Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Luận văn vùng đất an giang thời kỳ 1757 1867

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 164 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, Phịng Khoa học cơng nghệ - Sau đại học, các thầy cô khoa Sử cùng tất cả các
bạn đồng học đã nhiệt tình giúp đỡ tơi hồn thành luận văn.
Tơi xin đặc biệt tỏ lịng kính trọng, biết ơn Tiến sĩ Trần Thị Thanh Thanh, cơ đã tận
tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận
văn này.
Tôi cũng xin tỏ lịng kính trọng, biết ơn Sở Khoa học cơng nghệ tỉnh An Giang, ban
Tuyên giáo tỉnh ủy, Viện Bảo tàng An Giang, các vị sư sãi ở chùa Xvayton, Hakêm của
thánh đường Mubarak đã hỗ trợ, giúp đỡ về nguồn tư liệu.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận tình của
q thầy cơ, sự hỗ trợ của gia đình, sự cố gắng hết sức mình, tơi đã có điều kiện tiếp thu
được những kiến thức và phương pháp vô cùng quý báu.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 11 năm 2004.

Nguyễn Ngọc Thủy

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu ...................................................................4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................5
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................................6
4. Những đóng góp mới của luận văn .............................................................................11
5. Nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................................12


6. Bố cục của luận văn ......................................................................................................14

CHƯƠNG 1:VÙNG ĐẤT AN GIANG TỪ THẾ KỈ 1 ĐẾN NĂM 1757 ............. 15
1.1. Sơ lược quá trình thành tạo và phát triển địa chất ................................................15
1.2. Diện mạo chính trị, kinh tế, xã hội ...........................................................................20
1.2.1. Thời kỳ từ thế kỉ thứ I - giữa thế kỉ thứ VII ..........................................................20
1.2.2. Thời kỳ từ giữa thế kỉ VII - giữa thế kỉ XVIII: thuộc lãnh thổ của vương quốc
Chân Lạp. ........................................................................................................................25
1.2.3. Đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của cư dân .....................................................36
1.2.4. Một vài nhận định .................................................................................................45

CHƯƠNG 2: DIỆN MẠO VÙNG ĐẤT AN GIANG (1757-1867)........................ 51
2.1.Tình hình chính trị......................................................................................................51
2.1.1. Tổ chức và cương vực hành chính thời kỳ 1757-1867 .........................................51
1.2. Những chính sách quản lý của chính quyền ở An Giang .........................................63
2. Tình hình kinh tế...........................................................................................................67
2.1 Q trình khơi phục và phát triển kinh tế nông nghiệp .............................................68
2.2 Hoạt động thủ công nghiệp và thương nghiệp ..........................................................85
3. Diện mạo văn hóa ..........................................................................................................90
3.1. Chủ thể của văn hóa An Giang.................................................................................90
3.2. Đời sống vật chất của cư dân ...................................................................................91
3.3. Đời sống tinh thần của cư dân ................................................................................103

CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM CON NGƯỜI AN GIANG (1757-1867) ................... 124
1. Người An Giang trong cải tạo, chinh phục tự nhiên.............................................124
2. Người An Giang trong đấu tranh xã hội ..................................................................127
2.1. Chống áp bức cường quyền ....................................................................................127
2



2.2. Chống giặc ngoại xâm ............................................................................................130

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 141
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 147
PHẦN PHỤ LỤC ..................................................................................................... 152

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Đồng bằng sông Cửu Long, vùng đất chứa đựng nhiều tiềm năng đồng thời cũng ẩn
giấu trong nó những khó khăn thử thách, ln có sức thu hút hấp dẫn, gợi nhiều mối quan
tâm và khao khát khám phá đối với nhiều nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực. Ở góc độ lịch
sử, việc nghiên cứu lịch sử từng miền, từng địa phương đóng vai trị quan trọng, góp phần
tích cực bổ sung sử liệu cho việc xây dựng lịch sử của cả vùng đồng bằng Nam bộ. Góp một
phần vào mối quan tâm chung đó, tác giả luận văn chọn đề tài nghiên cứu là lịch sử vùng
đất An Giang giai đoạn từ 1757 đến 1868.
Việc nhìn lại một cách toàn diện, biện chứng, đánh giá một cách nghiêm túc lịch sử
hình thành và phát triển của vùng đất An Giang cịn có ý nghĩa thực tiễn là giúp địa phương
vạch ra những chính sách, hoạch định những giải pháp, định hướng phát triển với những
mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể phù hợp với thế mạnh, khắc phục những điểm yếu trên cơ sở
nghiên cứu khoa học.
Việc bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ về quê hương đất nước, về con người An Giang
từ đó hình thành lịng yêu quê hương, tinh thần cần cù lao động, tinh thần năng động, sáng
tạo, hiếu học, trọng nhân nghĩa, gắn bó với cộng đồng... trở thành một yêu cầu bức thiết vì
đó là nguồn nội lực, thúc đẩy việc xây dựng và kiến thiết đưa đất An Giang tiến nhanh trên
con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sinh ra và lớn lên ở An Giang, ấp ủ những băn khoăn thắc mắc về lịch sử, văn hóa,
con người ở vùng đất mình đang sống, với luận văn này tơi mong có dịp lật những lớp bụi

thời gian chưa dày, góp một cái nhìn khoa học về lịch sử vùng đất An Giang, là một cách
biểu tỏ tình cảm với quê hương thân u của mình.
Mục đích của luận văn là dựng lại bức tranh lịch sử về vùng đất An Giang từ 1757
khi An Giang hòa nhập vào lãnh thổ Đại Việt đến 1867 khi thực dân Pháp chiếm được đất
An Giang. Để làm rõ nội dung trên, tác giả sẽ hệ thống hóa lại tiến trình lịch sử trên các lĩnh
4


vực chính trị, kinh tế, văn hóa của An Giang, làm rõ những nét đặc trưng của con người An
Giang trong quá trình lao động sản xuất và đấu tranh chống ngoại xâm.
Luận văn cịn cố gắng tìm hiểu q trình phát triển của lịch sử cũng là quá trình hình
thành một cách tự nhiên mối quan hệ giữa các cộng đồng dân cư cùng chọn An Giang làm
địa bàn sinh tụ. Mối quan hệ này khẳng định tính bền vững, sự gắn kết bền chặt của cộng
đồng cư dân, đồng thời cũng là nhân tố năng động phải được phát triển và củng cố khơng
ngừng trong tiến trình xây dựng vùng đất An Giang - chìa khóa để giải quyết những vấn đề
dân tộc, vấn đề ổn định biên giới - một vấn đề chính trị hàng đầu mà An Giang phải đối mặt
thường xuyên.
Cuối cùng, tôi là người sinh ra, lớn lên và làm công tác giảng dạy ở địa phương.
Việc nghiên cứu đề tài vùng đất An Giang 1757-1867 sẽ giúp tôi giảng dạy tốt môn lịch sử
địa phương và góp một phần vào việc biên soạn quyển Địa chí An Giang mà tỉnh ủy đang
có chủ trương tiến hành.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vùng đất An Giang trên bình diện tổng thể, xét
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và con người trong quá trình định cư, khai
phá, bảo vệ vùng đất An Giang đồng thời chú trọng những thành tựu đạt được trong giai
đoạn này. Cái nhìn tổng thể đó sẽ là cơ sở dựng nên một phần diện mạo đất và người ở An
Giang trong giai đoạn lịch sử 1757-1867.
Vùng đất này gọi là An Giang vào thời chúa Nguyễn đến khi thực dân Pháp xâm
lược có địa giới rất rộng, bao gồm Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang và một phần Đồng Tháp

(rộng khoảng 15.000km2). Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lịch sử thuộc trong phạm
vi không gian địa giới An Giang ngày nay (3.424km2).
Thời điểm lịch sử được giới hạn là khoảng giữa thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ XIX. Cụ
thể là từ năm 1757 khi An Giang chính thức trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam
đến 1867 khi Pháp chiếm được Nam kỳ trong đó có An Giang.

5


Đối tượng xã hội được đề cập để tìm hiểu về con người An Giang gồm các tộc người
Việt, Khơme, Chăm, Hoa trong đó người Việt là chủ yếu.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nguồn thư tịch cổ viết về giai đoạn lịch sử này rất phong phú. Đầu tiên là quyển Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1726-1783) viết vào khoảng năm 1776 . Lịch sử về vùng đất
An Giang thời kì này được viết tản mạn với tên gọi chung là vùng sông Tiền sông Hậu. Do
đây là nguồn thư tịch được viết vào thời điểm đang diễn ra cuộc khai khẩn, mở rộng vùng
đất phía Nam nên ta tìm thấy những sử liệu rất quý về cảnh quan, môi trường thiên nhiên
của đồng bằng Nam bộ khi chưa khai phá, những biến động kinh tế, chính trị và thành quả
mà chúa Nguyễn đạt được trong tiến trình khai hoang.
Tác phẩm Gia Định thành thơng chí của Trịnh Hoài Đức (1765-1825) được viết vào
khoảng đầu thế kỉ XIX dưới triều Gia Long (1802-1820) là quyển địa phương chí đầu tiên
đề cập đến vùng đất An Giang trong mục “Trấn Vĩnh Thanh”. Trong tác phẩm, những vấn
đề về địa giới, khí hậu, vùng đất, con người, sản vật, núi sông, thành quách ... của trấn Vĩnh
Thanh là nguồn tư liệu đầu tiên về An Giang mặc dù trấn Vĩnh Thanh có địa giới rộng gấp 5
lần tỉnh An Giang hiện nay. Ngoài ra, tác phẩm Gia Định thành thơng chí cịn ghi chép một
cách cẩn trọng và tỉ mỉ về quá trình khai phá mở mang vùng đất cực Nam Tổ quốc, việc
bang giao với hai nước láng giềng Cao Miên, Xiêm La. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và việc
Nguyễn Ánh khôi phục được địa vị thống trị của các chúa Nguyễn cũng được đề cập.
Bộ Đại Nam thực lục được vua Minh Mệnh cho biên soạn vào năm 1821, cơ quan

chịu trách nhiệm là Quốc sử quán triều Nguyễn. Bộ sách được viết theo quan điểm chính
thống của triều Nguyễn và theo lối biên niên. Đại Nam thực lục gồm hai phần. Đại Nam
thực lục tiền biên ghi chép lại giai đoạn lịch sử từ năm 1558 (Nguyễn Hoàng vào Nam), đến
năm 1777 (đời chúa Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Huệ đem binh chiếm Gia Định ). Đại
Nam thực lục chính biên ghi chép những sự kiện từ 1777 (Nguyễn Ánh bơn ba tìm cách
khơi phục lại quyền lực), đến 1889 ( Đồng Khánh mất - hòa ước Patơnốt đã được kí kết).
6


Đại Nam thực lục được ghi chép khá tường tận về tất cả các phương diện quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tài chính, ngoại giao, khí tượng và các cuộc đàn áp
phong trào đấu tranh của nhân dân. Với nguồn tư liệu này tuy được viết chung cho cả nước
nhưng có thể tìm được những tư liệu về lịch sử An Giang giai đoạn này trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội. Đặc biệt Đại Nam thực lục còn đề cập đến giai đoạn lịch sử 1858
khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đến năm 1867 là thời điểm Nam kì hồn tồn thuộc
Pháp. Tình hình xã hội Việt Nam trong đó có An Giang được khắc họa khá đậm nét.
Bộ Minh Mệnh chính yếu được Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào năm 1837.
Vua Minh Mệnh trực tiếp chỉ đạo về cả nội dung lẫn phương pháp ghi chép, chủ yếu là
những chỉ dụ của vua và những sự kiện xảy ra dưới thời Minh Mệnh. Qua bộ sách, tài liệu
gốc về cuộc chiến đấu giữ nước chống lại quân Xiêm, cuộc đấu tranh chống cường quyền
của nhân dân An Giang được viết ở Quyển XX từ năm Minh Mệnh thứ tư đến năm Minh
Mệnh thứ mười tám được ghi chép tỉ mỉ, là nguồn tư liệu lịch sử chủ yếu trong luận văn của
tác giả về vấn đề này.
Địa bạ An Giang lần đầu tiên được xác lập vào ngày mùng 3 tháng 6 năm 1836 dưới
triều Minh Mệnh thứ 17. Địa bạ An Giang cố 43 tập bao gồm Đồng Tháp, Cần Thơ, An
Giang, Sa Đéc, đây là nguồn tư liệu vơ cùng q báu để tơi có thể so sánh, đối chiếu những
vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu như địa danh, ruộng đất, thuế, cây trồng và những
vấn đề xã hội khác.
Đại Nam nhất thống chí là bộ sách địa lí - lịch sử, được biên soạn vào năm Tự Đức
29 (1875) hoàn thành khoảng năm 1881. Tỉnh An Giang được viết trongquyển XXX, chia ra

các mục như: ranh giới, hình thể tỉnh An Giang, ranh giới các huyện, phủ, các cơ quan tấn
sở trong bộ máy hành chính, thành trì, khí hậu, núi sơng, phong tục, hộ khẩu, thuế ruộng,
nhà trạm, chợ quán, thổ sản, đê đập, chùa miễu, nhân vật lịch sử... Ở tất cả các mục Đại
Nam nhất thống chí có rất nhiều tài liệu khơng những về địa lí mà cả về lịch sử, kinh tế,
chính trị, xã hội, nghệ thuật của tất cả các tỉnh từ Lạng Sơn đến Hà Tiên. Đây là nguồn cứ
liệu mà tôi khai thác nhiều nhất, điều khó khăn là tỉnh An Giang ngày xưa địa giới không
7


trùng khớp với địa giới An Giang ngày nay nên trong q trình nghiên cứu tơi phải giải
quyết những chi tiết phức tạp về địa danh, về số liệu thống kê, về việc xác định địa bàn đang
tìm hiểu có phải thuộc địa phận An Giang hay không.
Như vậy thư tịch cổ viết về vùng đất An Giang tuy khá phong phú nhưng ghi chép
rời rạc, xen kẽ với nhiều sự kiện khác. Cho đến nay, việc nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử
vùng đất Nam bộ vẫn đang cần một tài liệu nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách hoàn
chỉnh lịch sử An Giang trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, vẽ nên được diện mạo
của vùng đất An Giang trên bình diện tổng thể. Do vậy, các tài liệu nói trên vẫn là nguồn
chính để tác giả luận văn có thể tra cứu, tham khảo, đối chiếu trong quá trình nghiên cứu.
Trong thời cận đại và hiện đại, nhiều cơng trình nghiên cứu về lịch sử An Giang
hoặc đề cập đến tỉnh An Giang đã được công bố.
Vào những năm 1960, loại sách khảo cứu về các tỉnh thành xưa của Nam bộ được
xuất bản hàng loạt như Cần Thơ xưa, Vĩnh Long xưa, Hà Tiên xưa... Tác phẩm Tân Châu
xưa của tác giả Huỳnh Minh đề cập đến một phần đất của tỉnh An Giang cũng ra đời trong
thời kì này. Đây là loại sách chuyên khảo viết về vùng đất cù lao nổi tiếng, nơi định cư sớm
nhất của người Việt, nơi chúa Nguyễn đặt đạo Tân Châu để quản lí vùng đất mới tiếp quản
này. Tác giả Huỳnh Minh trình bày diện mạo vùng đất Tân Châu qua các mặt kinh tế, di
tích, địa phận, tín ngưỡng, và nhân văn của vùng đất Tân Châu từ 1757 đến 1965, phần
dành cho giai đoạn lịch sử 1757-1867 rất ít, nguồn tư liệu được thu thập chủ yếu phản ảnh
những hoạt động thủ cơng nghiệp của vùng đất này.
Thất Sơn huyền bí của Nguyễn Văn Hầu cũng là quyển địa phương chí viết về vùng

đất An Giang trong đó có một số thơng tin về đạo Bửu Sơn Kì Hương, Tứ An Hiếu Nghĩa
được tìm thấy trong nội dung sách. Điểm hạn chế lớn nhất của tác phẩm là mang màu sắc
tôn giáo và đậm nét thần bí.

8


Ngồi ra cịn có những chun khảo, tập san Xưa và Nay, các tạp chí Bách khoa và
Phổ thơng cũng thường đề cập đến lịch sử các vùng đất Nam bộ ở một góc độ, một mảng
nào đó. Đây cũng là một nguồn tài liệu tham khảo rất quý.
Vào thập niên 70 và 80, nhiều nhà sử học có tâm huyết cơng bố nhiều tác phẩm có
giá trị, đi sâu về một vấn đề nào đó của lịch sử vùng đất Đồng bằng sơng Cửu Long.
Phan Khoang có tác phẩm Việt sử xứ Đàng Trong, được viết vào những năm 1970.
Tác phẩm này có nội dung chính là q trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam thời chúa
Nguyễn, tiến trình xác lập chủ quyền trên đất Nam bộ trong đó có An Giang.
Thoại Ngọc Hầu và cơng cuộc khẩn hoang vùng Hậu Giang của Nguyễn Văn Hầu,
là một trong những tác phẩm nổi tiếng, được xuất bản vào năm 1973. Tác giả viết về cuộc
đời và sự nghiệp của Thoại Ngọc Hầu, trong đó dành một phần khá lớn viết về những cơng
trình đào kênh, mở đường, lập ấp ở An Giang của Thoại Ngọc Hầu vào giai đoạn cuối thời
Gia Long đầu thời Minh Mạng. Qua tư liệu lịch sử này, ta phần nào hình dung được cơng
cuộc khai khẩn đất đai, định cư của lưu dân Việt.
Lịch sử khẩn hoang miền Nam của tác giả Sơn Nam xuất bản năm 1973, là tập hợp
những bài viết về các vấn đề lịch sử của Nam bộ trong đó có những phần liên quan trực tiếp
đến An Giang như bài viết Đóng góp vài số liệu về vùng đất An Giang vào những năm cuối
thế kỉ XVIII, XIX, tác giả đã căn cứ vào những số liệu cụ thể về việc khẩn hoang lập làng
trong từng thời điểm lịch sử, vạch ra các chặn đường phát triển của An Giang trong tiến
trình định cư, khai phá. Hoặc trong bài viết Kinh Vĩnh Tế với công cuộc phát triển kỉnh tế,
xã hội vùng đất biên giới Châu Đốc, Hà Tiên ở nửa đầu thế kỉ XIX , tác giả chỉ ra rằng việc
đào kinh đã tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển kinh tế, ổn định tình hình chính trị của An
Giang. Nội dung bài Nguyễn Hữu Huân nhà u nước kiên cường bất khuất có trình bày

những điều phản ảnh con người của vùng đất An Giang.

9


Trong quyển Đất Gia Định xưa, nhà văn Sơn Nam đề cập đến nhiều vấn đề như đất
đai, thiên nhiên phong thổ, phong tục, tập quán của vùng đất Nam bộ và công cuộc khai
khẩn vùng biên giới Tây Nam.
Lịch sử An Giang của là quyển địa phương chí của Sơn Nam viết về vùng đất An
Giang từ khi mới hòa nhập vào lãnh thổ nước ta cho đến thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
Những trang về An Giang của Ban khoa giáo tỉnh An Gang biên soạn mục tiêu chủ
yếu là viết về giai đoạn chống Mỹ cứu nước.
Sử Cao Miên của Lê Hương với nguồn tư liệu khá phong phú, dựa vào nguồn tài liệu
này ta có thể hiểu phần nào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Chân Lạp vào khoảng thế
kỉ XV đến XIX.
Từ góc nhìn về vai trị của quần chúng nhân dân, có nhiều cơng trình nghiên cứu
góp phần làm phong phú thêm cách nhìn nhận và đánh giá vấn đề với những mảng đề tài về
ruộng đất như: Chế độ ruộng đất ở Việt Nam, Những quan hệ sở hữu trong bộ phận ruộng
đất công làng xã trong nông thôn Việt Nam, Tình hình ruộng đất và đời sống nơng dân dưới
triều Nguyễn của nhà sử học Trương Hữu Quýnh, trình bày vấn đề về Chân Lạp như Lịch sử
Cămpuchia của Phạm Việt Trung, Phong tục tập quán Cămpuchia của Nguyễn Bắc.
Việc nghiên cứu lịch sử Nam bộ từ khoảng 20 năm trở lại đây thực sự đi vào chiều
sâu, làm phong phú thêm nguồn tư liệu lịch sử.
Hàng loạt các cơng trình nghiên cứu được cơng bố: Nước Chí Tôn, một quốc gia cổ
ở miền Tây sông Hậu của Lương Ninh, Văn hóa Ĩc Eo những khám phá mới, Khảo cổ học
Đồng Nai, Văn hóa cổ Ĩc Eo và các văn hóa cổ ở Đồng bằng sơng Cửu Long của Lê Xuân
Diệm, Đào Linh Côn, là nguồn tư liệu khảo cổ học quý giá về nền văn minh Phù Nam đã
từng tồn tại trên đất An Giang.


10


Văn hóa và cư dân đồng bằng sơng Cửu Long của Nguyễn Cơng Bình, Lê Xn
Diệm, Mạc Đường nghiên cứu về các tộc người sinh sống trên vùng đất Nam bộ với phong
tục, tập quán, tín ngưỡng... là nguồn tư liệu phong phú về văn hóa. Các cộng đồng cư dân
cùng sinh sống trên đất An Giang cũng được đề cập đến trong những tác phẩm chuyên khảo
như Người Chăm ở đồng bằng sông Cửu Long của Nguyễn Văn Dốp, Một số tập tục của
người Chăm ở An Giang của Lâm Tâm , Người Khơme ở đồng bằng Nam bộ... Những vấn
đề quen thuộc đã từng đề cập trước đây cũng tiếp tục được nghiên cứu và công bố với
những cách nhìn và quan điểm mới mang tính cập nhật cao như: Lễ Thành Hầu Nguyễn
Hữu Cảnh của Nguyễn Ngọc Hiền, Bang giao Việt - Miên của Trần Thềm... Ngoài ra các
bài viết trong các kỷ yếu hội thảo khoa học, trên các báo chuyên ngành được công bố
thường xuyên, các địa phương chí của nhiều tỉnh thành ở miền Nam được cơng bố, nhất là
cuốn Địa chí An Giang đang ở giai đoạn sơ thảo... là những tư liệu phản ảnh q trình
nghiên cứu có đề cập hoặc liên quan đến lịch sử An Giang, phản ảnh lịch sử nghiên cứu vấn
đề của đề tài luận văn này.

4. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn có thể có những đóng góp mới như sau:
Qua việc phân tích, lí giải những tư liệu lịch sử về thực trạng vùng đất An Giang
trước khi người Việt đến, luận văn góp phần khẳng định những đóng góp thực sự của người
Việt đúng như đã diễn ra.
Luận văn trình bày có hệ thống lịch sử vùng đất An Giang từ 1757 đến 1867 về quá
trình khai phá và định cư của con người trên vùng đất mới, quá trình xác lập và biến đổi
thiết chế hành chính qua các thời kì lịch sử, những biến động chính trị ở vùng biên giới,
phương thức sinh sống, đời sống tinh thần và mối giao lưu văn hóa của các tộc người Việt,
Hoa, Khơme, Chăm qua đó có thể hình dung diện mạo của đất và người An Giang trong
thời kì lịch sử này.


11


Trong quá trình giải quyết những vấn đề đặt ra, dựa vào nguồn thư tịch cổ, các tài
liệu viết về vùng đất này, một số tư liệu do các Acha (cịn gọi là sãi cả, người trụ trì của
chùa) vùng Tri Tôn, các Hakêm (người đứng đầu thánh đường Hồi giáo) ở Châu Giang và
kết quả nghiên cứu khảo cổ học trong những năm gần đây, luận văn đã cập nhật kiến thức
về vùng đất An Giang hiện nay, góp phần làm phong phú nguồn tư liệu về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội thuộc giai đoạn lịch sử này.
Việc tìm hiểu địa danh, so sánh, đối chiếu giữa địa danh An Giang xưa và nay cũng
là một đóng góp của đề tài.

5. Nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn tác giả đã sử dụng những nguồn sử liệu sau:
1. Nguồn sử liệu vật chất: Là những di vật trong nền văn hóa Ĩc Eo, những cơng
trình kiến trúc như đền, đình, chùa, tháp, mộ... được xây dựng trong giai đoạn 1757-1867.
Đây là nguồn sử liệu có giá trị chân thực, phản ảnh hoạt động vật chất và tinh thần của
người đương thời, qua đó tác giả luận văn có thể hình dung được trạng thái kinh tế, văn hóa
và đời sống cư dân, suy đoán về các mối quan hệ xã hội, quan hệ văn hóa, xác nhận những
sự kiện được ghi chép trong các tài liệu khác.
2. Nguồn sử liệu từ những lễ hội: Lễ hội là sinh hoạt văn hóa tinh thần của địa
phương An Giang, tồn tại ở mỗi cộng đồng cư dân An Giang, người nghiên cứu qua đó có
thể hiểu biết về phong tục tập quán, mối giao thoa văn hóa của các cộng đồng cư dân Hoa Việt – Khơme - Chăm.
3. Nguồn sử liệu truyền miệng: Từ các Acha ở chùa Svai-Stón, Hakêm ở thánh
đường Hồi giáo Châu Giang, tác giả luận văn thu thập nhiều nguồn tài liệu quý giá về dân
tộc Khơme và Chăm. Các cha sở ở nhà thờ Năng Gù, cù lao Giêng, các vị sư trụ trì chùa
Phy Lai Tịnh Biên, chùa Ong Bổn ở thành phố Long Xuyên, ban quản trị đình thần Châu
Phú, Châu Đốc, miếu Bà chúa Xứ đã cung cấp cho tác giả nhiều nguồn tài liệu về giáo phái
Bửu Sơn Kì Hương, Tứ An Hiếu Nghĩa, các hình thức tín ngưỡng của các tộc người Việt,
12



Hoa, Chăm, Khơme trên đất An Giang. Những nguồn tư liệu này tôi đặc biệt ghi nhận và sử
dụng trong luận văn của mình.
4. Nguồn sử liệu thành văn: Đây là nguồn sử liệu từ các thư tịch cổ, các cơng trình
nghiên cứu, các sách chun khảo...có vai trị quan trọng nhất trong nguồn tư liệu tham
khảo được sử dụng để hoàn thành luận văn. Bên cạnh những tài liệu được trình bày ở phần
lịch sử nghiên cứu vấn đề và danh mục tư liệu tham khảo, những bài viết trong báo và tạp
chí chuyên ngành, những bài phát biểu trong các cuộc hội thảo khoa học... được công bố
thường xuyên cũng là nguồn tài liệu mang tính cập nhật cao được sử dụng trong luận văn
này.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu
sau:
1. Phương pháp hệ thống hóa: Đặt An Giang trong bối cảnh chung của lịch sử dân
tộc, hệ thống lại những vấn đề được viết tản mạn, rải rác trong các tài liệu khác
nhau, từ nhiều nguồn khác nhau, liên quan đến lịch sử An Giang. Phương pháp hệ
thống hóa là cơ sở để trình bày những nội dung trong luận văn.
2. Phương pháp khảo sát điền dã: Tác giả luận văn đã tiếp xúc với những di tích lịch
sử được cơng nhận có trong giai đoạn lịch sử 1757-1867, sưu tầm tài liệu trong
các chùa Khơme, thánh đường Hồi giáo Chăm, chùa Phy Lai nơi khai sinh đạo Tứ
An Hiếu Nghĩa, thư viện của các nhà thờ Thiên chúa giáo..., sống trong các phum
người Khơme, phalay của người Chăm để hiểu về phong tục tập quán, cách sinh
sống...
3. Phương pháp liên ngành: Tác giả luận văn đặc biệt chú trọng phương pháp này
trong quá trình thực hiện đề tài, kết hợp chủ yếu các loại tài liệu và kế thừa thành
tựu nghiên cứu của các ngành: lịch sử, địa lí học, khảo cổ học, dân tộc học, văn
học.

13



4. Đồng thời với việc sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngành học là phương
pháp lịch sử, phương pháp lơgíc, tơi cịn dùng phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh để tìm mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, nhằm nêu bật nội dung
cốt lõi, bản chất của sự vật, sự việc, cố gắng trình bày lịch sử như nó đã từng diễn
ra.

6. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm 200 trang. Phần nội dung chính là 147 trang, trong đó gồm phần mở
đầu 13 trang, kết luận 7 trang, tài liệu tham khảo 5 trang, phần phụ lục 28 trang. Luận văn
được chia làm 3 chương.
Chương 1: Vùng đất An Giang từ thế kỉ thứ 1đến trước năm 1757
Chương 2: Diện mạo của vùng đất An Giang (1757-1867)
Chương 3: Đặc điểm của con người An Giang (1757-1867)

14


CHƯƠNG 1:VÙNG ĐẤT AN GIANG TỪ THẾ KỈ 1 ĐẾN NĂM
1757
1.1. Sơ lược quá trình thành tạo và phát triển địa chất
Lịch sử trái đất và sinh vật sống trên trái đất chia làm 5 đại: Đại Thái cổ (3.500 triệu
năm trước đây - kéo dài 900 triệu năm), đại Nguyên Sinh (2.600 triệu năm trước đây - kéo
dài 2.030 triệu năm), đại Cổ Sinh (570 triệu năm trước đây - kéo dài 340 triệu năm), đại
Trung Sinh (230 triệu năm trước đây - kéo dài 150 triệu năm), đại Tân Sinh (70 triệu năm
trước đây).
Đại Thái cổ và đại Nguyên Sinh kéo dài 2.930 triệu năm, khi đó lớp vỏ trái đất chưa
ổn định, hầu như khơng có di tích, do sinh vật trong giai đoạn này là lồi nhuyễn thể khi
chết bị phân hủy.
Đại Cổ sinh chia làm 6 kỉ: Camri, Octuary, Xilua, Devon, Than đá (Carbon), Permơ.

Địa chất có hiện tượng biển tiến hay cịn gọi là biển lên bờ. Sinh vật chiếm ưu thế là dương
xỉ, rêu. Động vật khơng xương chiếm ưu thế, có hiện tượng chinh phục đất liền, xuất hiện
động vật lưỡng cư như ếch nhái.
Đại Trung sinh chia làm 2 kỉ: Kỉ Tam Điệp (đất đá 3 lớp), kỉ Phấn Trắng (vỏ con trùng
lỗ khi chết vôi lắng đọng bao phủ bề mặt trái đất). Sinh vật chiếm ưu thế là các loại cây hạt
trần như trám, thông, các loại động vật như bị sát khổng lồ.
Trong Đại Tân Sinh có ba kỉ: Palêơgen, Nêơgen (cịn gọi chung là kỉ Đệ Tam),
Antrơpơgen (còn gọi là kỉ Đệ Tứ hay kỉ Nhân Sinh). Kỉ Palêôgen, Nêôgen là giai đoạn đại
phồn thịnh của thực vật hạt kín, động vật có sâu bọ, chim thú, động vật. Cuối kỉ Đệ Tam
vượn cổ xuất hiện, đầu kỉ Đệ Tứ loài người xuất hiện trên trái đất.
Trong mỗi kỉ có nhiều thế, kỉ Đệ Tam có 5 thế: Thế Palêơxen (Cổ Tân) trái đất đóng
băng ở phía Bắc, phía Nam ấm áp, thế Êơxen (Thủy Tân) trái đất nóng lên, thực vật hạt kín
phát triển khắp nơi cùng với các loại thú, lớn nhất là loài khủng long, thế Ơligơxen (Tiệm
15


Tân) dạng vượn người cổ phát triển, thế Miôxen (Trung Tân - thế thứ 4 cách đây khoảng 5
triệu năm) vượn người phát triển, thế Pliôxen (Thượng Tân - thế thứ 5 cách đây khoảng 1,8
triệu năm) trái đất trở lạnh, người vượn xuất hiện.
Trong kỉ Đệ Tứ có 2 thế: Thế Plêixtôxen (Cánh Tân - cách đây khoảng 0,01 triệu năm)
thời kì băng hà, lồi người Homosapiens xuất hiện, thế Hơlơxen (Tồn Tân - cách đây
khoảng từ 11.000 năm đến 6.000 năm) thời kì sau băng hà, băng tuyết tan chảy.
Nằm trong lịch sử địa chất như đã trình bày, sự thành tạo và phát triển địa chất để lại
dữ liệu trong các lớp trầm tích cho thấy rằng: Đồng bằng sơng Cửu Long nói chung và An
Giang nói riêng vào đầu thế Pliôxen (Thượng Tân) cách đây khoảng 1,8 triệu năm, lúc trái
đất trở lạnh, người vượn xuất hiện thì ở vùng đất Đồng bằng sơng cửu Long hiện nay, hàng
loạt các hoạt động tân kiến tạo đã làm vỏ trái đất ở đây bị nứt nẻ. Kết quả của các hoạt động
này là sự hình thành hai khối nâng lớn: khối nâng Nam Trung Bộ và khối nâng Campuchia.
Giữa hai khối nâng này là khối sụt lún. Vùng đồng bằng Nam Bộ hiện nay nằm trong vùng
trũng rộng lớn đó. Vận động tân kiến tạo này cịn tạo ra một hệ thống đứt gãy tạo lòng cho

hệ thống sơng Cửu Long hình thành và phát triển.
Vùng trũng này bị sụt lún từ từ, nước biển tiến vào biến nó thành một vịnh biển mênh
mơng gần suốt thế Pliơxen. Dấu tích của thời kì biển tiến này cịn để lại là vết sóng biển,
các thềm biển cổ ở những vùng quanh núi Câm, núi Dài, núi Phú Cường và nhóm đất trầm
tích mà ngày nay thường gặp trên bề mặt đất ruộng ở vùng Vĩnh Gia, Lạc Quới (An Giang).
Tại Long Xun lớp trầm tích này được tìm thấy ở độ sâu 30 m đến 40 m.
Cuối thế Pliôxen đầu kỉ Đệ Tứ thế Plêixtôxen cách đây khoảng 1 triệu năm, đồng
bằng Nam Bộ hiện nay được giải phóng khỏi lớp nước sâu. Thời kì biển thối kéo dài suốt
thế Plêixtơxen (Cánh Tân) tức suốt thời kì băng hà khi người hiện đại (HomoSapiens) xuất
hiện.
Cách nay khoảng 400.000 năm mực nước biển ở độ cao trên 100 m so với hiện nay,
đến thời kì cách nay khoảng 100.000 năm nước rút xuống thấp khoảng 50 m so với mực
16


nước biển hiện nay, cách nay khoảng 11.000 năm mực nước biển rút xuống đến mức thấp
nhất, dưới mức nước biển hiện nay khoảng 100-120 mét. Nước biển hạ thấp để lộ một vùng
đất rộng lớn, một dải lục địa, đó là lục địa Nam Trung Quốc, bán đảo Đơng Dương, các
quần đảo Inđônêxia, Philippin nối liền nhau. Đường bờ biển ở tận Nam Philippin,
Inđônêxia. Và do vậy những dấu vết văn hóa của người tối cổ trên con đường từ lục địa ra
hải đảo được phát hiện ở nhiều nơi.
Trong giai đoạn này An Giang nói riêng và cả một vùng lãnh thổ rộng lớn từ biên giới
Việt Nam - Campuchia đến tận bậc thềm biển Đơng nói riêng chịu ảnh hưởng của q trình
xâm thực bào mịn. Điều này được khẳng định dựa vào lớp trầm tích rừng sú vẹt và cả đầm
lầy nước ngọt bị chôn vùi bên dưới lớp trầm tích biển hiện tại. Hệ thống đứt gãy đã tạo lịng
cho hệ thống sơng Cửu Long hình thành và phát triển trong giai đoạn trước trong giai đoạn
này đã hình thành nên các thung lũng sơng cổ. Giai đoạn này được đánh dấu bằng một bề
mặt phong hóa, xâm thực mà ngày nay thường gặp ở An Giang tại độ sâu từ 30 m đến 50 m.
Ở kỉ đệ Tứ, thế Hơlơxen (Tồn Tân) thời kì sau băng hà cách đây khoảng từ 11.000 năm
đến 6.000 năm. Băng tan chảy, mực nước biển dâng lên, biển tiến dần vào đồng bằng và

tràn vào những nơi có địa hình thấp hình thành một chế độ biển nơng ven bờ. Vào giữa
Hơlơxen, biển tiến cực đại trên tồn đồng bằng để lại trên vách đá vôi vùng Hà Tiên một vết
khuyết ngang ở độ cao 4-5m - đó là vệt tích mài mịn của sóng biển kht sâu vào đá tạo
thành các hang gọi là hang chân sóng. Cả vùng An Giang đều bị ngập trong nước biển ngoại
trừ một số vùng đồi núi ở Tri Tôn, Tịnh Biên. Cảnh quan lúc bấy giờ của cả An Giang là
các vùng biển nông xen với vũng vịnh và đầm lầy mặn mà dấu vết còn để lại là các mỏ sò ở
Vọng Thê được xem là sinh sống trong giai đoạn biển tiến Hơlơxen có niên đại được xác
định là cách nay từ 4.870 năm đến 5.600 năm. Vùng Bảy núi, núi Ba Thê, núi Sập, núi Sam
(là hòn Sam trước đây nằm giữa biển) có nơi cịn vết tích bị sóng biển vỗ mịn cao khoảng 4
đến 5 mét.
“Sau khi đạt mức cực đại, mực nước biển đứng lại trong một thời gian, sau đó hạ
xuống dần để lại trong vùng An Giang một lớp trầm tích bùn nhão màu xám xanh mà hiện
17


được tìm thấy ở vùng núi Chốc, Ba Thê, xung quanh núi Cơ Tơ, kênh Trà Sư... Tầng trầm
tích biển Hơlơxen này có nơi nằm cách mặt đất hiện tại 10 m, nhưng cũng có nơi chỉ cách
vài mét, thậm chí có nơi chỉ vài tấc như ở vùng Vọng Thê, núi Chóc, Tân Tuyến. Cũng
trong giai đoạn này, do ảnh hưởng của quá trình lui dần của biển và đặt biệt là hoạt động
mạnh mẽ của hệ thống đứt gãy sơng Tiền, sơng Hậu nên nhiều dịng sơng đổi dịng chảy
sang hướng Đơng để lại nhiều dịng sơng chết mà ngày nay được gọi là sơng cổ. Dấu tích
của sông cổ được thể hiện rất rõ ràng bằng lớp trầm tích giàu hữu cơ xen với các vỉa than
bùn khá rộng lớn ở phía Tây An Giang” [14, 150].
Cách đây khoảng 4.000 năm, biển tiếp tục lùi. Biển càng lùi, hoạt động bồi lấp của
sông Tiền và sông Hậu càng mạnh. Đồng bằng sơng cửu Long hình thành do được bồi lấp
vì cuộc hành trình dài bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng đến Việt Nam - chặng cây số thứ
bốn ngàn, sông MêKông kéo theo một khối lượng rất lớn chất rắn - cát, đất sét tích, những
vật liệu này tích tụ lại trong lịng các nhánh sơng, hoặc trong biển. Tại đó, chúng tạo thành
những bãi bùn lầy ven biển, bị nhấn chìm dưới nước thủy triều định kì.
Những khu vực đầm lầy này dần dần bị xâm chiếm bởi một loài thực vật thân cứng,

mọc dày đặc và rất thích hợp với thủy triều và nước mặn - rừng sú vẹt. Chính rừng sú vẹt
này sẽ cố định và củng cố bùn để trở thành vùng đất ổn định. Vùng châu thổ cứ thế tiến dần
ra biển. Bên cạnh đó với khối lượng phù sa lên tới 1.000 triệu tấn/ năm, gấp 7,8 lần tổng
khối lượng phù sa sông Hồng. Một phần phù sa theo lũ tràn bờ đi vào đồng nội, phần chủ
yếu đưa ra cửa sông, bồi tụ vùng ven biển trên lớp trầm tích hỗn hợp giữa sơng và biển nhất
là lưu vực từ sông Hậu đến Tri Tôn và Tịnh Biên. Qua hàng ngàn năm tranh chấp với sóng
biển: Sơng đưa phù sa ra biển, biển tác động lại bằng thủy triều và dòng biển ven bờ, những
vùng đầm lầy được bồi đắp, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mênh mông phù sa màu
mỡ được hình thành.
Khi chưa có bàn tay con người khai thác, vùng đất An Giang có nhiều đầm lầy và
kênh rạch chia cắt dọc ngang. Do nước lũ hàng năm theo sông tràn ngập đồng bằng, bùn cát
hạt thô lắng đọng lại ven sông, phù sa mịn theo dòng nước đi bồi lắng nơi xa hơn. Gần sông
18


bồi nhiều thành vùng đất cao, xa sơng bồi ít hình thành các ơ trũng, ao , hồ, đầm lầy. Vùng
nước chảy xiết ít bồi tụ bằng vùng nước chảy chậm. Bộ mặt đồng bằng An Giang trở nên lồi
lõm với các gò đất cao hẹp kéo dài, các cù lao mới hình thành do bồi lắng, các vùng trũng
thấp rộng lớn vừa nhiễm phèn vừa nhiễm mặn mà vết tích lớn nhất là tứ giác Long Xuyên,
Châu Đốc, Kiên Giang, Đồng Tháp Mười. Hình ảnh nay cịn lưu dấu dưới ngịi bút của
Trịnh Hồi Đức trong tác phẩm Gia Định Thành thơng chí “ao chằm dăng ngang” “sơng
suối dọc ngang la liệt” [8,78].
Nhìn vào lược đồ biển tiến, biển thối, các lịng sơng cổ, các vùng đất cổ và đất bồi
tích của GS.TS Trần Kim Thạch [phụ lục trang 172] ta thấy rõ quá trình hình thành châu thổ
của sông Cửu Long vào thời đại trước công nguyên: biển tiến, biển thối vẫn uy hiếp tồn
bộ bề mặt đồng bằng.
Mặc dù biển rút, sông hoạt động mạnh, vùng đất An Giang nói riêng và cả vùng Tây
Nam Bộ nói chung vẫn cịn là đầm lầy hoang vắng, khơng có dấu tích của con người. Khi
đó ở lưu vực sơng Hồng các nền văn hóa đá cũ đã lùi sâu vào lịch sử, nền văn hóa đồng thau
Phùng Nguyên - Hoa Lộc đã phát sinh, tiếp đến là Đồng Đậu, Gị Mun, Đơng Sơn với nền

văn minh sơng Hồng rực rỡ. Khi đó, người tiền sử ở vùng Đơng Nam Bộ sau đá cũ cũng đã
bước sang giai đoạn đá mới (Cầu Sắt, cách đây 5.000 năm), văn hóa đá đồng (núi Gốm,
cách đây 4.000 năm), văn hóa đồng thau (Dốc Chùa, cách đây 3.000 năm), số lượng các di
tích cư trú, các thành cổ, các khu mộ cổ khoảng 150 địa điểm nhưng chỉ tập trung ở khu vực
tỉnh Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương hiện nay với độ cao từ 10m đến 200m chứ chưa
chinh phục được vùng thấp, vùng đồng bằng sơng Cửu Long có độ cao từ 1 đến 2 m so với
mực nước biển.
Với trình độ sản xuất cịn thấp, người tiền sử ở Đơng Nam bộ (thuộc chủng
Inđơnêdiêng nói tiếng Mơn-Khơme cổ đại) chưa thích ứng với mơi trường thiên nhiên chưa
ổn định - vùng đất địa dư quá thấp, nhưng chinh phục vùng đất mới bồi lấp luôn là mục tiêu
của cư dân Đông Nam bộ. Trong khoảng thời gian từ 500 năm trước công nguyên cho đến
khoảng đầu công nguyên, khi mực nước biển rút sâu hơn nữa thì dấu vết những vùng quần
19


cư của họ đến tận một số vùng ven biển thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trong đó có một
nhánh đến An Giang, Kiên Giang, sau này đọng lại ở Ĩc Eo, là cư dân của “nước Chí Tơn”
- Naravara Nagara mà có lẽ là bộ phận chính của cư dân vương quốc Phù Nam” [27, 19].
Bên cạnh chủng Inđơnêdiêng nói tiếng Mơn-Khơme Đơng Nam Bộ, tại những vùng đồi núi
đá tại Châu Đốc đã phát hiện những công cụ đá mài, dấu tích của người tiền sử Khơme cực
Nam .
Do vậy, khi châu thổ sơng Cửu Long hình thành, người tiền sử ở Đông Nam Bộ, người
Chăm, bộ phận cực Nam của người Khơme hoặc các tộc người ở quần đảo Inđônexia, Mã
Lai thiên di đến, chọn vùng đất này làm địa bàn sinh tụ. Cư dân đầu tiên của vùng đất này là
ai? Các cư dân Mã Lai đa đảo thiên di đến hay người bản địa. Họ là người Chăm hay người
Khơme, hay cả Chăm và Khơme, hoặc một tộc người nào đó nay đã bị diệt vong từng sống
trên những vùng đất hẹp và tiến về đồng bằng là mục tiêu để sinh tồn? Tất cả đều chưa thể
khẳng định một cách chắc chắn, nhưng điều có thể kết luận là vùng đồng bằng Nam bộ là
vùng đất trẻ, đến những thế kỉ đầu công nguyên thiên nhiên mới mở ra những điều kiện
tương đối thuận lợi cho cuộc sống con người, tiếp nhận các cộng đồng cư dân vì một lý do

nào đó phải thiên đi tìm đất sống. Tất cả chưa thật thống nhất, nhưng sự tồn tại của vương
quốc Phù Nam với nền văn hóa Ĩc Eo - (Vọng Thê, An Giang) nổi tiếng trong lịch sử cổ đại
Đông Nam Á là một điều có thực, đánh dấu một bước tiến có ý nghĩa lịch sử _ Có dấu chân
người_ có dấu vết khai phá của vùng đất Tây Nam Bộ nói chung, mà An Giang là trọng
điểm.

1.2. Diện mạo chính trị, kinh tế, xã hội
1.2.1. Thời kỳ từ thế kỉ thứ I - giữa thế kỉ thứ VII: thuộc lãnh thổ của vương quốc
Phù Nam
Đây là quốc gia cổ ra đời sớm ở Đông Nam Á. Lịch sử viết về vương quốc Phù Nam
được ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Hoa là sớm nhất, do hai sứ thần Trung Hoa tên là
Khang Thái và Chu Ứng sang thăm nước này vào giữa thế kỉ thứ III sau công nguyên. Sau
20


đó, nhiều nhà khoa học phương Tây từ hơn một thế kỉ nay và hiện nay nhiều nhà nghiên
cứu khảo cổ học Việt Nam đã cố gắng xây dựng lại lịch sử của vương quốc này không chỉ
bằng thư tịch cổ, bi kí mà cịn tiến hành nhiều cuộc khai quật khảo cổ. Đến những năm 40
của thế kỉ XX với cuộc khai quật của nhà khảo cổ học người Pháp Malleret, những dấu vết
vật chất của văn hóa Phù Nam được phát hiện lần đầu tiên ở Óc Eo (An Giang), sự tồn tại
của vương quốc này được khẳng định.
Hiện nay số lượng di tích thuộc nền văn hóa này ở Việt Nam đạt gần 90 địa điểm từ
châu thổ thấp miền Tây sông Hậu đến vùng cao miền trung lưu sông Đồng Nai [phần phụ
chú trang 174] trong đó tỉnh An Giang được xem là địa bàn trọng điểm tập trung nhiều nhất
các địa điểm khảo cổ [phần phụ chú trang 175] ở Campuchia vùng trung tâm vương quốc
Phù Nam có thể gắn liền với những di tích Angko Borei, Phnom Da, Ba Phnom, Sambor
Preikuk ở mạn Đông Nam lãnh thổ Campuchia. Từ những kết quả khai quật khảo cổ học,
các nghiên cứu của các nhà sử học, các chuyên gia bảo tồn bảo tàng về văn hóa Óc Eo khôi
phục lại diện mạo của một nền văn minh cổ đã bị chôn vùi dưới lớp bụi thời gian hàng
nghìn năm, càng gợi mở nhiều nhận thức mới về các qui luật phát triển lịch sử, xã hội trên

vùng đất Nam bộ trong đó có An Giang.
Phù Nam là cách phát âm theo tiếng Trung Quốc, có lẽ xuất phát từ hai chữ được
phiên âm từ tiếng Môn-khơme cổ “B'iu-nam”, ngày nay đọc là “phnom” (có nghĩa là núi )
mà ra. Các vua Phù Nam đều lấy vương hiệu là “Kurung ETiunam” có nghĩa là “vua núi”.
Theo D.G.E. Hall, vương quốc này có vùng định cư ban đầu nằm dọc theo sông
Mêkông từ Châu Đốc đến Phnôm Pênh [13,50]. Trong một thời gian nhất định, thủ đô của
Phù Nam là Vydhapura, hay “thành phố của những người thợ săn” nằm gần đồi Ba Phnom
và làng Banam hiện nay thuộc tỉnh Preiveng của Campuchia. Điều này căn cứ vào minh văn
trong ngôi chùa Chakret dưới chân núi[59,93].
Thư tịch cổ Trung Hoa - bộ sử Lương Thư (năm 502-556) viết về vị trí nước Phù Nam
“Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía Tây biên. Nước
21


cách Nhật Nam chừng 7.000 hải lí và cách Lâm Áp chừng hơn 3.000 hải lí về phía Tây
Nam. Đơ thành cách biển 500 hải lí. Một con sơng lớn từ Tây Bắc chảy về phía Đơng và đổ
ra biển. Nước rộng hơn 3.000 hải lí. Đất thấp và bằng phẳng. Khí hậu và phong tục đại thể
giống Lâm Áp” [13,54].
Thủy tổ dựng nước Phù Nam là Kaundinya (âm Phạn, âm Hán - Việt là Hỗn Điền,
âm La Tinh là Hun-t'ien ). Ơng là người nước ngồi, có thể đến từ Ấn Độ, được dẫn dắt tới
vương quốc tương lai của mình, định mệnh của mình, bằng một giấc mơ, được thần linh cho
một cây cung và dặn đi thuyền ra biển. Sau thời gian dài lênh đênh Kaundinya đến bên
ngồi thành Phù Nam. Nước Phù Nam lúc đó do một phụ nữ làm vua là Sôma (tức Liễu
Diệp âm Hán -Việt, Liuyeh âm LaTinh). Nàng trẻ khỏe như một chàng trai. Trong lúc giao
tranh, nhờ có tên thần Kaundinya trương cung bắn. Mũi tên xuyên qua mạn thuyền bay tới
gần Sôma, cả sợ Sôma xin thần phục. Kaundinya dạy Sơma khốc tấm vải để che thân.
Chàng lấy Sơma làm vợ và cai quản vương quốc. Kauundinya dạy cho dân ngôn ngữ, văn tự
Sankrit, luật pháp [59,13] và tổ chức nhà nước theo chế độ “quân chủ chuyên chế dựa trên
nền tảng liên minh giữa quí tộc với quan liêu chịu ảnh hưởng chi phối của quan hệ cộng
đồng làng xã “[2,134].

Từ khi dựng nước Phù Nam, Phù Nam có khoảng 13 đời vua, ba triều đại, bắt đầu
thành lập vào khoảng đầu thế kỉ thứ I diệt vong vào khoảng giữa thế kỉ thứ VII. Triều đại
đầu tiên gồm 4 đời kế tiếp nhau: Hỗn Điền, con (không rõ tên), Hỗn Bàn Huống, Hỗn Bàn
Bàn. Tiếp đó một viên tướng lên ngôi, lập nên một triều đại mới gồm bốn đời vua: Phạm Sư
Mạnh, Phạm Chiên, Phạm Tràng, Phạm Tầm, vương triều này bắt đầu khoảng 220 kết thúc
khoảng 280. Vương triều thứ ba được nói đến sau một thời gian ngắt quãng là một vương
triều được thành lập với sự tham gia cua một người Ấn Độ là Trúc Chiên Đàn (năm 357)
Kiều Trần Như, Sriđravacman (424 trước 438), Giayavacman (483-514), Ruđravacman
(514 - cuối VI). Sau đó nước Phù Nam bị một nước khác ở phía Bắc - Vương quốc Chân
Lạp của người Khơme - đánh bại vào khoảng từ cuối thế kỉ thứ VI, vua Phù Nam chạy đến

22


cảng Nagarava (An Giang - Châu Đốc ) lưu trú đến gần giữa thế kỉ thứ VII. Lịch sử Phù
Nam đến đây chấm dứt.
Về sự kiện này, D.H.E Hall viết “Fan Shih-man là một nhà chinh phục vĩ đại. Đức vua
mở rộng quyền lực của mình đến mức được mang danh hiệu là Đại vương. Ông đã xây dựng
một hạm đội khống chế vùng biển. Ơng đã tấn cơng 10 vương quốc. Các nước chư hầu của
ơng có lẽ bao gồm hạ lưu sông Mêkông và Tông tê Sáp...” [10,53]. Sự kiện Chân Lạp bắt
đầu chinh phục Phù Nam diễn ra vào giữa thế kỉ thứ VI “Họ vua Chân Lạp là Tchali, tên
riêng là Tchơtôsơna. Tổ tiên đã dần dần làm cho nước trở nên phú cường. Tchơtôsơna
chiếm được Phù Nam và bắt thần phục...”. “Vua đóng ở thành Đặc Mục. Thành ấy bị Chân
Lạp đánh bất ngờ và phải dời đến thành phố Na Phất Na ở phía Nam ...” [58,49].
Văn bia ở Baksây Chamkrong xác nhận là đến đời vua Chân Lạp Bavavácman đã
“bành trướng dần dần thế nước thành quốc gia hùng mạnh” và “với sức mạnh của mình đã
vượt khỏi ranh giới của tổ tiên” [38,80], “đã giải phóng người dân bản xứ khỏi xích xiềng
của sự lệ thuộc ngoại bang” [58,47]. Cũng theo văn bia, Bhavavacman là người chính thức
sáng lập vương triều mới và xác lập quốc gia Khơme miền Bắc hay vương quốc Campuchia
sơ kì và lấy tên mình để gọi tên nước_nước Bơ-ha-va. Ơng là người kết hợp dịng dõi thần

mặt trời của vương triều Chân Lạp với dòng dõi mặt trăng của vương triều Phù Nam. Niên
biểu muộn nhất của ông vua này được biết hiện nay là 598. Ông được người em trai tên là
Sitơra sêna (hay Mahenđravarman) giúp đỡ đem quân tiến dọc theo thung lũng sông
Mêkông đánh Phù Nam, tấn công kinh đô (tài liệu cổ gọi tên là Đặc Mục). Vua Phù Nam
phải chạy lánh nạn xuống miền Nam, trú ngụ ở tiểu quốc Naravara (Chí Tôn) được mấy
chục năm. Con trai Sitơrasêna là Isanavacman ở ngôi khoảng 620-650 đã tiếp tục công cuộc
chinh phục miền Nam, tiến đánh vua Phù Nam tận Naravara mà kinh đơ nước này có thể là
địa điểm Ba Thê - Óc Eo, xã Vọng Thê - An Giang ngày nay. Vua Phù Nam và cả Naravara
thuộc “dòng vua núi” (Sailendra) nên Isanavacman kể trong bia là đi đánh các vua núi. Kể
từ đó nước Chân Lạp được mở rộng, phía Bắc giáp sơng Mun, phía Nam giáp vùng
Tơnglêsap, phía Đơng giáp dãy Trường Sơn.
23


Về lịch sử vùng đất An Giang từ thế kỉ thứ I đến thế kỉ VII quan điểm của giáo sư
Lương Ninh cho rằng An Giang là một trong những địa điểm quần cư quan trọng thuộc lãnh
thổ quốc gia Naravara hay cịn gọi là nước Chí Tơn ở miền Tây sông Hậu. Tác giả viết
“những cuộc khai quật khảo cổ tiến hành trong những năm 40 và đầu những năm 80, phát
hiện nhiều di vật và dấu vết một thành thị - hải cảng ở Vọng Thê (huyện Thoại Sơn, tỉnh An
Giang) trên địa điểm Ba Thê, Óc Eo bắt đầu hoạt động từ khoảng thế kỉ I-II. Phát hiện này
cùng với tài liệu bi kí được phân tích trong quá trình nghiên cứu những năm qua đã cho
phép đoán định về sự tồn tại của một quốc gia cổ trên miền Tây sông Hậu (Địa phận An
Giang - Kiên Giang Việt Nam). Tên gọi của quốc gia này là nước Na-ra-ya-ra
(Naravara_nagara_ nước Chí Tơn ) và cư dân của nó là người Mala Pơlynêđi, hay người
Chăm” [38,76].
Là một đại cường quốc trong lịch sử Đông Nam Á cổ đại. Thời kì phồn thịnh từ thế kỉ
III đến thế kỉ V, vương quốc Phù Nam chiếm cả một vùng đất rộng lớn từ đồng bằng sông
Cửu Long đến Nam Trung Bộ, cả vùng trung lưu sông Mê Kông, qua thung lũng sông Mê
Nam, xuống tận bán đảo Mã Lai. Nhưng ở buổi đầu - những thế kỉ đầu công nguyên - các
nhà nghiên cứu đa số cho rằng không thể hình dung nước Phù Nam như một đế quốc rộng

lớn thống nhất, hay là một vương quốc có tổ chức chặt chẽ mà là một tập hợp các tiểu quốc
thuộc các tộc người khác nhau, vì miền Nam Đơng Nam Á lục địa châu Á là nơi sinh sống
của nhiều tộc người. Các tộc người này dựa trên sự trao đổi văn hóa và trình độ kinh tế của
thời đại đồng thau và sắt sớm, đã hình thành nên một số quốc gia sơ kì hoặc địa điểm quần
cư quan trọng như người Pruy ở lưu vực sông Irrawaddy và Sittang, người Môn-Khơme ở
lưu vực sông Sêmun đến Biển Hồ...hình thành những tiểu quốc như: Sresthapura ở vùng
Bassak, Isanapura ở vùng Compơngthom, Sambơhupura ở vùng Bắc Kratiê...
Như vậy có thể đã từng tồn tại vương quốc Naravara còn gọi là nước Chí Tơn trong
buổi bình minh của lịch sử ở vùng đất miền Tây sông Hậu. Khởi đầu nước Chí Tơn mạnh
hơn Phù Nam về kinh tế với thương cảnh Óc Eo. Phù Nam thiện chiến hơn với điểm xuất
phát là “thành phố của những người thợ săn” không phải là trung tâm kinh tế lớn mà là
24


mảnh đất của những người thợ săn, nơi có tinh thần thượng võ và chế tác vũ khí phát triển.
Chính từ đây Phù Nam với quân đội lớn mạnh dần khống chế các nước xung quanh, kể cả
những nước có nền kinh tế mạnh hơn nhưng yếu hơn về quân sự như Bassak, Nagarava...
Khi trở thành một tiểu quốc của Phù Nam, nước Chí Tơn với thương cảng Ĩc Eo - An
Giang trở thành đầu mối giao thông thương mại, là trung tâm tiếp nhận văn hóa nước ngồi
nhất là của Ấn Độ vào Phù Nam. Đến khoảng thế kỷ thứ VII vùng Thoại Sơn ngày nay, nơi
Malleret từng khai quật đến 30 điểm khảo cổ nơi được mệnh danh là Hoàng cung của
vương quốc Phù Nam trở thành nơi trú ẩn cuối cùng của vua Phù Nam trên bước đường lưu
vong.
1.2.2. Thời kỳ từ giữa thế kỉ VII - giữa thế kỉ XVIII: thuộc lãnh thổ của vương
quốc Chân Lạp.
Cùng với việc Chân Lạp giành được độc lập, Phù Nam trở thành lãnh thổ của Chân
Lạp vào khoảng giữa thế kỉ thứ VII. An Giang với thương cảng Óc Eo, thương cảng lớn
nhất Đơng Nam Á thời đó bị hủy hoại, bị tàn phá đột ngột. Đến bây giờ vẫn chưa có lời giải
đáp thỏa đáng cho vấn đề này.
Giả thuyết được đặt ra là biển dâng cao trở lại làm cả vùng đồng bằng sông Cửu Long

bị ngập từ 0,8-l mét dưới mực nước biển. Giả thuyết này dựa vào nghiên cứu của Georgette
Delibrias và Henri Fontaine về sự dao động mực nước biển trong giai đoạn cách đây
1000-1200 năm [14,32].
Giả thuyết thứ hai là sau khi chiếm được Phù Nam công cuộc Nam tiến của dân tộc
Khơme, sự lan tỏa của văn hóa Khơme, hình thành bộ phận Khơme phía Nam trên lãnh thổ
nước Phù Nam cũ bắt đầu. Nhưng do hạn chế của bản thân, người Khơme vẫn dừng lại trên
những thềm đất cao như Takeo (cụm di tích Angkor Borey), Prây-veng (cụm di tích Ba
Phnom)...[bản đồ trang 173], sinh sống ở một số địa điểm cũ có điều kiện thuận lợi được
mệnh danh là cánh cung thịnh vượng [bản đồ trang 173] nơi đất đai màu mỡ, giàu tài
nguyên thiên nhiên.
25


×