phẩm chất nhân
cách đặc trưng của ý thức và hành vi của chủ thể giao tiếp. Vì lẽ đó,
đạo đức được quan niệm là một hiện tượng xã hội, phản ánh mối quan
hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống con người.
Xuất hiện từ thế kỷ VI (TCN), đạo đức học Nho gia là một học
thuyết đạo đức lớn của phương Đông cổ đại, đặt con người vào cuộc
sống của chính bản thân mình, thấy được ý nghĩa và giá trị đích thực,
thấy được trách nhiệm của mình trước cộng đồng. Về đạo đức xã hội,
nho gia chủ trương lập lại kỷ cương xã hội bằng thuyết Chính danh, đó
là sự thống nhất giữa danh và thực. Đòi hỏi cái danh của mỗi người
phải phản ánh cái thực của người ấy, mỗi người phải xứng đáng với cái
danh của mình. Danh phải chính xã hội mới yên ổn, trật tự, nếu danh
5
bất chính thì thiên hạ tất sẽ loạn. Đây là một xã hội lấy đức để trị,
dùng đạo đức để ổn định trật tự xã hội. Song, nho gia không chỉ ra

được cơ sở xét đến cùng quyết định đạo đức là phương thức sản xuất
cùng với những quan hệ chính trị- giai cấp xã hội.
Xuất hiện từ thế kỷ IV (TCN) đạo đức học Arixtốt cho rằng ý
nghĩa cuộc sống hạnh phúc của con người là ở trần gian, ở cuộc sống
hiện thực, đạo đức được thể hiện trong lao động. Ông cho rằng con
người chỉ biểu hiện phẩm hạnh của mình thông qua hoạt động. Ai làm
việc thiện thì con người trở thành chính nghĩa, ai hành động đúng mực
thì trở thành người đúng mực, ai hành động dũng cảm thì trở thành con
người dũng cảm. Tuy nhiên, do lập trường giai cấp mà Arixtốt cho
rằng đạo đức, phẩm hạnh chỉ có ở giai cấp chủ nô. Nô lệ chỉ là công cụ
biết nói nên không có đạo đức, phẩm hạnh, chuẩn mực đạo đức phải
phù hợp với mức của cải, tuỳ theo mức độ giàu có mà tự do có mức độ
phẩm hạnh khác nhau.
Mặc dù có những cống hiến quan trọng nhưng do bị ảnh hưởng
bởi lập trường giai cấp hoặc do hạn chế của trình độ nhận thức mà các
quan điểm trước Mác không luận giải một cách đúng đắn, khoa học về
đạo đức.
Đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời thì đời sống đạo đức mới
được luận giải một cách đúng đắn, khoa học. Theo quan điểm Mác -
Lênin, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những
nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội nhằm đánh giá và điều chỉnh
hành vi của con người vì lợi ích của xã hội, của cộng đồng được thực
hiện trên sức mạnh của phong tục tập quán, dư luận xã hội và lương
tâm.
Đạo đức là một hiện tượng tinh thần, một hình thái ý thức xã hội,
là một hệ thống các nguyên tắc, những tiêu chuẩn nhằm quy định, điều
chỉnh đánh giá hành vi của con người trong quan hệ ứng xử xã hội. Do
6
vậy, đạo đức phát sinh, phát triển và chuyển hoá về mặt nội dung tuỳ
thuộc vào sự quy định của tồn tại xã hội. Mỗi xã hội, mỗi giai đoạn,

mỗi cộng đồng khác nhau thì những tiêu chuẩn, những nguyên tắc đạo
đức ấy cũng khác nhau. Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: “tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội, nó quyết định cả nguồn gốc, nội dung và
sự biến đổi của ý thức xã hội”. Mác - Ăngghen khẳng định: “Ngay từ
đầu ý thức đã là sản phẩm của xã hội và vẫn như vậy chừng nào con
người còn tồn tại”[13;38]. Như vậy, có thể khẳng định đạo đức mang
tính lịch sử rõ rệt. Khi xã hội thay đổi, đạo đức cũng thay đổi theo
song không phải là toàn bộ, mà nó giữ lại những tinh hoa của đạo đức
còn phù hợp với xã hội mới.
Lịch sử phát triển xã hội loài người từ khi xuất hiện giai cấp là lịch sử
đấu tranh giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức là biểu hiện đặc thù
của bản chất xã hội mà bản chất xã hội chứa đựng bản chất của giai cấp.
Mỗi một giai cấp đều có quan niệm đạo đức khác nhau, phù hợp với bản
chất của giai cấp đó không có đạo đức nào vĩnh cửu, chung chung cho mọi
giai cấp, mọi thời đại.
Đạo đức không những mang tính lịch sử, tính giai cấp và tính kế
thừa, mà đạo đức còn mang tính chuẩn mực và tính tự nguyện. Mặc dù
có những nguyên tắc, những chuẩn mực quy định thành văn hoặc
không thành văn, song vẫn được mọi người tự giác, chấp hành nghiêm
chỉnh. Những quan điểm, nguyên tắc của đạo đức chính là những
chuẩn mực tốt đẹp của xã hội được mọi người tự nguyện tuân theo và
vươn tới.
Đạo đức cách mạng là kiểu lịch sử cao nhất trong lịch sử loài
người, là tổng hợp các quan điểm, quy tắc, chuẩn mực trong xã hội chủ
nghĩa, nhờ đó con người tự điều chỉnh hành vi của mình vì lợi ích của
xã hội vì hạnh phúc của con người trong mối quan hệ giữa người với
7
người, giữa các cá nhân, tập thể và toàn xã hội trong chế độ chủ nghĩa
xã hội.
Đạo đức cách mạng xoá bỏ những chuẩn mực đạo đức phong

kiến, vốn luôn trói buộc nhân dân lao động và những lễ giáo hủ tục,
phục vụ cho chế độ đẳng cấp nô dịch của xã hội phong kiến. Đạo đức
cách mạng hoàn toàn đối lập với cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, cực đoan
của giai cấp tư sản, nó cũng xa lạ với đạo đức con người tiểu tư sản
kìm hãm con người trong lợi ích riêng tư, cục bộ, hẹp hòi cũng như
trong vòng gia trưởng nhỏ bé. Nó càng xa lạ với đạo đức tôn giáo,
khuyên con người ta cam chịu, chấp nhận số phận và hướng cuộc sống
tốt đẹp hơn sau khi thoát khỏi “kiếp” trần gian, chế độ xã hội chủ
nghĩa, những quan niệm, quan hệ chuẩn mực đạo đức là sự kế thừa
những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và đạo đức nhân loại. Đồng
thời, đạo đức xã hội chủ nghĩa làm phong phú thêm, phát triển những
giá trị mới. Đạo đức xã hội chủ nghĩa là đạo đức cách mạng. Đạo đức
cách mạng thể hiện sự phù hợp giữa các chế định xã hội với ý thức tự
nguyện, tự giác của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là sự
quan tâm của bản thân mỗi người đối với những người xung quanh, với
gia đình quê hương, đất nước, là phương thức điều chỉnh hành vi của
con người trong lao động sản xuất, trong chiến đấu và điều hoà mối
quan hệ xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Đạo đức cách mạng là một căn
cứ để đánh giá đúng thái độ, hành vi con người trong xã hội. Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: “...Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm”, “đó là đạo đức
cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức
mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì
lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”[16;152].
Kế thừa chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa nhân đạo cao cả của
nhân loại, Hồ Chí Minh đã phát triển lên một bước mới về chất cho
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và đặc điểm xã hội Việt
8
Nam. Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức cộng sản là “đạo đức mới, đạo
đức cách mạng” hoàn toàn khác đạo đức trước kia. Người nói: “Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức

mới như hai chân đứng vững được xuống đất, đầu ngẩng lên
trời”[16;320-321]. Bác giải thích rõ hơn; đạo đức mới là giai đoạn
phát triển cao của đạo đức con người, nó phù hợp với tiến hoá lịch sử,
phục vụ cho mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội và bản thân con
người. Nó khơi dậy ở mỗi con người lòng tự hào với Đảng, với giai
cấp và dân tộc, lòng tin tưởng và phẩm chất tinh thần của chính bản
thân mình, Người khẳng định: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần,
kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải
tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần,
kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo
đó có lợi cho nước, cho dân”[17;321]
Đạo đức cách mạng được Đảng ta xác định: Là lòng trung thành
tuyệt đối với đường lối, quan điểm của Đảng, có lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc
tế: “Tiêu chuẩn số một của người cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng”[19;258]. Đồng thời, người cách mạng
phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tôn trọng tình nghĩa đạo lý, có
lối sống trong sạch lành mạnh, văn minh, trung thực nhân nghĩa tôn
trọng kỷ cương phép nước. Có ý thức bảo vệ của công, lao động chân
chính với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất lao
động cao. Vì lợi ích của bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội không
ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng cao hiểu biết về chuyên môn
nghiệp vụ, trình độ thẩm mỹ, văn hoá, sáng tạo trong lao động, tinh thế
trong ứng xử, luôn nêu cao ý thức tập thể và của xã hội.
9
Ngày nay, trước yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Trung ương 3 đã xác định những
tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức của người cách mạng luôn có là:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tình phục vụ nhân dân, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có hiệu quả

đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham nhũng và kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực không cơ hội,
gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực
và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Là một hoạt động đặc thù, người quân nhân được học tập và rèn luyện trong
môi trường quân sự. Vì vậy, đạo đức cách mạng của người quân nhân là đạo đức
của người cách mạng nói chung. Đồng thời, mang những nét đặc thù phù hợp với
hoạt động quân sự , được tập trung trong 10 lời thề danh dự của quân nhân, 12 điều
kỷ luật và được tập trung cao độ ở lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta
trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”[14;350].
Đạo đức cách mạng của người học viên Học viện chính trị quân sự là tổng
hợp các quy tắc, quan điểm, quan niệm, những nguyên tắc giá trị, chuẩn mực đạo
đức mới được kết hợp giữa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa
đạo đức của nhân loại, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đạo đức cách mạng của người học viên được biểu hiện thông qua hoạt động
học tập, rèn luyện và trong giải quyết các mối quan hệ với chỉ huy, đồng đội trong
đơn vị với nhân dân, đạo đức cách mạng của người học viên Học viện chính trị
quân sự góp phần vào việc định hướng, điều chỉnh nhận thức, hành vi hoạt động
của họ cho phù hợp với mục tiêu yêu cầu đào tạo của học viện, phù hợp với môi
10
trường hoạt động quân sự. Đạo đức cách mạng của người học viên Học viện chính
trị quân sự không phải tự nhiên mà có mà nó là kết quả của quá trình giáo dục, rèn
luyện và tự giáo dục, rèn luyện của học viên nhằm biến những giá trị, chuẩn mực
đạo đức mới của xã hội, xã hội chủ nghĩa thành đạo đức cách mạng của mỗi quân
nhân.

Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội đạo đức cách mạng có vai trò hết
sức to lớn với tồn tại xã hội. Đạo đức cách mạng là công cụ góp phần cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Lênin nói: “Đạo đức cách mạng là cái
dùng để phá hủy xã hội cũ, của bọn bóc lột và để đoàn kết tất cả những người lao
động chung quanh giai cấp vô sản sáng tạo ra xã hội mới”[11;378].
Ngay từ khi ra đời, đạo đức cách mạng đã sớm đấu tranh phủ định tàn dư của
xã hội cũ, mặt khác đạo đức cách mạng là công cụ tăng cường chính trị và chuyên
chính vô sản, giữa đạo đức và chính trị có quan hệ khăng khít, thống nhất chặt chẽ
với nhau trên cơ sở cùng hệ tư tưởng chính trị xác định nội dung, phương hướng
qui mô và tạo nên động lực cho sự phát triển của đạo đức cách mạng. Nếu chế độ
xã hội tiến bộ, tốt đẹp thì những yếu tố đạo đức lành mạnh sẽ phổ biến, phát triển
và luôn tác động tích cực trở lại nhằm duy trì khẳng định xã hội đó.
Đạo đức còn có quan hệ chặt chẽ với nghệ thuật và pháp luật, đạo đức đặt ra
tiêu chí để nghệ thuật vươn tới. Thông qua hoạt động nghệ thuật giáo dục, hoàn
thiện nhân cách con người, hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Đồng
thời đạo đức và pháp luật đều nhằm mục đích điều chỉnh hành vi của con người
cho phù hợp với yêu cầu chung của xã hội, hướng con người vào việc hoàn thành
tốt nhiệm vụ của xã hội, còn là phương tiện giáo dục đạo đức cho mỗi con người.
Đạo đức cách mạng là công cụ xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đạo
đức cách mạng làm cho con người lao động có thái độ hăng say, nghiêm túc với
công việc của mình. Lênin nói: đạo đức cách mạng giúp xã hội loài người tiến bộ
cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động.
Đạo đức cách mạng là một bộ phận quan trọng của văn hoá, góp phần tạo
nên nền tảng của xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Với chức năng của mình, đạo đức
11
cách mạng đã điều chỉnh chủ thể hành động tuân theo giá trị văn hoá, văn minh
lành mạnh.
Đạo đức cách mạng có vai trò quan trọng trong giáo dục xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội trước hết cần có người xã hội chủ nghĩa”[19;23].Theo Người, con người

mới xã hội chủ nghĩa là những con người được giác ngộ sâu sắc về chủ nghĩa Mác-
Lênin, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tri thức toàn diện, tư duy tiến bộ, có ý
chí vươn lên không ngừng học tập.
Hoạt động quân sự là hoạt động đặc biệt mang tính đặc thù cao. Do đó, đạo
đức cách mạng có vị trí, vai trò rất quan trọng, đó là nhân tố cơ bản tạo nên sức
mạnh chiến đấu của quân đội, của từng đơn vị và của mỗi cá nhân cán bộ, chiến sĩ
đạo đức định hướng giá trị đối với thái độ, hành vi của mỗi quân nhân.
Đạo đức cách mạng điều chỉnh lối sống, hành vi của quân nhân cho phù hợp
với yêu cầu khách quan của xã hội và quân đội, nhờ đó mà phối hợp hành động của
các quân nhân bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cả về tư tưởng và hành động của
bộ đội trong sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
cũng như trong xây dựng đất nước.
Đạo đức cách mạng cổ vũ và trực tiếp hành động của mỗi cán bộ chiến sĩ,
học viên góp phần quyết định chất lượng thực hiện các nhiệm vụ tác chiến cũng
như sẵn sàng chiến đấu.
Đạo đức cách mạng góp phần đấu tranh chống lại những quan điểm, tư
tưởng sai trái đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân, bệnh tham lam, lười biếng, bệnh kiêu
ngạo, hám danh, ích kỷ...đồng thời là cơ sở để mỗi người học viên phát huy tài
năng và các phẩm chất khác, hướng các phẩm chất năng lực của con người vào
những hoạt động thực tiễn cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang”[19;238].
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của đạo đức cách mạng
12
Có thể xem xét đạo đức con người học viên Học viện chính trị quân sự từ
nhiều góc độ khác nhau, nhưng chủ yếu bởi hai góc độ cấu trúc và từ các phẩm
chất đặc trưng.
Một là: Theo cấu trúc: Đạo đức cách mạng của người học viên Học viện
chính trị quân sự bao gồm quan hệ đạo đức, ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và con

người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức.
Theo Mác: “Trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hoà các quan
hệ xã hội” nghĩa là, con người bao giờ cũng tồn tại trong những mối quan hệ xã
hội, mỗi cá nhân là một thành viên của cộng đồng, hoạt động trong không gian,
thời gian, xác định với công việc và ngành nghề cụ thể. Quan hệ đạo đức được biểu
hiện rất phong phú trong từng điều kiện hoàn cảnh, nội dung công việc và quan hệ
xã hội.
Quan hệ giữa học viên với học viên là quan hệ trên tình đồng chí, đồng đội
sâu sắc, đoàn kết hiệp đồng, đồng cam cộng khổ thương yêu như ruột thịt. Đây là
mối quan hệ tôn vinh, một giá trị đạo đức cao đẹp của người học viện Học viện
chính trị quân sự và trong quan hệ ấy họ phải thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn hoàn thành
nhiệm vụ.
Quan hệ của học viên Học viện chính trị quân sự với nhiệm vụ cách mạng,
nhiệm vụ chính trị của quân đội, là quan hệ của người cán bộ đối với Đảng, với Tổ
quốc, với nhân dân, với chế độ xã hội chủ nghĩa, với “lòng tận tâm, tận lực” phục
vụ quân đội, phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những mối quan hệ này được hình thành phát triển như một tất yếu của sự
nghiệp xây dựng quân đội, xây dựng Học viện chính trị quân sự, nó xác định
những nhu cầu khách quan về đạo đức cách mạng của người học viên. Quan hệ ứng
xử trong tập thể đơn vị mang tính đạo đức, được xã hội định ra những quy tắc,
chuẩn mực được người học viên Học viện chính trị quân sự chấp nhận, tuân theo.
Người học viên hết lòng thương yêu nhau, dũng cảm đấu tranh chống tham ô, tham
13
nhũng, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực hành tiết kiệm... Những chuẩn mực đạo đức
đó phù hợp và đáp ứng các mối quan hệ nhằm củng cố, phát triển nâng cao nhận
thức của người học viên. Những quan hệ đạo đức này là một trong những cơ sở để
hình thành ý thức đạo đức của người học viên Học viện chính trị quân sự.
ý thức đạo đức là sự phản ánh tồn tại xã hội thông qua những quy tắc, cách
cư xử chuẩn mực phù hợp với những quan hệ đạo đức đang tồn tại.

Khi các mối quan hệ của con người được xác lập như một tất yếu khách
quan thì xuất hiện nhu cầu xây dựng các nguyên tắc cho sự thiết lập các quan hệ và
bảo đảm cho các quan hệ vận hành.
Phản ánh tồn tại xã hội, ý thức đạo đức luôn được gắn liền với tính giai cấp;
phản ánh những quan hệ giữa người với người về mặt đạo đức theo những quan
điểm thích hợp về những tiêu chuẩn, nguyên tắc về thiện ác, tốt xấu, công bằng và
bất công, lương tâm và trách nhiệm... Tất cả những hình thức này của ý thức hợp
thành một hệ thống vừa quy định vừa đánh giá những hành động đạo đức. Cho
nên, ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức và hành vi của mỗi người
trước yêu cầu hệ thống chuẩn mực và quy tắc đánh giá, điều chỉnh của xã hội, giúp
con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự giác nghĩa vụ đạo
đức. Tương ứng với hình thức hoạt động trong nghề nghiệp, trong cán bộ đảng
viên và cán bộ quân đội.
ý thức đạo đức của người học viên Học viện chính trị quân sự biểu hiện ở
lập trường giai cấp công nhân kiên định, bản lĩnh vững vàng, lòng tin, sự trung
thành với sự nghiệp cách mạng, tinh thần triệt để và tiến công cách mạng. Luôn đề
cao trách nhiệm trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức được giá
trị đạo đức cao đẹp của nghĩa vụ, tình thương và sự qúy trọng bộ đội, của cần,
kiệm, liêm, chính, dũng cảm chiến đấu chống mọi kẻ thù, chống mọi điều ác. Sự
cần thiết trong kết hợp hài hoà giữa trách nhiệm nghĩa vụ với lợi ích, lối sống lành
mạnh, giản dị với thái độ làm việc sáng tạo khoa học và động cơ học tập phát triển
tài năng, nâng cao năng lực hoàn thành nhiệm vụ, giàu lòng nhân ái, đoàn kết, quan
tâm người khác.
14
Thực tiễn đạo đức là quá trình hiện thực hoá ý thức và quan hệ đạo đức
trong đời sống. Thực tiễn hoạt động phong phú đa dạng của con người, là điểm
xuất phát và cũng là nơi đạo đức thể hiện những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức
tiến bộ hay lạc hậu.
Thực tiễn đạo đức có vị trí hết sức quan trọng, nếu thiếu nó thì ý thức đạo
đức không có ý nghĩa, rơi vào trừu tượng và không đạt tới giá trị. Cho nên, không

có thực tiễn đạo đức thì mọi lý thuyết đạo đức chỉ là lời nói suông và vô nghĩa. ý
thức đạo đức, nhất là ý thức đạo đức cách mạng phải được hiện thực hoá bằng
hành động thì mới đem lại lợi ích cho xã hội và ngăn ngừa được điều ác. Thực tiễn
đạo đức là hệ thống hành vi của con người được hình thành từ cơ sở của ý thức,
tình cảm đạo đức. Chỉ thông qua thực tiễn hành vi, ý thức đạo đức mới được thừa
nhận. Vì vậy, đạo đức cách mạng là đạo đức hành động, gắn liền với thực tiễn giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đạo đức cách mạng của người học viên Học viện chính trị quân sự là
biểu hiện cụ thể của đạo đức cách mạng trong lĩnh vực quân sự tại Học viện
chính trị quân sự, trong cấu trúc của nó luôn thống nhất gắn bó chặt chẽ với
nhau. Để nhận biết nó, không chỉ qua ý thức và quan hệ đạo đức mà phải
bằng cả hành vi hành động thực tiễn. Cho nên, tác dụng nêu gương giữ vai trò rất
quan trọng trong xây dựng đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng của người học viên
Học viện chính trị quân sự. Bởi vì: “Một tấm gương sáng còn có giá trị hơn một
trăm bài diễn văn tuyên truyền”[14;263]. Trong đời sống đạo đức có những
mâu thuẫn giữa nhận thức, ý thức, hành vi, giữa lời nói và việc làm, đòi hỏi
học viên phải có năng lực để chuyển hoá những nguyên tắc chuẩn mực của
xã hội thành nhu cầu tự nguyện tự giác của cá nhân. Nếu ai đó rất trung
thành với Đảng, với cách mạng, nhưng năng lực chuyên môn kém thì tác
dụng của người đó cũng kém. Vì vậy, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên
môn gắn bó chặt chẽ với nhau trong nhân cách đạo đức cách mạng của người
học viên Học viện chính trị quân sự.
15
Hai là: Theo phẩm chất đặc trưng: Ăngghen cho rằng: “Mỗi nghề
nghiệp đều có đạo đức riêng của mình” đạo đức cách mạng của người học
viên Học viên chính trị quân sự được đặc trưng bởi chức năng của người cán
bộ chính trị trong quân đội. Tuy nhiên, đạo đức cách mạng của người học
viên là một bộ phận hữu cơ, thể hiện đầy đủ yêu cầu của đạo đức cách mạng,
nhưng lại mang đậm dấu ấn của người cán bộ chính trị. Do đó, đạo đức của
người học viên có những đặc trưng cơ bản và thực chất đặc trưng này là sự phát

triển cụ thể hoá của đạo đức cách mạng ở Học viên chính trị quân sự. Những đặc
trưng đó là:
Thứ nhất: Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ xã hội
chủ nghĩa, với nhân dân. Kiên định mục tiêu lý tưởng, sẵn sàng chiến đấu vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, quyết tâm bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, tin tưởng kiên định vào sự
tất thắng của chủ nghĩa xã hội. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quan hệ Đảng - Tổ
quốc - Nhân dân có sự gắn bó chặt chẽ, mục tiêu lý tưởng của Đảng là mong
muốn, khát vọng của nhân dân. Đảng phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng, toàn dân được giải phóng là
Đảng được giải phóng. Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc thì Đảng không còn
lợi ích gì khác”[16;249-250]
Người khẳng định: “ Trong chế độ mới xã hội chủ nghĩa nhân dân lao động
là chủ nhân thực sự của đất nước. Cán bộ, Đảng viên làm cách mạng để phục vụ
Tổ quốc, phục vụ đồng bào chứ không phải làm cách mạng để cầu vinh lợi, thăng
quan tiến chức, phải thực sự là “công bộc” của nhân dân, ở đâu mà dân đói, dân
rét, dân dốt là ở đó đảng viên, cán bộ có khuyết điểm”[18;573]
Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hiếu với nhân dân là bản chất
truyền thống đạo đức của quân đội, là một phẩm chất chính trị đạo đức cao đẹp của
“Bộ đội cụ Hồ”. Trung với Đảng, hiếu với dân, đã ra quân là đánh thắng cũng là
truyền thống xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và là truyền thống đạo đức cách
mạng của quân đội. Học viên Học viện chính trị quân sự là một bộ phận cấu thành
16
của quân đội, cho nên “mang” trong mình đặc trưng đó. Là một người quân nhân
cách mạng, người học viên được đào tạo để trở thành người sĩ quan, người cán bộ
của Đảng trong quân đội, thì đây là một phẩm chất đạo đức quan trọng hàng đầu
của người học viên Học viện chính trị quân sự, phẩm chất đạo đức này còn mang
tính nguyên tắc trong chỉ đạo định hướng mọi nhận thức và hành động của học
viên.
Lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, với

nhân dân của người học viên được xây dựng trên cơ sở khoa học. Trong quá trình
đào tạo tại Học viện được nghiên cứu tiếp thu có hệ thống căn bản về lý luận Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam,
cùng các tri thức khoa học xã hội và nhân văn khác. Từ đó học viên sẽ nhận thức
đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam về mục tiêu lý
tưởng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân, về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Biểu hiện của lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ
nghĩa với nhân dân của cán bộ, chiến sĩ quân đội ta nói chung và học viên Học
viện chính trị quân sự nói riêng là nhận thức đúng đắn vinh dự - trách nhiệm, nghĩa
vụ của người quân nhân cách mạng.
Mỗi học viên phải xác định và xây dựng được niềm vinh dự tự hào được
tuyển chọn để đào tạo thành sĩ quan người giáo viên Khoa học xã hội nhân văn
tương lai trong quân đội nhân dân Việt Nam, được tiếp sức, kế tục truyền thống vẻ
vang của Học viện chính trị quân sự, của quân đội, đem vào quân đội với môi
trường tốt, để rèn luyện trưởng thành và cống hiến cho cách mạng là ước mơ hoài
bão của nhiều học viên hiện nay. Cùng với vinh dự tự hào đó học viên phải nhận
thức được trách nhiệm nghĩa vụ thiêng liêng cao quý nhất là: “Bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội và nền văn hoá, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa”[4;117]. Đây không chỉ là trách nhiệm nghĩa vụ quân nhân mà còn là
trách nhiệm nghĩa vụ đạo đức của học viên.
17
Những nhận thức trên là cơ sở để giữ vững và phát triển những tình cảm đạo
đức lành mạnh trong sạch của mỗi học viên, tình cảm, lòng biết ơn đối với Đảng,
tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, quý trọng người lao động ở mỗi học viên đã được
hình thành, nuôi dưỡng trong chế độ mới, nền giáo dục mới, những tình cảm đó
được thường xuyên vun trồng, phát triển bền vững.
Nhận thức và tình cảm của học viên phải được hoà quện thống nhất để trở
thành niềm tin mãnh liệt. Niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của

công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa, tin tưởng kiên
định vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, vào khả năng chiến đấu và chiến thắng
của quân đội đối với bất cứ kẻ thù nào với phương thức tác chiến khi chúng xâm
phạm chủ quyền lãnh thổ an ninh quốc gia.
Lòng trung thành của học viên Học viện chính trị quân sự không phải chung
chung, trừu tượng không chỉ dừng lại ở nhận thức, mà phải trở thành hành động cụ
thể. Tiêu chí cao nhất để đánh giá sự trung thành của học viên là thông qua hoạt
động thực tiễn. Kết quả hoạt động thực tiễn là thước đo quan trọng nhất của nhận
thức, niềm tin, đồng thời nó có tác động trở lại để củng cố, phát triển nhận thức và
niềm tin, tin tưởng vào sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng kiên định con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã lựa chọn. Do
đó, người học viên phải có ý chí, nghị lực vượt mọi khó khăn gian khổ, rèn luyện
phẩm chất dũng cảm đức hy sinh, sẵn sàng xả thân nhận nhiệm vụ vì cách mạng,
đạt kết quả cao trong học tập, rèn luyện kỷ luật, tu dưỡng đạo đức cá nhân, hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao. Chỉ có phát triển hoàn thiện nhân cách người học
viên, người sĩ quan tương lai, học viên mới có cơ sở điều kiện để thực hiện vinh dự
và nghĩa vụ cao quý của mình trong học tập tại trường cũng như trong công tác sau
này.
Đây là đặc trưng đạo đức cách mạng cơ bản xuyên suốt quá trình hình thành
nên nhân cách của người quân nhân cách mạng nói chung và học viên Học viện
chính trị quân sự nói riêng.
18
Thứ hai: Nhận thức sâu sắc nhiệm vụ học tập, rèn luyện về mọi mặt để
phục vụ quân đội nhân dân, là người học viên phấn đấu trở thành người
chiến sĩ tiên phong trong lĩnh vực đấu tranh chính trị, tư tưởng.
Nhiệm vụ xây dựng quân đội trong thời kỳ mới rất nặng nề, đòi hỏi người
học viên phải luôn có tinh thần học tập, cầu tiến bộ, có ý chí phấn đấu vươn lên
nâng cao trình độ về mọi mặt, thì mới thực hiện được nhiệm vụ của người học viên
trong sự nghiệp xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để đạt
được những yêu cầu trên đòi hỏi người học viên phải có nhận thức sâu sắc về

nhiệm vụ học tập, rèn luyện, có động cơ phấn đấu đúng đắn, coi đây không chỉ là
trách nhiệm của học viên Học viện chính trị quân sự đối với sự nghiệp xây dựng
quân đội, mà còn là trách nhiệm đối với sự trưởng thành của bản thân. Trong mọi
hoàn cảnh mọi điều kiện người học viên phải tích cực học tập, rèn luyện với tinh
thần khiêm tốn, cầu tiến bộ, tranh thủ học tập mọi lúc, mọi nơi để nâng cao trình
độ mọi mặt, không tự mãn, tự kiêu, tự ty thường xuyên giúp đỡ đồng chí, đồng đội
khắc phục khó khăn để học tập, rèn luyện phấn đấu vươn lên. Ra sức trau dồi kiến
thức về mọi mặt để nâng cao nhận thức và bản lĩnh chính trị để làm chủ các
phương tiện vũ khí, kỹ thuật, thành thục về kỹ chiến thuật, kỹ xảo nghề nghiệp...
để vươn lên khắc phục các hạn chế của bản thân và đáp ứng ngày càng tốt hơn các
yêu cầu xây dựng chiến đấu của quân đội trong thời kỳ mới.
Học tập nâng cao trình độ mọi mặt là một nhiệm vụ chính trị trung tâm của
học viên trong quá trình đào tạo tại trường. Kết quả học tập phản ánh mặt trình độ
năng lực trong nhân cách, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng đánh giá trình độ phát
triển đạo đức cách mạng của mỗi học viên.
Ra sức học tập nâng cao trình độ của học viên Học viện chính trị quân sự
hiện nay là một tất yếu khách quan phù hợp với xu thế phát triển mạnh mẽ của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nói chung và sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, khoa học công nghệ quân sự nói riêng, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ quân đội, nhiệm vụ của Học viện
chính trị quân sự.
19
Mục tiêu yêu cầu đặt ra đối với việc đào tạo ra đội ngũ sĩ quan chính trị kế
cận hiện nay phải có năng lực, trình độ toàn diện: “Có trình độ lý luận chính trị,
quân sự, nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và xây dựng quân đội, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân có trình độ khoa học kỹ thuật quân sự và những kiến thức cần
thiết quản lý kinh tế, xã hội, pháp luật, có trình độ chuyên môn kỹ thuật, có năng
lực trí tuệ và năng lực thực tiễn, biết làm việc một cách chủ động, tự lực, sáng tạo
và có hiệu quả”[6;7].

Thứ ba: Gương mẫu rèn luyện phấn đấu nâng cao đạo đức cách mạng, trau
dồi đức tính: Nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm chính kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân.
Kế thừa những tinh hoa đạo đức nhân loại và đạo đức cổ truyền của dân tộc
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng trong đó:
“nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính” là những phẩm chất cao đẹp của
con người xã hội chủ nghĩa mà thế hệ chúng ta phải luôn có ý thức, tư tưởng rèn
luyện, là những yêu cầu rất quan trọng trong xây dựng đạo đức mới của người cách
mạng, người cán bộ chính trị. Hồ Chí Minh đã giải thích rất rõ, rất cụ thể, rất dễ
hiểu những chuẩn mực đó
Nhân, nghĩa: là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, thể hiện nghĩa lớn đối với dân
tộc, độc lập và tự do là cái quý nhất của dân tộc nhưng phải gắn với chủ nghĩa xã
hội. Do đó lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị, bảo vệ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vì tương lai của đất nước vì
hạnh phúc của nhân dân là điều nhân nghĩa nhất hiện nay. Mỗi cán bộ, đảng viên
cần tự mình làm điều nhân nghĩa, giáo dục, động viên bộ đội làm theo, kiên quyết
đấu tranh với những việc bất nhân, bất nghĩa. Xây dựng mối quan hệ đồng chí,
đồng đội giàu tình cảm nhân ái, tin cậy giúp đỡ lẫn nhau.
Trí, dũng: Đó là sự sáng suốt trong thực hiện chức trách, sáng tạo trong lãnh
đạo chỉ huy đơn vị, xử lý các tình hình huống đúng đắn với tinh thần kiên quyết
20
bảo vệ chân lý, lẽ phải. Dũng cảm đề cao tính tự phê bình và phê bình nghiêm túc,
luôn luôn thể hiện cầu mong tiến bộ.
Cần, kiệm: Là cần cù chịu khó, luôn luôn tìm mọi cách lãnh đạo, chỉ huy
đơn vị hoàn thành các nhiệm vụ chính trị đạt hiệu quả cao nhất trong việc sử dụng
công sức bộ đội, vũ khí trang bị, cơ sở vật chất, thời gian... trong mọi hoạt động
của đơn vị, hợp lý nhất, có lợi nhất, không để lãng phí, mất mát gây tổn thất cho
quân đội.
Liêm, chính: Là lối sống lành mạnh, giữ vững mình trong sạch, không tham
ô, hối lộ, bảo vệ của công, tôn trọng lợi ích của tập thể, của đồng đội. Trung thực,

đoàn kết, không bè phái cục bộ bản vị. Tiền bạc không quyến rũ, uy vũ không
khuất phục, tích cực bảo vệ sự trong sáng của tình đồng chí, bảo vệ trong sạch nội
bộ.
Cần, kiệm, liêm, chính là phẩm chất tốt đẹp của con người, đặc trưng cho
nhân cách người cách mạng, có vai trò to lớn trong xây dựng con người và phát
triển xã hội. Đây là đức tính căn bản của mọi nhân cách và như một tất yếu nghiêm
ngặt “thiếu một đức thì không thành người” đã là con người đạo đức, thì dù sống
trong môi trường nào, hoạt động ở ngành nghề gì cũng phải là con người “cần,
kiệm, liêm, chính”. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cần, kiệm, liêm,
chính của chúng ta là đạo đức của người quân nhân cách mạng, các chú phải thực
hiện đạo đức đó”[17;321]. Tuy nhiên đối với người học viên Học viện chính trị
quân sự phải thực sự “tiêu biểu và kiểu mẫu” về cần kiệm liêm chính, đó là sắc thái
riêng trong môi trường nhân văn quân sự của họ. Từ đó kiên quyết đấu tranh chủ
nghĩa cá nhân.
Thứ tư: Nêu cao tinh thần đoàn kết giữ nghiêm kỷ luật, gắn bó máu thịt với
nhân dân, nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp công nhân.
Quân đội ta do Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và lãnh đạo
là quân đội cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân do vậy trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, cán bộ chiến sĩ quân đội phải
luôn nêu cao tinh thần đoàn kết giữ nghiêm kỷ luật, gắn bó máu thịt với nhân dân
21
và nêu cao tinh thần quốc tế vô sản cao cả, làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa và sẵn sàng đóng góp sức mình vào sự nghiệp chung của giai cấp
công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Đối với người học viên, phải luôn sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ, nghĩa vụ
của mình đối với Tổ quốc và thực hiện các nghĩa vụ quốc tế với tinh thần vô tư,
trong sáng. Nhận thức một cách sâu sắc rằng: chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa
hoàn toàn đối lập và xa lạ với chủ nghĩa dân tộc ích kỷ, hẹp hòi chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân không thể và không bao giờ dung hợp được chủ nghĩa xô
vanh nước lớn. Do đó, làm tròn nhiệm vụ quốc tế cao cả và thắt chặt thêm tình

đoàn kết giữa các dân tộc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của sự nghiệp cách
mạng là yêu cầu về mặt đạo đức và vinh dự to lớn của người học viên Học viện
chính trị quân sự hiện nay.
1.2. Đặc điểm đạo đức cách mạng của học viên ở Học viện chính trị quân sự
hiện nay
1.2.1. Đạo đức cách mạng của học viên luôn chịu sự chi phối của điều kiện
khách quan, nhân tố chủ quan, đặc biệt là mục tiêu yêu cầu đào tạo đội ngũ sĩ
quan của quân đội, của người cán bộ chính trị.
Nhằm đáp ứng mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường, đòi hỏi người học
viên Học viện chính trị quân sự không chỉ có kiến thức toàn diện, trình độ năng lực
mà còn phải có phẩm chất đạo đức, lối sống...đặc biệt là đạo đức cách mạng của
người học viên. Song đạo đức cách mạng của học viên Học viện chính trị quân sự
chịu sự tác động bởi điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong quá trình đào
tạo tại trường.
Mác đã từng khẳng định: “Con người sáng tạo hoàn cảnh đến mức nào thì
hoàn cảnh sáng tạo ra con người đến mức đó”[13;25]. Con người không chỉ là sản
phẩm của hoàn cảnh mà còn là chủ thể thích ứng và cải tạo hoàn cảnh. Giữa con
người và hoàn cảnh có mối quan hệ ràng buộc chi phối và tác động qua lại lẫn
nhau. Lịch sử phát triển của nhân loại chứng minh rằng, sự phát triển của nền văn
22
hoá đạo đức nhất định, bao giờ cũng gắn liền với môi trường sống nhất định của
con người.
Với tinh thần đó, đạo đức của người học viên Học viện chính trị quân sự
không phải là sản phẩm định sẵn của bản thân người học viên, cũng không phải là
kết quả thụ động của những điều kiện và hoàn cảnh mà họ sinh sống, trái lại nó là
kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa những điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan người học viên trong quá trình đào tạo.
Điều kiện khách quan đối với người học viên Học viện chính trị quân sự đó
là tất cả những gì tồn tại không phụ thuộc vào ý thức của họ, hợp thành một hoàn
cảnh hiện thực thường xuyên và trực tiếp quy định mọi hoạt động học tập, rèn

luyện của người học viên trong quá trình đào tạo tại trường.
Điều kiện khách quan ấy chính là tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của đất
nước, tình hình nhiệm vụ của quân đội, của Học viện chính trị quân sự trong sự
nghiệp xây dựng đất nước Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành
công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đã dành được
nhiều những thành tựu to lớn. Thông qua công cuộc đổi mới, chúng ta đã thu được
nhiều thành tựu văn minh của nhân loại, làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc,
trong đó có lĩnh vực đạo đức. Nhiều giá trị chuẩn mực đạo đức mới được hình
thành và phát triển. Những nhân tố chính trị, kinh tế, văn hoá...đều tác động đến
đạo đức của người học viên. Thực tiễn đã chứng minh các nhân tố chính trị, kinh
tế, văn hoá của mỗi thời kỳ lịch sử đều tác động ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp
đến quá trình hình thành, phát triển phẩm chất, nhân cách đạo đức, lối sống tâm tư
tình cảm của mỗi con người. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã dành
được, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã và đang có những tác động tiêu cực
đáng kể đến đời sống đạo đức xã hội, làm đảo lộn một số giá trị đạo đức truyền
thống, làm phai mờ đạo đức người cán bộ đảng viên. Lối sống hiện đại, “buông
thả, sống vô nguyên tắc, coi rẻ lao động, lấy đồng tiền làm trung tâm của mọi mối
quan hệ... đang làm nhức nhối đời sống tinh thần xã hội. Thực tiễn thời gian qua
mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ tới nhận thức, thái độ,
23
hành vi của không ít học viên, đồng tiền đã có dấu hiệu len lỏi trong các học đường
ở mức độ khác nhau. Đây là điểm chi phối không nhỏ tới quá trình xây dựng đạo
đức cách mạng cho học viên Học viện chính trị quân sự.
Đạo đức cách mạng ở người học viên Học viện chính trị quân sự chịu sự
quyết định trực tiếp và thường xuyên của môi trường Học viện chính trị quân sự,
nơi mà ở đó diễn ra các hoạt động học tập, rèn luyện của học viên. Đó là những
điều kiện khách quan có ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành phát triển nhân
cách, phẩm chất đạo đức của người học viên trong quá trình đào tạo.
Điều kiện khách quan dù có tạo ra hoàn cảnh thuận lợi đến đâu thì cũng chỉ
dừng lại ở khả năng, muốn khả năng đó thành hiện thực phải thông qua vai trò

năng động chủ quan. Do đó, muốn xây dựng phát triển phẩm chất đạo đức cách
mạng ở người học viên cần đòi hỏi ở họ tinh thần tích cực phấn đấu vươn lên tự
hoàn thiện những phẩm chất đạo đức một cách chủ động.
Người học viên Học viện chính trị quân sự vừa là khách thể của quá trình
đào tạo đồng thời là chủ thể tích cực, chủ động trong quá trình đào tạo. Quá trình
chuyển biến đào tạo thành tự đào tạo cũng chính là quá trình kết hợp hữu cơ,
chuyển hoá điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa điều kiện bên ngoài và
yếu tố bên trong bản thân mỗi người học viên.
Trong quá trình đào tạo, mục tiêu yêu cầu đạt được về các phẩm chất nhân
cách nói chung, phẩm chất đạo đức nói riêng cùng với nội dung phương pháp hoạt
động của các lực lượng sư phạm trong nhà trường và các điều kiện khác là nhân tố
khách quan, giữ vai trò to lớn trong việc hình thành phát triển đạo đức cách mạng
của người học viên. Mặt khác, người học viên không phải là tấm gương phản chiếu
một cách máy móc, nguyên xi những tác động đó, mà ngược lại sự tác động đó chỉ
thực sự có ý nghĩa thông qua hoạt động tích cực chủ động của học viên, vì con
người không phải là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh. Đạo đức cách mạng của
người học viên luôn chịu sự tác động mục tiêu yêu cầu đào tạo của nhà trường,
đây là nhân tố hết sức quan trọng hình thành phẩm chất nhân cách đạo đức cách
mạng của người học viên. Mục tiêu đào tạo ở Học viện chính trị quân sự là nhằm
24
đào tạo những cán bộ chính trị quân đội trung thành tuyệt đối với Đảng cộng sản
Việt Nam, có bản lĩnh chính trị vững vàng, niềm tin vững chắc vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội: có kiến thức sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
khoa học xã hội nhân văn và khoa học nghệ thuật quân sự, có phẩm chất đạo đức
cách mạng trong sáng, có kỹ năng chuyên môn thành thạo, có khả năng hoàn thành
nhiệm vụ theo chức danh đào tạo của nhà trường và tự hoàn thiện để đáp ứng với
sự phát triển nhiệm vụ của bộ đội.
Yêu cầu của nhà trường đòi hỏi đào tạo phải đảm bảo hệ thống, cơ bản, toàn
diện, thiết thực, hiện đại và phát triển, có cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ

bản và chuyên ngành, cũng như giữa kiến thức khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và khoa học nghệ thuật quân sự, kế thừa và phát triển bản sắc văn hoá,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của quân đội, của học viện, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại, tương ứng với trình độ Đại học của hệ thống giáo dục quốc dân.
1.2.2. Đạo đức của học viên luôn gắn với quan điểm của Đảng về xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa, kế thừa và phát triển những giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc, quân đội phù hợp với tính chất đặc điểm nhiệm vụ của cách mạng
trong giai đoạn mới.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Con người mới được đặt lên nhiệm vụ hàng đầu của các Đảng cộng sản, là
đảm bảo chắc chắn nhất cho sự toàn thắng của chủ nghĩa xã hội. Đảng cộng sản
Việt Nam rất coi trọng việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, nhằm tạo ra
động lực mạnh mẽ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa: vì hạnh phúc của con
người, vì sự phát triển toàn diện của con người, trong đó có đạo đức cách mạng của
người học viên Học viện chính trị quân sự nói riêng và đạo đức cách mạng của
người quân nhân nói chung.
25

×