Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Vai Trò Của Chế Độ Sở Hữu Đối Với Sự Hình Thành Và Phát Triển Nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xhcn Ở Nước Ta.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.2 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI :

VAI TRÒ CỦA CHẾ ĐỘ SỞ
HỮU ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XHCN Ở NƯỚC TA

GVHD
QUỐC
SVTH
HẠNH
Lớp
MSSV

: NGUYỄN AN
: CHÂU NGỌC
: 46.K29
: 103246010

TP. HCM, Naêm 2004


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN


...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................

ĐIỂM

TP. Hồ Chí Minh, ngày ….. tháng
….. năm 2004

ĐỀ CƯƠNG
PHẦN I :
LỜI NÓI ĐẦU

PHẦN II :
I. VAI TRÒ CỦA CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA :
1. Các khái niệm :
a. Sở hữu
b. Đối tượng sở hữu
c. Chế độ sở hữu, các loại hình & các hình thức sở
hữu.
* Chế độ sở hữu
* Loại hình & hình thức sở hữu


2. Vai trò của chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta :
* Vai trò :
* Tính tất yếu của việc đa dạng hóa các hình thức
sở hữu & các hình thức kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở Việt Nam.
II. VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CNXH Ở NƯỚC TA
1. Chủ trương đổi mới chế độ sở hữu
2. Chế độ sở hữu ở Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới, quá độ lên CNXH.
a. Sở hữu nhà nước
b. Sở hữu tập thể
c. Sở hữu tư nhân
3. Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta
a. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
b. Thực trạng của doanh nghiệp nhà nước trong thời

gian qua
III. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở
VIỆT NAM
a. Đối với sở hữu nhà nước
b. Đối với kinh tế tập thể
c. Đối với kinh tế tư nhân
PHẦN III : KẾT LUẬN CHUNG


PHẦN I : LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử đã ghi nhận, trong quá trình tồn tại và phát
triển của loài người, con người đã không ngừng chiếm
hữu những của cải của tư nhân để thỏa mãn nhu cầu
của bản thân.
Đây là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với
tự nhiên. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển của xã
hội loài người thì trong mối quan hệ với tự nhiên con
người cần có quan hệ với nhau, tức phải có quan hệ xã
hội. Mà biểu hiện cơ bản của mối quan hệ này là sự
thừa nhận lẫn nhau về cơ sở và kết quả của sự chiếm
hữu giữa các thành viên trong cộng đồng. Được gọi là
sở hữu.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trãi
qua các giai đoạn từ : Công xã nguyên thủy, chiếm hữu
nô lệ, thời kỳ phong kiến, đến chủ nghóa tư bản và
đang trong giai đoạn tiến lên chủ nghóa xã hội. Mỗi chế
độ xã hội đều gắn liền với những hình thức sở hữu
nhất định. Và xu thế phát triển của xã hội loài người
là hình thái xã hội sau lại tiến bộ hơn hình thái xã hội

trước. Lịch sử đã cho thấy chính các cuộc cách mạng xã
hội đã làm thay đổi quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ
yếu trong xã hội từ giai cấp này sang tay giai cấp khác,
kèm theo đó làm thay đổi giai cấp cầm quyền thống trị,
lãnh đạo xã hội. Đây là những cột mốc lịch sử đã
đánh dấu sự chuyển biến cách mạng ra đời của các
phát triển sản xuất kế tiếp nhau và tiến bộ hơn có
thể nói sở hữu về tư liệu sản xuất (TLSX) là một trong
những vấn đề quan trọng, có tính thời sự đối với mọi
quốc gia trên thế giới và trong mọi thời đại. Ở nước ta,
việc xây dựng một chế độ sở hữu về TLSX phát triển
từ thấp đến cao theo hướng dần dần làm cho sở hữu
XHCN giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân
luôn là một nhiệm vụ then chốt trong suốt thời kỳ quá
độ lên CNXH. Chính vì tầm quan trọng của chế độ sở hữu
đối với nền kinh tế nói chung và đối với Việt Nam nói
riêng, mà hôm nay em xin trình bày một số vấn đề về
vai trò của chế độ sở hữu đối với sự hình thành và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghóa ở nước ta. Để qua đó chúng ta có cái nhìn
đúng đắn hơn về vấn đề sở hữu trong nền kinh tế.


Để thực hiện được đề tài này, em xin chân thành
cảm ơn quý thầy cô, trong khoa Kinh Tế Chính Trị trường
Đại Học Kinh Tế, thư viện trường và các bạn đã đóng
góp ý kiến cho em hoàn thành tiểu luận này. Vì thời
gian có hạn, và nhận thức còn nhiều hạn chế, chắc
chắn bài tiểu luận này còn nhiều thiếu sót, rất mong
được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô.



PHẦN II : NỘI DUNG
I. VAI TRÒ CỦA CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở NƯỚC TA :
1. Các khái niệm :
Để hiểu rõ vấn đề sở hữu, trước hết ta cần làm
rõ một số khái niệm liên quan đến vấn đề này như :
sở hữu là gì? Đối tượng sở hữu? Chế độ sở hữu, các
loại hình và các hình thức sở hữu.
a. Sở hữu :
Qua những phần trình bày ở phần mở đầu ta có
thể rút ra nhận xét. Sở hữu là hình thức chiếm hữu
của cải vật chất do lịch sử quy định, trong đó thể hiện
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất xã hội. Sự phát triển của các hình thức sở hữu
là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Để giúp nhận thức khoa học về phạm trù sở hữu tư
liệu sản xuất (TLSX) ta cũng cần phân biệt chiếm hữu
và sở hữu. Trùc hết ta cần thấy rằng chiếm hữu và
sở hữu là hai mặt thống nhất biện chứng với nhau của
một quá trình sản xuất vật chất, phản ánh nội dung cơ
bản của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
một phương thức sản xuất, trong đó trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất quyết định và đòi hỏi có quan
hệ sản xuất tương ứng (chứ không phải là ngược lại).
Đây là quy luật chung, quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quy định sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại

từ thấp đến cao. Tuy nhiên chúng ta không thể đồng
nhất sở hữu và chiếm hữu, đây là hai phạm trù khác
nhau : Chiếm hữu thể hiện quan hệ giữa con người với tự
nhiên, là hành vi gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của con người. Chiếm hữu là phạm trù vónh viễn trong
tất cả các giai đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại, là
cái hình thức không phụ thuộc vào ý chí của con người.
Còn sở hữu là quan hệ giữa người với người về chiếm
hữu của cải vật chất xã hội. Sở hữu là hình thức xã
hội của hành vi chiếm hữu sở hữu biểu hiện đặc tính
của hình thái xã hội, mà trong khuôn khổ hình thái xã
hội đó diễn ra quá trình sản xuất. Sở hữu là phạm trù
lịch sử, biến đổi cùng với sự biến đổi của các điều
kiện kinh tế xã hội của lực lượng sản xuất xã hội.
b. Đối tượng sở hữu :


Sở hữu là quan hệ giữa con người với con người
trong chiếm hữu TLSX và của cải vật chất được tạo ra
nhờ những TLSX ấy. Mối quan hệ này cần có vật trung
gian, môi giới, đó là đối tượng sở hữu, xã hội loài
người không ngừng phát triển, quan hệ sở hữu cũng
biến đổi theo từng hình thái kinh tế – xã hội khác nhau,
vì vậy đối tượng sở hữu cũng biến đổi theo. Lịch sử đã
cho thấy, đối tượng sở hữu đã có những thay đổi qua
từng thời kỳ, chẳng hạn từ sở hữu vật tự nhiên quý
hiếm, sở hữu nô lệ, đất đai đến sở hữu tiền, tư bản,
TLSX hiện đại (máy móc).
Ngày nay, trong nền kinh tế hàng hóa vận động theo
cơ chế thị trường, đối tượng sở hữu ngày càng được mở

rộng, không chỉ sở hữu về TLSX, vật phẩm tiêu dùng
mà còn sở hữu vốn (tài chính, khả năng sinh lời) đây
là xu hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Bên cạnh đó, dưới sự tác động mạnh mẽ của khoa học,
công nghệ, đã đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh
chóng làm xuất hiện đối tượng sở hữu mới là sở hữu
trí tuệ. Đó là những tri thức có vai trò đặc biệt đến
với quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội,
chúng là những phát minh, sáng chế, giải pháp công
nghệ : hình dáng, kiểu mẫu, nhãn công nghiệp …. Những
“trí tuệ” đó có chủ sở hữu, chủ quản lý kinh doanh,
được nhà nước bảo hộ về mặt pháp lý. Xu thế hiện
nay cho thấy, khoa học – công nghệ càng phát triển thì sở
hữu trí tuệ càng trở thành đối tượng sở hữu quan trọng
trong nền kinh tế.
c. Chế độ sở hữu, các loại hình và các hình thức
sở hữu :
* Chế độ sở hữu :
Ở phần trên ta đã tìm hiểu về phạm trù sở hữu
và khi phạm trù sở hữu được luật hóa thành quyền sở
hữu và thực hiện qua một cơ chế nhất định gọi là chế
độ sở hữu. Chế độ sở hữu bao gồm các quyền như :
Quyền sở hữu, quyền quản lý kinh doanh (quyền sử
dụng) quyền thực hiện lợi ích kinh tế, quyền chi phối
quyền quản lý.
Chế độ sở hữu là vấn đề căn bản nhất của chế
độ kinh tế – xã hội nó là căn cứ để giải quyết các
vấn đề lợi ích kinh tế, chính trị và pháp quyền xã hội cụ
thể là quan hệ sở hữu TLSX quy định mục đích của sản
xuất, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, phương thức

quản lý, cách thức phân phối sản phẩm làm ra, quyết
định cơ cấu giai tầng xã hội, những TLSX chủ yếu của
xã hội thuộc về giai cấp nào thì giai cấp đó chi phối


lãnh vực sản xuất & các giá trị vật chất trên cơ sở đó
cũng nắm quyền thống trị đời sống tinh thần của xã
hội.
* Loại hình và hình thức sở hữu :
Trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài
người, mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng gắn liền
một loại sở hữu đặc trưng, giữ vai trò chủ đạo, đồng
thời còn có các loại hình sở hữu cùng tồn tại. Thực tiễn
lịch sử cho thấy đã có các loại hình sở hữu : công xã
nguyên thủy, sở hữu tư hữu nô lệ, sở hữu tư hữu phong
kiến, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghóa, sở hữu công
hữu XHCN. Nhưng chung quy chỉ có hai loại sở hữu cơ bản
là công hữu (của chung) và tư hữu (của riêng). Song qua
mỗi bước tiến của lịch sử mỗi loại hình sở hữu này lại
có các hình thức thể hiện khác nhau. ngày nay, cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì các loại
hình sở hữu cũng thường xuyên đan xen với nhau, hình
thành các hình thức sở hữu hỗn hợp.
2. Vai trò của chế độ sở hữu trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta :
a. Vai trò của chế độ sở hữu :
Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, việc nhận thức đúng đắn về vấn đề sở
hữu và vận dụng chúng đúng quy luật sẽ là những
đòn bẩy quan trọng, là nguồn tiềm năng to lớn thúc

đẩy sản xuất và kinh tế phát triển. Vì vậy chúng ta cần
thấy rõ vai trò quan trọng của sở hữu trong nền kinh tế.
Chúng ta cần thấy rõ chính sở hữu quyết định tính chất
xã hội của sự chiếm hữu về TLSX, quyết định mục đích
của nền sản xuất ở nước ta, là cơ sở của toàn bộ hệ
thống quan hệ sản xuất có liên quan và quyết định
cách quản lý và phân phối. Chế độ sở hữu quyết
định hình thái xã hội của sự kết hợp giữa TLSX và sức
lao động. Trong hệ thống quan hệ sản xuất thì quan hệ
sở hữu về TLSX quyết định bản chất vận động và phát
triển của các hình thức kinh tế còn các hình thức kinh tế
lại là biểu hiện của các hình thức sở hữu. Đây là mối
quan hệ giữa nội dung và hình thức, chúng luôn có sự
tác động qua lại lẫn nhau và không thể rách rời nhau.
sự tác động này có thể diễn ra theo hai hướng trái
ngược nhau : nếu hình thức kinh tế phù hợp với quan hệ
sở hữu thì nó thúc đẩy quan hệ sở hữu phát triển, còn
nếu hình thức kinh tế không phù hợp với quan hệ sở
hữu thì nó kìm hãm sự phát triển. Sự tác động lẫn nhau
giữa quan hệ sở hữu với hình thức kinh tế được nối liền
qua khâu trung gian là lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế bao giờ


cũng là sự biểu hiện của các quan hệ sở hữu nhưng
không phải là sự thể hiện thụ động mà là sự tác động
tích cực trở lại đối với quan hệ sở hữu trong xã hội có
giai cấp. Thực tế cho thấy sở hữu mà không có lợi ích
kinh tế thì sở hữu đó sẽ trở nên vô nghóa. Vì vậy,
muốn xác lập được chủ sở hữu đích thực phải gắn sở
hữu với lợi ích kinh tế trong mỗi hình thức kinh tế cụ thể.

Nước ta là nước XHCN, mục đích của nền sản xuất ở
nước ta là sự lợi ích của toàn xã hội và sự phát triển
toàn diện con người. Để thực hiện được mục đích cao đẹp
này, trước hết chúng ta phải đa dạng hóa các hình thức
sở hữu nhằm phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, và sau đó mỗi hình thức sở hữu phải
xây dựng được những hình thức kinh tế thích hợp để giải
quyết hài hòa vấn đề lợi ích đầy đủ cho người lao động
và của của các thành phần kinh tế.
b. Tính tất yếu của việc đa dạng hóa các hình thức
sở hữu và các hình thức kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở nước ta :
Trước đây do nhận thức không đúng về mô hình
CNXH nên sau khi nắm chính quyền chúng ta đã nhanh
chóng xóa bỏ mọi loại hình sở hữu và xóa bỏ nền kinh
tế hàng hóa thiết lập một chế độ công hữu duy ý chí.
Điều đó dẫn đến hậu quả là trên thực tế chúng ta đã
quay lại với nền kinh tế tự nhiên, khép kín, quay lại chế
độ tập trung, quan liêu, độc đoán là những cái vốn có
trong xã hội phong kiến lỗi thời. Đó là những sai lầm
thật đáng tiếc, tuy nhiên chúng ta đã kịp thời nhận ra
những sai lầm đó. Tại Đại hội Đảng lần thứ II, Đảng ta
đã thẳng thắng chỉ ra những sai lầm chủ quan, nóng
vội, muốn “đốt cháy giai đoạn” trong việc cải tạo các
thành phần kinh tế, muốn đề cao “phong trào”, “thành
tích” trong việc cải tạo và xóa bỏ các thành phần kinh
tế “phi XHCN” Đại hội cũng đã khẳng định đặc điểm của
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là nền kinh tế với
cơ cấu nhiều thành phần. Điều này cũng đồng nghóa
với việc khẳng định tính tất yếu của việc đa dạng hóa

các hình thức sở hữu và các hình thức kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Tính tất yếu này là do
những nguyên nhân sau :
Thứ nhất : Do nước ta đi lên CNXH từ xuất phát
điểm rất thấp, lực lượng sản xuất phát triển đưa cao để
có thể thủ tiêu hoàn toàn chế độ tư hữu để thiết lập
hoàn toàn chế độ công hữu nên còn tồn tại nhiều hình
thức sở hữu là tất yếu, đây là sự minh chứng cho việc


tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Thứ hai : Do lực lượng sản xuất phát triển không
đồng đều giữa các vùng, các ngành trong nội bộ từng
vùng và do tính chất quá độ từ một nước thuộc địa
nữa phong kiến đi lên CNXH tất yếu sẽ còn có kinh tế tư
bản tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ, thương nhân và
kể cả kinh tế tự nhiên cùng tồn tại trong toàn bộ nền
kinh tế nước ta. Chúng ta không thể “xóa bỏ” hay
“chuyển đổi” các thành phần kinh tế một cách chủ
quan duy ý chí mà chỉ có thể cải biến nó theo yêu cầu
và trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất.
Thứ ba : Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất theo
hai hướng : một là tập trung và tích tụ sản xuất ngày
càng lớn, hai là tách biệt quá trình sản xuất thành
những khâu độc lập nhưng hợp tác với nhau và chịu sự
chi phối của toàn xã hội. Hai xu hướng này không triệt
tiêu nhau mà cùng tồn tại song song. Chính vì vậy cái hình

thái kinh tế vẫn phát triển hết sức đa dạng, phong phú.
Thứ thư : Kinh tế thị trường không phải chỉ là đặc
trưng riêng của CNTB, nó sẽ và chỉ phát triển lành
mạnh, trên cơ sở của sự phân công lao động xã hội và
sự phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế. Về
nguyên tắc, không thể có thị trường đúng nghóa nếu
thiếu các quan hệ sở hữu phát triển và thiếu sự đa
dạng các hình thức sở hữu. Vì vậy, kinh tế thị trường khi
có định hướng đúng đắn sẽ là đòn bẩy giúp phát
triển kinh tế một cách hữu hiệu đối với mọi quốc gia,
đặc biệt là các nước còn kém phát triển như ta. Do đó,
việc chuyển đổi hẳn nền kinh tế tập trung quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là
một tất yếu khách quan ở nước ta.
II. VẤN ĐỀ SỞ HỮU TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở NƯỚC TA :
Ở phần trên chúng ta đã đề cập đến những sai
lầm trong thời kỳ đầu xây dựng đất nước, hậu quả của
những sai lầm này là làm cho đất nước lâm vào khủng
hoảng kinh tế – xã hội (KT – XH) trầm trọng. Văn kiện đại
hội (ĐH)VI của Đảng cũng đã khẳng định “Trong nhận
thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn
tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững
và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất (QHSX) với tính chất và trình độ của lực lượng


sản xuất (LLSX)” khắc phục sai lầm đó từ Đại hội của
Đảng (12/1986), đại hội khởi đầu sự nghiệp đổi mới chủ

trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được
nhận thức lại và thực hiện nhất quán Đảng ta đã xác
định, nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là một chủ
trương chiến lược, lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH đồng nghóa với việc xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều
hình thức sở hữu bởi vì mỗi hình thức kinh tế luôn gắn
liền với một hình thức sở hữu nhất định. Chính vì vậy
để hiểu rõ về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
chúng ta cần tìm hiểu về đa dạng hóa các hình thức sở
hữu.
1. Chủ trương đổi mới chế độ sở hữu :
Đại hội Đảng lần thứ VI được đánh dấu là đại hội
mở đầu cho quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế
nước ta, trong đó nhận thức của Đảng ta về vấn đề sở
hữu đã từng bước có sự đổi mới.
Thừa nhận trong nền kinh tế có nhiều loại hình sở
hữu cùng tồn tại và do đó có nhiều thành phần kinh tế
cùng hoạt động. Nhưng chế độ công hữu về TLSX là
nền tảng của QHSX mới và thành phần kinh tế XHCN
mà kinh tế quốc doanh làm nòng cốt phải đóng vai trò
quyết định trong nền kinh tế quốc dân, chi phối được các
thành phần kinh tế khác thông qua liên kết kinh tế. Việc
thừa nhận tồn tại nhiều hình thức sở hữu nhiều thành
phần kinh tế là sự chuyển biến quan trọng nhất trong
quan điểm nhận thức của Đảng ta trong Đại Hội. Việc
thừa nhận nhiều hình thức sở hữu là cơ sở đề ra chính
sách, biện pháp tác động đến quản lý có hiệu quả
các thành phần kinh tế. Bởi vì khi đã tồn tại nhiều loại
hình sở hữu nhất định sẽ có việc đan xen giữa các loại

hình này do nhu cầu về hiệu quả sản xuất kinh doanh
của loại hình kinh tế.
Như vậy, đến hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung Ương (BCHTU) (khóa VI). Vấn đề chuyển đổi hình
thức sở hữu, vấn đề sở hữu hỗn hợp đối với doanh
nghiệp nhà nước đã được đặt ra nhằm làm tăng hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Đến hội nghị lần thứ ba BCHTU
(Khóa VI) hội nghị chuyên đề về đổi mới cơ chế quản
lý vấn đề sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước mới
được đề cập trực tiếp bao gồm một số nội dung sau :
- Nhiệm vụ cơ bản của xí nghiệp là sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả, tự bù đắp các chi phí, tự chịu trách
nhiệm về lỗ lãi, tự tích lũy để phát triển, thực hiện
nghóa vụ nộp ngân sách và trách nhiệm đối với cơ quan


hữu quan. Những xí nghiệp hoạt động không có hiệu quả
phải được củng cố để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên.
Nếu không đủ điều kiện để củng cố và không cần
thiết duy trì nhiều hình thức quốc doanh thì chuyển sang
hình thức sở hữu khác, kể cả cho tập thể tư nhân thuê.
Những tư duy mới trên cho thấy rằng, muốn đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế không thể không có điều
chỉnh trong vấn đề sở hữu. Tuy nhiên những nghị quyết
nêu trên chưa thật cụ thể. Đến Hội nghị lần thứ sáu
BCHTU (khóa VI) sau khi kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, những vấn đề sở hữu
được đề cặp và làm rõ thêm :
- Các hình thức sở hữu về TLSX có bản chất riêng
nhưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh không ngăn

cách nhau mà có nhiều hình thức hỗn hợp, đan kết nhau.
- Kinh tế quốc doanh nằm những vị trí then chốt cần
có đủ sức chi phối, thị trường nhưng không nhất thêít
chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề.
- Một số xí nghiệp quốc doanh nếu thiếu vốn có
thể dùng hình thức vốn cổ phần hoặc chuyển thành xí
nghiệp tư bản nhà nước.
Với các nội dung về sở hữu đề cập trên đây, Hội
nghị lần thứ sáu BCHTU (Khóa VI) đã có những đổi mới.
- Khẳng định sở hữu Nhà nước có vai trò, nồng cốt
trong các loại hình sở hữu cùng tồn tại, nhưng do yêu cầu
của hoạt động kinh tế, các loại hình này sẽ đan xen nhau
trong đó một bộ phận sở hữu nhà nước sẽ chuyển
sang sở hữu hỗn hợp dưới nhiều hình thức cổ phần
hoặc tư bản nhà nước. Đây là những nhận thức đầu
tiên cho sự ra đời của Công ty cổ phần và thành phần
kinh tế tư bản nhà nước sau này.
- Kinh tế quốc doanh mà nền tảng là sở hữu toàn
dân không nhất thiết phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi
nghề.
Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
(1994) của Đảng, vấn đề sở hữu có một bước tiến rõ
rệt. Khẳng định sở hữu nói riêng QHSX nói chung là
một bộ phận cấu thành hữu cơ của một hình thái KT-XH.
Do đó công hữu XHCN là mục tiêu xây dựng một XH
mới. Trong Hội nghị cũng đã :
- Phân biệt sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước, trong đó tài sản, uốn trong doanh nghiệp nhà nước
chỉ là một bộ phận của sở hữu nhà nước được nhà
nước đầu tư. Ngoài ra, nhà nước còn chủ sở hữu của

các nguồn vốn và tài nguyên khác được giao cho các
thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước.


- Thấy được phần tài sản và vốn nằm trong doanh
nghiệp nhà nước chưa được phát huy, sử dụng có hiệu
quả vì chưa có cơ chế gắn bó lợi ích của người lao động
với sở hữu này, đưa ra hai giải pháp tác động vào sở
hữu đó là thực hiện các hình thức cổ phần hóa trên cơ
sở nhà nước vẫn nằm tỷ lệ cổ phần chi phối và hoàn
thiện, mở rộng các hình thức khoán trong doanh nghiệp
nhà nước.
Những đổi mới trong Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa
VII đã phân biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền sử
dụng, phân biệt sở hữu nhà nước và sở hữu trong
doanh nghiệp nhà nước, sở hữu đất đai và quyền sử
dụng đất đai …. Trên cơ sở đó, nhiều giải pháp chỉ đạo
trong thực tiễn đã mang lại hiệu quả.
Ngày nay đất nước đang trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, việc xác định các loại hình sở hữu và phân định
các thành phần kinh tế là cần thiết để làm cơ sở cho
việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói chung
và cho việc phát triển từng thành phần kinh tế nói
riêng nhằm không để phân biệt đối xử mà là để cho
chính sách đúng, giải phóng mọi năng lực sản xuất,
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng
XHCN.
Đại hội lần IX của Đảng cũng đã xác định còn tồn
tại ba hình thức sở hữu cơ bản : sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Các hình thức sở hữu

có thể đan xen, hỗn hợp Trên cơ sở các hình thức sở
hữu cơ bản đó nhiều thành phần kinh tế với những tổ
chức kinh doanh đa dạng Đại hội Đảng lần thứ IX còn xác
định : xây dựng chế độ công hữu công cộng về TLSX là
một quá trình phát triển KT-XH lâu dài, qua nhiều bước,
nhiều hình thức từ thấp đến cao. Phải từ thực tiễn mà
tìm tòi, thử nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công
cộng nói riêng và QHSX nói chung với những bước đi
vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả
xây dựng QHSX theo định hướng XHCN là thúc đẩy phát
triển LLSX, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện
công bằng xã hội.
2. Chế độ sở hữu ở Việt nam trong thời kỳ
đổi mới, quá độ lên CNXH
a. Sở hữu nhà nước ở nước ta hiện nay :
Kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu nhà nước về
vốn, ở nước ta hiện nay, sở hữu nhà nước được biểu
hiện là sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện. Sở
hữu nhà nước là trình độ thấp của sở hữu toàn dân.
Sở hữu toàn dân theo đúng nghóa chỉ xuất hiện, tồn tại


và phát triển khi LLSX xã hội đạt đến trình độ xã hội
hóa rất cao. Trong giai đoạn công sản chủ nghóa. Trong
thời kỳ quá độ lên CNXH và trong giai đoạn XHCN mới
chỉ có sở hữu nhà nước, nhà nước đại diện cho toàn
dân sở hữu những tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài
sản, TLSX, vốn, ….. của chung toàn dân, toàn xã hội.
Nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực, đại biểu cho
lợi ích của nhân dân, đóng vai trò người chủ sở hữu

đối tượng thuộc sở hữu toàn dân có quyền và trách
nhiệm tổ chức quản lý, chi phối toàn bộ tài sản quốc
gia nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo tồn và phát
triển các nguồn tài sản đó. Nhưng muốn thực hiện được
vai trò của mình trước hết nhà nước phải thực hiện được
lợi ích kinh tế thì sở hữu nhà nước cũng chỉ là danh
nghóa. Điều đó đòi hỏi phải có cơ chế giải quyết tốt
mối quan hệ giữa quyền sở hữu của nhà nước với
quyền sử dụng và việc phân phối sản phẩm, giá trị
mới được tạo ra nhờ những tài sản chung ấy. Trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, cơ chế ấy phải
chăng là sự xác định tỷ lệ phân chia sản phẩm, giá trị
mới đó giữa Nhà nước và doanh nghiệp thông qua việc
doanh nghiệp nộp thuế cho Nhà nước? Chỉ có thu được
một phần lợi nhuận dưới hình thức thuế theo một tỷ lệ
thích hợp thì mới thực hiện được lợi ích kinh tế của sở
hữu nhà nước, đồng thời doanh nghiệp mới có động lực
để phấn đấu sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm thu
được lợi nhuận cao hơn phần thuế phải nộp cho nhà
nước. Phần lợi nhuận ấy càng lớn thì thu nhập của
doanh nghiệp càng cao.
b. Sở hữu tập thể :
Sở hữu tập thể là sở hữu của một tập thể
người lao động. Đối tượng của nó là phần tài sản do
quá trình tích lũy chúng tạo nên, hoặc phần tài sản
được cho biếu, tặng. Những đối tượng này có thể tồn tại
dưới hình thức hiện vật, hoặc hình thức giá trị.
Hình thức sở hữu tập thể tồn tại trong hình thái kinh
tế hợp tác. Kinh tế hợp tác đã được hình thành từ sau khi
hoàn thành hợp tác hóa ở miền Bắc (năm 1958 – 1960).

Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975),
chúng ta đã đem áp dụng mô hình hợp tác hóa nông
nghiệp ở miền Bắc vào miền Nam để đưa cả nước tiến
nhanh lên CNXH. Trong giai đoạn (1986 – 1988), năm cao
điểm của nước có trên 100.000 đơn vị kinh tế hợp tác
trong các ngành kinh tế (trong đó 36.000 tập đoàn sản
xuất, còn lại là hợp tác xã).


Kinh tế hợp tác thực sự đã đóng góp to lớn trong
thời kỳ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trong
xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là trong nông nghiệp,
nông thôn. Tuy nhiên, trong kinh tế hợp tác sở hữu tập
thể kiểu chung chung dẫn đến TLSX sử dụng lãng phí,
không hiệu quả. Bởi vậy, cần có những biện pháp
thích hợp để khắc phục tình trạng nói trên, trước hết là
phải đổi mới về chế độ sở hữu.
c. Sở hữu tư nhân :
Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu tài sản và
vốn của từng người, được sử dụng để kinh doanh riêng
dưới hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư nhân hoặc
được đưa vào sử dụng trong hợp tác, công ty cổ phần, kể
cả doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa dưới hình thức
góp vốn cổ phần, cho mượn, cho thuê.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, sở hữu
tư nhân tuy không có vai trò chủ đạo, nhưng nó là một
lực lượng rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Sở hữu tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có

nhiều hình thức biểu hiện khác nhau : sở hữu TLSX nhỏ
của hộ gia đình, sở hữu của hộ tiểu chủ, trung trại và
sở hữu tư bản tư nhân … cùng với sự phát triển không
ngừng của lực lượng sản xuất, các hình thức sở hữu tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng
không ngừng phát triển với nhiều cấp độ từ thấp đến
cao, từ quy mô nhỏ đến vừa và lớn, chúng có thể đan
xen với nhau để hình thành các hình thức kinh tế hỗn
hợp.
Ngày nay, kinh tế tư nhân được phát triển một cách
hợp lý trong các lónh vực và pháp luật không ngăn cấm,
nhằm đạt được những mục tiêu chủ yếu sau đây :
1. Huy động được vốn nhàn rỗi trong dân cư.
2. Góp phần giải quyết nạn thất nghiệp trong
xã hội
3. Nâng cao thu nhập quốc dân, cải thiện đời
sống nhân dân
4. Tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần trong một thời
gian ngắn đã có sự phát triển khá nhanh, đã phát huy
tích cực trong việc huy động vốn, giải quyết việc làm,
đáp ứng yêu cầu của thị trường, kích thích tính năng
động, sáng tạo của doanh nhân. Tuy nhiên kết quả phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu : chưa


huy động triệt để nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư,
tổng huy động vốn khoảng 5% vốn đầu tư toàn xã hội
và mới chiếm khoảng 9% GDP. Phát triển không đồng

đều, chủ yếu tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh và
thành phố Hà Nội (chiếm 50% của cả nước) quy mô
doanh nghiệp còn quá nhỏ, công nghệ lạc hậu, chất
lượng sản phẩm còn thấp, khó khăn về vốn kinh doanh
và thị trường tiêu thụ.
3. Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta :
a. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước :
Đảng ta chủ trương phát triển và nâng cao hiệu
quả của các than2h phần kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, trong đó kinh tế nhà nước đóng
vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân.
Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng
có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên CNXH ở
nước ta. Các thành phần kinh tế quá độ luôn luôn vận
động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan
xen trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất trên cơ sở
vừa hợp tác, bổ sung cho nhau vừa cạnh tranh với nhau
trong nền kinh tế thị trường định hướng CHXN và bình
đẳng trước pháp luật. Vì vậy, vấn đề của chúng ta
không phải là xóa bỏ hoặc ưu tiên thành phần kinh tế
này hay thành phần kinh tế khác mà điều quan trọng là
phải nắm vững bản chất của từng thành phần và sử
dụng chúng đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, để đảm
bảo nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, trong
quá trình vận động vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các
thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước
phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế dần dần

trở thành nền tảng cho chế độ XHCN. Vậy tại sao kinh tế
nhà nước cần phải nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế? Chúng ta có thể kể đến các nguyên nhân sau :
Thứ nhất : Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công
hữu (sở hữu nhà nước) về TLSX, là chế độ sở hữu
phù hợp với xu hướng xã hội hóa của LLSX ở đây cần
phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hữu. Nhà nước
đại diện cho toàn dân là chủ sở hữu TLSX, tài sản
công cộng của toàn dân.
Thứ hai : Kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí
then chốt, yếu hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó
nó có khả năng, điều kiện chi phối hoạt động của các


thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát
triển theo hướng đã định.
Thứ ba : kinh tế nhà nước là lực lượng đảm bảo cho
sự phát triển ổn định của nền kinh tế là lực lượng có
khả năng can thiệp, điều tiết hướng dẫn, giúp đỡ và
liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác
càng phát triển.
Thứ tư : Kinh tế nhà nước có thể tác động tới các
thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ
và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng những con đường
gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của
kiến trúc thượng tầng XHCN.
Thứ năm : Kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc
ứng dụng khoa học – công nghệ (KHCN) hiện đại, tiên
tiến, do đó, nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp
phần lớn cho ngân sách nhà nước và tự tích tụ để có

thể có không ngừng tái sản xuất mở rộng.
Từ thực tế đất nước ta trong thời gian qua cũng đã
chứng minh vị trí quan trọng, vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước. Nó thể hiện ở chỗ : chỉ có nhà nước mới
có thể nâng cấp và làm mới các tuyến đường giao
thông, các nhà máy điện và các trung tâm nước, ứng
dụng KH-CN. Chỉ có nhà nước mới có thể đến những
xã vùng sâu, vùng xa để làm đường ôtô, xây dựng
trạm biến thế để bán điện với giá tương đương như ở
đô thị và khi thiên tai xảy ra chỉ có nhà nước mới có
thể cứu hộ, trợ giúp đượf cả một địa phương, của một
khu vực ….. Tất cả những việc trên không có tư nhân
hoặc liên doanh nào có thể thực hiện được mà chỉ có
nhà nước có thể đứng ra thực hiện. Bên cạnh đó, đất
nước ta mới bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Khó khăn
càng chồng chất khi quan hệ hợp tác kinh tế với các
đối tác quốc tế có trình độ phát triển cao hơn rất
nhiều. Việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ phụ thuộc
vào năng lực tiếp thu và khả năng nội sinh hóa công
nghệ nhập khẩu. Tiềm lực khoa học và công nghệ yếu
kém, lẽ đương nhiên dễ gặp phải những khó khăn, rủi
ro hơn trong việc thực thi các hợp đồng chuyển giao công
nghệ cũng như các dự án góp vốn đầu tư hoặc nhập
khẩu thiết bị toàn bộ. Trong hoàn cảnh này các đối
tác nước ngoài có thể lợi dụng ưu thế của họ để khống
chế các đối tác nội địa, chính vì vậy nếu không có
một khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh thì nhà nước
không thể hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác vươn lên trong cuộc hợp tác và caïnh



tranh với các đối tác nước ngoài … chưa kể đến trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ phải
hợp tác và cạnh tranh với hàng loạt các đối tác nước
ngoài rất mạnh về vốn và công nghệ. Họ chỉ muốn ở
Việt Nam chỉ còn lại những doanh nghiệp nhỏ làm vệ
tinh, đại lý tiêu chụ cho họ và những doanh nghiệp này
sẽ không có khả năng cạnh tranh đáng kể với họ.
Vì vậy, nếu Việt Nam không có một khu vực kinh tế
nhà nước đủ mạnh sẽ khó có thể vừa hợp tác hiệu
quả lại vừa giữ vững được sự ổn định kinh tế, chính trị,
xã hội trên mỗi bước đường đi lên CNXH.
b. Thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước trong
thời gian qua :
Gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở nước
ta, Đảng và Nhà nước đã thực hiện chủ trương, biện
pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước. Trong bối cảnh thế giới có nhiều
diễn biến phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn
gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều thử
thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp
phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước, đưa nước ta ra khỏi khủng
khoảng KT-XH, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Doanh
nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lónh vực
theo chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp
phần chủ yếu để thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn
định và phát triển KT-XH tăng thế lực của đất nước.

Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách, kim
ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước
ngoài, là lực lượng quan trọng thực hiện các chính sách
xã hội, khắc phục thiên tai và bảo đảm nhiều sản
phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc
phòng, an ninh. Doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích
ứng với cơ chế thị trường, năng lực sản xuất tiếp tục
tăng, cơ cấu ngành càng hợp lý hơn trình độ công nghệ
và quản lý có nhiều tiến bộ, hiệu quả và sức cạnh
tranh từng bước được nâng lên, đời sống của người lao
động từng bước được cải thiện. Cụ thể trong những năm
qua kinh tế nhà nước đã đóng góp 60%, 70% tổng thu
(trong nước), thu hút và tạo việc làm cho hàng triệu lao
động, các tổ chức nhà nước đã có mặt tại các vùng
sâu, vùng xa, vùng khó khăn, nơi các thành phần kinh
tế khác chưa dám bỏ vốn đầu tư vào đó, đặc biệt là
đã đảm nhiệm những ngành, nghề những lónh vực vừa


đòi hỏi nhiều vốn, vừa ít lãi, vừa có thời gian thu hồi
vốn dài và khó khăn.
Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những
mặt hạn chế, yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng như :
quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa thật
tập trung vào những ngành, lónh vực then chốt, nhìn chung
trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém,
chưa thật sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất
kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng
với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của nhà

nước, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, nợ không
có khả năng thanh toán tăng lên, lao động thiếu việc
làm và dôi dư còn lớn. Sau đây là một số ví dụ cụ
thể :
* Đối với doanh nghiệp nhà nước :
Toàn bộ đóng góp của doanh nghiệp nhà nước
vào ngân sách hàng năm chỉ tương đương với tiền thuê
đất đối với những diện tích đất đang được sử dụng.
Sau vài chục năm hoạt động, rất ít doanh nghiệp nhà
nước đổi mới được công nghệ, kỹ thuật phần lớn doanh
nghiệp nhà nước vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu. Điều
này cho thấy phần lớn doanh nghiệp nhà nước chỉ có
khả năng tài sản xuất giản đơn.
Doanh nghiệp nhà nước thu hút 90% tổng đầu tư của
ngân sách, trên 80% tổng tín dụng của ngân hàng thương
mại quốc doanh nhưng chỉ thu hút được 5% tổng số lao
động đang làm việc trong nền kinh tế.
Tham ô, thất thoát vốn từ thua lỗ trong hệ thống
doanh nghiệp nhà nước là rất lớn, rất chậm và khó
khắc phục.
* Đối với các bộ phận khác của kinh tế nhà nước
:
Tài sản nhà nước, tài chính nhà nước, nhân lực
nhà nước đang được quản lý, sử dụng với hiệu quả
thấp : thất thu thuế không dưới 20 – 25% rơi rụng trong
xây dựng cơ bản không dưới 20 – 30% tổng vốn đầu tư,
nợ khó đòi trong tín dụng nhà nước không dưới 10 – 15%.
Tham ô tài sản nhà nước ngày càng nhiều, có vụ lên
tới vài ngàn tỷ đồng ….
Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà

nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do
những nguyên nhân chủ quan chưa có sự thống nhất cao
trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước
và doanh nghiệp nhà nước, về yêu cầu và giải pháp
sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước, nhiều vấn đề chưa rõ còn ý


kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để
kết luận. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà
nước còn nhiều yếu kém, vướng mắc, cải cách hành
chính chậm. Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa
đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với kinh tế thị
trường CNXH chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy
cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao
năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh, một bộ
phận cán bộ doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng yêu
cầu về năng lực và phẩm chất. Sự lãnh đạo của Đảng
và chỉ đạo của chính phủ đối với việc đổi mới và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước chưa tương
xứng với nhiệm vụ quan trọng và phức tạp này. Tổ
chức và phương hướng hoạt động của Đảng tại doanh
nghiệp nhà nước chậm được đổi mới.
III. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ SỞ HỮU TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở
VIỆT NAM :
Ở phần trên chúng ta đã đề cập đến chủ trương
đổi mới chế độ sở hữu do Đảng ta đề ra. Đây là
những chủ trương hết sức đúng đắn, là nền tảng để
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở

nước ta, để từ đó chúng ta có thể thực hiện được mục
tiêu : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh. Tuy nhiên, để thực hiện được những điều đó chúng
ta cần những chiến lược đúng đắn để phát huy tối đa
hiệu quả của các thành phần kinh tế mà trong đó kinh
tế nhà nước phải nắm vai trò chủ đạo và giải quyết
đúng đắn vấn đề sở hữu luôn là vấn đề chiến lược
trong đường lối, chính sách kinh tế nhằm thúc đẩy kinh
tế tăng trưởng và hiệu quả cao. Chúng ta cần có
nhữntg giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động của
các doanh nghiệp thuộc từng thành phần. Sau đây là
một số giải pháp chủ yếu :
a. Đối với kinh tế nhà nước : Trong vấn đề sở hữu
cần tác động nội dung :
Thứ nhất :Củng cố phát triển những doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả, cho thuê hoặc chuyển hình thức
sở hữu các cơ sở thua lỗ kéo dài không có khả năng
vươn lên, hình thành các liên hiệp hoặc các tổng Công
ty.
Thứ hai : Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
quyền sở hữu và quyền sử dụng, quan hệ giữa nhà
nước và xí nghiệp quốc doanh. Tiến hành việc giao vốn
và áp dụng rộng rãi các hình thức khoán trong xí nghiệp
quốc doanh.



×