Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phan tich tac pham co to mon van lop 6 6 bai ltcox

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.94 KB, 16 trang )

Bài văn mẫu lớp 6
Phân tích tác phẩm Cơ Tơ
Dàn ý phân tích tác phẩm Cơ Tơ
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân (những nét chính về cuộc đời,
phong cách sáng tác…)
- Giới thiệu khái quát về bài văn Cô Tô (xuất xứ, khái quát giá trị nội dung, giá
trị nghệ thuật…)
II. Thân bài
1. Cảnh Cơ Tơ sau cơn bão
- Vị trí quan sát: nóc đồn
- Cảnh vật sau cơn bão:


Một ngày trong trẻo, sáng sủa.



Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt.



Nước biển lam biếc đậm đà hơn.



Cát lại vàng giịn hơn.



Lưới nặng mẻ cá giã đôi.



=> Cảnh vật Cô Tô hiện lên trong trẻo, tinh khiết, tràn đầy sức sống sau cơn bão
2. Cảnh mặt trời lên trên đảo Cơ Tơ
- Điểm nhìn: từ những hòn đá đầu sư, sát mép nước
- Cảnh mặt trời mọc được miêu tả:




Chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi



Mặt trời nhú lên dần dần



Trịn trĩnh, phúc hậu như một quả trứng thiên nhiên đầy đặn



Quả trứng hồng hào... nước biển ửng hồng



Y như một mâm lễ phẩm

=> Hình ảnh mặt trời trên biển huy hồng, rực rỡ với tài quan sát tinh tế, cảnh
mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong sự giao thoa hân hoan giữa con người
với thế giới.

3. Cảnh sinh hoạt buổi sáng của con người trên đảo Cô Tô
- Quanh giếng nước ngọt: vui nhộn như một cái bến và đậm đà mát nhẹ
- Chỗ bãi đá: bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp...
- Thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về.
- Cuộc sống thanh bình: “Trơng chị Châu Hịa Mãn địu con... lũ con hiền lành”.
=> Tác giả thể hiện sự đan quyện cảm xúc giữa người và cảnh, đồng thời thể
hiện tình u Cơ Tơ của riêng Nguyễn Tn.
III. Kết bài
Đánh giá lại tác phẩm Cơ Tơ của Nguyễn Tn.

Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 1
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác
nhiều về đề tài cuộc sống mới, con người mới trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. “Cô Tô” là một bút ký in trong tập ký cùng
tên, xuất bản năm 1976. Nguyễn Tuân đã ghi lại những ấn tượng tốt đẹp của
mình về cảnh sắc tuyệt vời của quần đảo Cơ Tơ trong vịnh Bắc Bộ và hình ảnh
những ngư dân cần cù lao động, góp phần làm giàu cho Tổ quốc. Đồng thời thể


hiện tình yêu thiên nhiên và con người đằm thắm, thiết tha của mình qua thiên
bút ký này.
Bài văn trong sách giáo khoa là đoạn cuối, gồm ba phần. Mỗi phần miêu tả một
cảnh thiên nhiên hoặc sinh hoạt của người dân trên đảo Cơ Tơ. Tất cả đều tốt
lên vẻ đẹp tươi sáng, phong phú và độc đáo thông qua cảm nhận tinh tế và nghệ
thuật miêu tả tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân.
Phong cảnh Cô Tô sau khi cơn bão đi qua hiện lên như một bức tranh tuyệt đẹp.
Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên
màu xanh mượt của cây, màu vàng giòn của cát và màu trắng của sóng xơ dào
dạt vào đảo. Cảnh thiên nhiên được miêu tả từ cao xuống thấp. Từ nóc đồn trên
đảo, Nguyễn Tuân nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng,

quay gót 180 độ mà ngắm cả tồn cảnh đảo Cơ Tơ. Cảnh đẹp được thu vào tầm
mắt khiến nảy sinh trong lòng nhà văn một cảm xúc mãnh liệt: “càng thấy yêu
mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng
ở đây”.
Đọc đoạn trích này, người đọc không thể nào quên cảnh mặt trời mọc trên biển
Đơng. Đây là một bức tranh lộng lẫy, huy hồng hiếm có. Cảnh mặt trời mọc
được miêu tả trong một không gian rộng lớn, bao la, trong trẻo, tinh khôi: “Sau
trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi”. Tác giả đã
dùng hình ảnh so sánh đặc sắc, ví mặt trời sau khi lên “tròn trĩnh phúc hậu như
lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn, hồng hào”. Còn mặt bể là “một
mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước
biển hửng hồng’”.
Tiếp đến là hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh
bình. Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Ln sớm nay có khơng biết bao
nhiêu là người đến gánh và múc. Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng
xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá


hồng, vẻ thanh bình của cuộc sống cịn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng
của nhà văn trước hình ảnh: “Chị Châu Hồ Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên
tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”. Nguyễn
Tuân cảm nhận rất tinh tế về sắc thái riêng của cuộc sống ở Cơ Tơ. Điều đó
được thể hiện qua so sánh: “Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái
sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong
đất liền”. Biển Cô Tô đẹp mê hồn. Sức hấp dẫn của biển cả và những sản vật mà
nó hào phóng ban tặng cho con người đã thu hút biết bao chàng trai ra biển để
làm giàu cho cuộc sống và cho Tổ quốc. Chủ nhân của vùng đảo tươi đẹp này là
những ngư dân ngày đêm bám biển. Họ “ăn sóng nói gió” và đã quen chịu đựng
những khó khăn gian khổ do thời tiết khắc nghiệt gây nên.
Kết thúc bài kí là cảnh đồn thuyền chuẩn bị ra khơi và chị Châu Hoà Mãn địu

con đứng trên bãi biển tiễn chồng. Đó là những hình ảnh tiêu biểu của cuộc
sống lao động khoẻ khoắn, vui tươi của những ngư dân cần cù, chất phác trên
đảo Cô Tô.
Cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt của con người trên đảo và vùng biển Cơ Tơ
được miêu tả trong đoạn trích thật tươi đẹp, trong sáng và đa dạng qua ngòi bút
điêu luyện, giàu cảm xúc của Nguyễn Tuân. Đặc biệt, cảnh mặt trời mọc trên
biển là một bức tranh huy hoàng, lộng lẫy đầy chất thơ.
Đoạn trích trên đây đã giúp người đọc hiểu thêm về một cảnh quan nổi tiếng
của đất nước. Từ đó càng thêm yêu mến, gắn bó và tự hào về Tổ quốc Việt Nam
giàu đẹp.

Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 2
Nguyễn Tuân là nhà văn nổi tiếng, có sở trường về thể tuỳ bút và kí. Tác phẩm
của Nguyễn Tn ln thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa và sự hiểu biết
phong phú nhiều mặt. Bài văn Cô Tô là phần cuối của bài ký cùng tên. Đoạn


trích đã phần nào ghi lại được những ấn tượng về thiên nhiên, con người lao
động ở vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến ra thăm đảo.
Mở đầu là đoạn văn miêu tả vẻ đẹp của đảo Cô Tô sau cơn bão. Cảnh thiên
nhiên hiện lên thật trong sáng, tinh khôi trong buổi sáng đẹp trời: “Bầu trời
trong sáng, cây thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc, đậm đà hơn hết cả mọi
khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa”. Ngỡ như đất trời biển Cơ Tơ được rửa sạch,
được tái tạo để hố thành một cảnh sắc trong sáng tuyệt vời. Để “vẽ” được bức
tranh tồn cảnh của đảo Cơ Tơ sau cơn bão, tác giả phải công phu lắm mới chọn
được những hình ảnh tiêu biểu: bầu trời, nước biển, cây trên đảo, bãi cát, và đi
với những hình ảnh ấy là một loạt tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng: Bầu trời thì
trong trẻo, sáng sủa, cây trên biển thì xanh mượt, nước biển lam biếc, cát lại
vàng giịn. Có được cảnh sắc đẹp như vậy là do nhà văn đã chọn được vị trí
quan sát từ trên điểm cao trên nóc đồn để nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn

phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm tồn cảnh đảo Cơ Tơ. Sau cơn
bão, thiên nhiên ở đảo Cô Tô hiện lên thật là đẹp. Phải chăng bức tranh đảo Cơ
Tơ đẹp bởi có tình người của Nguyễn Tn?
Thật là thiếu sót nếu ta khơng nói đến cảnh mặt trời mọc trên biển trong bức
tranh thiên nhiên của đảo Cô Tô. Cảnh tượng được Nguyễn Tuân miêu tả hùng
vĩ, rực rỡ và tráng lệ biết bao. Cảnh Cơ Tơ có cái màu xanh lam biếc của biển
buổi chiều, lại có cái màu đỏ rực rỡ của mặt trời buổi sớm nhô lên biển lúc hừng
đông. Nguyễn Tuân đã thức dậy từ canh tư ra mãi thấu đầu mũi đảo để ngồi rình
mặt trời lên. Đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã thực sự mang đến cho người đọc
những dịng viết tài hoa về cảnh tượng vơ cùng độc đáo. Sau trận bão, chân trời,
ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên
cho kì hết. Trịn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn.
Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đứng bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính
mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng.
Những so sánh thật bất ngờ, những liên tưởng thật thú vị. Nhưng đến liên tưởng


tiếp theo thì mới thực sự tài hoa, mới in đậm phong cách Nguyễn Tuân: “Y như
một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất
cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đơng”. Màu sắc hài hồ giữa đỏ,
hồng, bạc, ngọc trai, chi tiết tạo hình rất độc đáo quả trứng hồng hào thăm thẳm
và đường bệ đặt lên mâm bạc khổng lồ; hình ảnh từ ngữ sang trọng: “Mâm lễ
phẩm, bạc nén, trường thọ”. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp vừa hùng vĩ đường bệ,
vừa phồn thịnh và bất diệt, lại rực rỡ, tráng lệ làm lên một ấn tượng riêng đặc
sắc về trời biển Cô Tô.
Tiếp đến, cuộc sống của người dân trên biển càng làm cho bức tranh đảo Cô Tô
thêm sinh động. Cảnh sinh hoạt và lao động trên đảo trong một buổi sáng được
tác giả tập trung miêu tả vào một địa điểm là cái giếng nước ngọt ở rìa đảo. Tại
đây, những người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Khung cảnh
thật thanh bình, nhịp điệu của cuộc sống lao động khẩn trương, tấp nập, đông

vui: “Cái giếng nước ngọt của đảo Thanh Ln sớm nay có khơng biết bao
nhiêu là người đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những
cong, những ang gốm màu da lươn [...] Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái
giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về, vẻ thanh bình của cuộc
sống cịn được thể hiện trong một hình ảnh mang nét riêng của Cơ Tơ, lại hàm
chứa ý nghĩa Trơng chị Châu Hồ Mẫu địu con, thấy nó dịu dàng n tâm như
cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cả cho lũ con lành”. Được chứng kiến
cảnh đó, Nguyễn Tuân đã có sự cảm nhận về sắc thái riêng một cách tinh tế, khi
ông so sánh Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó
vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền. Vui như
một cái bến thì nơi nào cũng có, nhưng đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong
đất liền thì chính là cái sắc thái riêng của khơng khí trong lành và tình người
đậm đà trên biển Cô Tô.
Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong
sáng và tươi đẹp qua ngôn ngữ điêu luyện và sự miêu tả tinh tế, chính xác, giàu


hình ảnh và cảm xúc của Nguyễn Tuân. Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến
một vùng đất của Tổ quốc - quần đảo Cơ Tơ.

Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 3
Ký là một thể loại văn tự sự có những yêu cầu riêng so với truyện ngắn hoặc
tiểu thuyết. Một trong những đặc trưng khác biệt đó là tính chân thực, khách
quan (chứ khơng phải là hư cấu, tưởng tượng). Cách ghi chép của bài kí tưởng
như đơn giản, nhưng thực ra không phải thế. Người viết ký phải đem đến cho
bạn đọc những bức tranh, những câu chuyện vốn có thực ở ngồi đời thơng qua
cách nhìn riêng, cách cảm nhận riêng. Đó chính là “cái tơi” của tác giả. Bởi thế,
có những cảnh, những người vẫn chung sống quanh ta, nhưng đến một lúc nào
đó, có ánh sáng của nghệ thuật soi vào, thế giới hiện thực ấy bỗng nhiên thức
dậy sinh động lạ thường như có bàn tay của phép lạ. Cơ Tơ của Nguyễn Tuân là

một trường hợp như vậy, một định nghĩa điển hình về thể kí. Ở bài kí nhỏ này
(thực ra là một đoạn trích), ta thấy được một cái nhìn nghệ sĩ thật tinh tế, tài hoa.
Bức tranh tồn cảnh của Cơ Tơ được giới thiệu ở phần đầu giống như một cánh
cửa mở ra giúp kẻ lữ hành có một cái nhìn khái qt. Nhưng, dù chỉ khái quát,
ấn tượng mà vùng đất, vùng trời nơi đây để lại khá sâu. Chúng ta có cảm giác
như bước vào một vùng thời gian và không gian không giống như bất cứ nơi
nào. Nhà văn như làm mới lại một cái gì đã cũ. Hình như ở đây, người nghệ sĩ
đã có một cái nhìn xun thời gian để nối liền hiện tại với quá khứ, một quá khứ
từ trăm năm, nghìn năm. Câu văn có ba mệnh đề thì hai mệnh đề trước đó như
một quy trình của sự phục sinh. Thì ra cái trong trẻo mà ta có được bây giờ
trong cảm nhận đã được sàng lọc từ lâu, từ khi quần đảo Cô Tô "mang lấy dấu
hiệu của sự sống con người", và phải qua "giông bão". Cái nhìn trải nghiệm vừa
có một trầm tích văn hố lịch sử xa xơi sâu lắng vừa rất đỗi non tơ. Giữ cho bầu
trời Cô Tô trong sáng như hôm nay là một tâm hồn rất trẻ. Độ tươi trẻ và đằm
thắm mặn mà của trời biển Cô Tô cần đến một sự tinh tế mới phần biệt được
màu “xanh mượt" của cây trên núi đảo, với màu “lam biếc” của nước biển ngoài


khơi, cả cái màu “vàng giòn” nhảy múa. Tất cả như xôn xao, sống dậy sau cơn
giông tố dập vùi.
Nâng lên một độ cao hơn nữa, ta có thêm độ rộng, độ rộng của tầm nhìn trước
một “bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng”, một cái nhìn thống
đãng, mà tuyệt khơng có cảm giác vạng lạnh, cơ đơn. Vì càng mở ra độ rộng, ta
càng có độ sâu. Người lữ hành “nhập cuộc” với lịng thương mến vơ bờ "như
bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây". Bởi Cơ Tơ
có bao nhiêu bạn hữu, những Tơ Bắc, Tơ Trung, Tô Nam... sát cánh cùng nhau,
cũng như cái ấm áp của “Anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong
cái đồn khố xanh cũ ấy”.
Cảnh mặt trời mọc trên biển Cơ Tơ thật hồnh tráng và rực rỡ lạ thường. Được
chiêm ngưỡng nó, với nhà văn là một hạnh phúc hiếm hoi. Để “rình mặt trời

lên” phải dậy từ canh tư, đi từ còn tối đất, trên con đường lạ lẫm: “những tảng
đá đầu sư”. Nhưng với bao nhiêu háo hức, hồi hộp trong lịng, ơng chẳng ngại.
Thậm chí cịn như trẻ lại. Và quả nhiên, trời cũng chiều người, nhà văn được
chứng kiến một cảnh tượng kì thú. Mặt trời mọc “trịn trĩnh, phúc hậu như lòng
đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn”. Táo bạo và tài hoa khơng dừng ở sự so
sánh. Hoặc nói đúng hơn, vẫn là so sánh nhưng mở dần ra theo chiều liên tưởng
thú vị liên tiếp bất ngờ. Nguyễn Tuân đã đặt cái “quả trứng hồng hào” ấy lên
một cái mâm bạc, mà đường kính của nó “rộng bằng cả một cái chân trời màu
ngọc trai nước biển hửng hồng” thì thật là đài các, sang trọng. Rồi nhà văn so
sánh cảnh tượng thiên nhiên với mâm lễ phẩm nhưng không phải để long trọng
dâng lên một thứ quyền uy tối thượng nào (cho phù hợp với cái nghi thức quý
phái cao sang) mà đột ngột thân tình: “mừng cho sự trường thọ của tất cả những
người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân
nếu so với những cái gì trước đày (trước 1945), nó đã đổi chiều. Nhà văn đã tự
làm một cuộc cách mạng trong cảm quan của mình trước cuộc sống.


Trung tâm sự sống - sự sống của con người nơi đây là cái giếng nước ngọt của
đảo Thanh Luân. Nếu cảnh mặt trời mọc là cảnh của chiêm bao, của mơ mộng,
nó thật nghệ sĩ, tài hoa thì cái giếng nước ngọt là tiêu biểu cho cái thực thuần
phác và đầy ắp tình người. Cái “thực” ấy được miêu tả theo lối chứng minh cho
một cảm nhận trực giác (lòng giếng vẫn còn rớt lại vài cái lá cam lá quýt), nghĩa
là không phải một thứ giếng tiên trong thần thoại, cổ tích thời nào. Trước hết,
cái giếng ấy thân thuộc biết bao với dân trên đảo. Người ta đến đó để tắm gội,
để múc nước mang về, nghĩa là rất giống một thứ giếng làng có gốc đa, bến
nước của chốn quê hương các vùng châu thổ. Cái cảm giác có thực của nó được
nhận biết khơng phải bằng trí tưởng tượng mà trên da thịt con người, từ những
gầu nước của nó mà nhà văn vừa đi ngắm cảnh mặt trời mọc trở về đang “dội
lên đầu lên cổ lên vai lên lưng”. Còn những người lao động bình thường thì có
thể múc nước đổ vào mọi thứ: vào thùng gỗ, vào những cong, những ang gốm

màu da lươn. Chỉ có một điều khác là cái giếng nước ngọt ấy do vị trí đặc thù
của nó ở rìa một hịn đảo giữa nước mặn mênh mơng, mà sinh hoạt của con
người, xung quanh nó “vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ
trong đất liền”. Không chỉ thân thuộc, cái giếng ấy cịn như một thứ dịng sữa
ni người, của mẹ ni con. Cảm nhận thứ hai này bất chợt hiện ra khi người
viết tìm được một ý tưởng mới lạ trong cái cử chỉ quen thuộc của chị Châu Hoà
Mãn địu con. Nhìn cử chỉ “dịu dàng yên tâm” như thế nào của người mẹ, nhà
văn mới tìm ra được cái âu yếm ni người của biển cả. Hình ảnh người mẹ dịu
con gợi “hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành”. Thì ra biển cả
tuy hung dữ thế mà rất đỗi khoan dung.
Như vậy đoạn trích “Cơ Tơ” đã khắc họa được khung cảnh thiên nhiên và sinh
hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tơ thật trong sáng và tươi đẹp.

Phân tích tác phẩm Cô Tô - Mẫu 4


Cơ Tơ là một trong những bài kí tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Tuân. Khi đọc
tác phẩm này, khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo
Cô Tô thật sẽ được khắc họa vô cùng chân thực.
Quần đảo Cô Tô vừa trải qua cơn bão. Cảnh vật và sự sống như bừng lên, trong
sáng, cây cối trên núi đảo xanh mướt như để thi màu sắc với biển. Nước biển
màu xanh lam lẫn từng đợt sóng vào bãi cát vàng. Theo nhà văn thì những ngày
động biển cá sẽ vắng mặt biệt tích nhưng sau đó thì những mẻ lưới lại nặng
thêm, ơng kể việc đi tham quan của mình để giới thiệu rằng Cơ Tơ có cả Tơ Bắc,
Tơ Trung, Tơ Nam và nếu trèo lên góc đồi thì nhìn ra bao la Thái Bình Dương,
bốn phương tám hướng.
Thật là đẹp cái nắng ở Cô Tô. Nắng soi vào người chiếu ánh trắng lên trên hàm
răng. Nắng làm nổi gân cái buồm cánh dơi, nhuộm tươi lại lá buồm nâu cũ. Nhà
thơ dùng lối văn miêu tả so sánh vừa lạ vừa sống động: “Sau trận bão, chân trời,
ngấn bể sạch như tâm kính lau hết bụi… vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao

lại trên mâm bể, sáng dần lên cái chất bạc nén”. Tiếp đến ông quan sát và tả lại
màu nước biển của Cơ Tơ. Đó là một màu xanh ln biến đổi, mà các dạng màu
xanh này phải tìm ở vốn tự vị mới hết được.
Nguyễn Tuân đã để cho màu xanh của nước biển có sự biến hóa linh hoạt. Màu
xanh của cỏ cây, núi đồi, không thể đủ phơ diễn nhà văn phải so sánh, ví von
như màu xanh của áo thư sinh Kim Trọng, Tư mã Giang Châu… Và ông vẫn
chưa thỏa mãn với những màu xanh ấy mà cịn nói: “màu xanh nước biển chiều
nay như trang sử của loài người “nghĩa là như thân tre khi người ta dùng nó để
viết… có những màu xanh chỉ miêu ta do cảm quan của nhà văn làm em khơng
hiểu nổi ví như “màu xanh dầu xăng của những người thiếu quê hương”.
Đặc biệt nhất là khung cảnh mặt trời mọc được miêu tả tinh tế. Cả một bầu trời,
một chân trời được nhà văn vẽ lên trên giấy: “Quả trứng hồng hào thăm thẳm,
và đường bệ đặt lên mâm bạc đường kính rộng cả bằng một cái chân trời màu


ngọc trai nước biển, ửng hồng”. Sức tưởng tượng của nhà văn vượt ra khỏi tầm
nhìn trở lại trong tâm linh đề minh họa cái bầu trời một buổi sáng kia: “Y như
một mâm lễ phẩm tiến ra từ bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả
những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông”. Và nhà văn bỗng gặp cả một
cảnh kỳ thú tìm thấy từ trong ngữ của minh hòa vào với thiên nhiên trước mắt.
“Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên các chất bạc
nến. Một con hải âu bay ngang là là nhịp cánh”.
Nguyễn Tuân đã khắc họa được nét đẹp chân thực của Cô Tô. Tác phẩm đã đem
đến cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Phân tích tác phẩm Cơ Tơ - Mẫu 5
Nguyễn Tuân (1910 - 1987), là một nhà văn nổi tiếng được xếp vào hàng một
trong chín nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, với sở
trường chủ yếu là tùy bút và kí. Trước cách mạng tháng tám các chủ đề của
Nguyễn Tuân chủ yếu xoay quanh những vẻ đẹp “vang bóng một thời” với

những tác phẩm khá thành cơng như: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt
cua, hay Một chuyến đi... Sau cách mạng, ơng tìm đến với chủ đề mới về ngợi
ca quê hương đất nước, vẻ đẹp của con người trong lao động, với các tác phẩm
tiêu biểu như tùy bút Sông Đà, tập ký Cô Tô, Tùy bút kháng chiến... Đoạn trích
Cơ Tơ là phần cuối của tác phẩm ký Cô Tô, ghi lại những ấn tượng của tác giả
về thiên nhiên, con người và cuộc sống lao động sau một chuyến ra thăm đảo
Cô Tô.
Trong phần đầu của đoạn trích tác giả Nguyễn Tuân đã đi vào miêu tả lại vẻ đẹp
trong sáng, tươi trẻ của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Tác giả đã dùng một
loạt các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ
tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô sau khi bão tan như: trong trẻo, sáng sủa,
xanh mượt, lam biếc, vàng giịn. Khơng chỉ đặc sắc ở việc dùng lựa chọn từ ngữ
mà tài năng của Nguyễn Tuân còn bộc lộ ở cách mà tác giả lựa chọn những
cảnh sắc tiêu biểu để gợi ra khung cảnh của Cô Tô như: bầu trời, nước biển, cây


trên núi, bãi cát. Đó đều là những hình tượng tiêu biểu của một vùng đảo, cho
người đọc những hình dung cơ bản nhất về bức tranh mà Nguyễn Tuân định tái
hiện - đảo Cô Tô sau bão. Đứng từ một điểm cao nơi đóng quân của bộ đội,
Nguyễn Tuân phóng tầm mắt ra xa mở ra khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng
của đảo bằng hai từ “trong trẻo và sáng sủa”. Thiên nhiên nơi đây ngập tràn sức
sống với hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt”, gợi ra dáng vẻ sạch sẽ,
mướt mát, tinh khiết của cây cối, cùng với đó là màu “lam biếc” đậm đà của
nước biển, và sự “vàng giòn” của cát biển, đem đến cho chúng ta một bức tranh
khoáng đạt, trong trẻo, với những gam màu nhẹ nhàng, thanh sạch. Bên cạnh đó
sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác với những gam màu xanh, vàng sang vị giác
với các tính từ “đậm đà”, “giịn” đã bộc lộ những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của
Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi đảo xa. Đồng thời
cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong lịng độc giả khơng chỉ là vẻ đẹp của
Cơ Tơ và còn là nghệ thuật dùng từ ấn tượng, đạt đến trình độ thượng thừa của

tác giả.
Sang phần tiếp theo của đoạn trích, hình ảnh đảo Cơ Tơ lại được tác giả tái hiện
qua quang cảnh mặt trời mọc trên biển - một cảnh tượng tráng lệ, hùng vĩ và
tuyệt đẹp. Ở đoạn này toàn bộ bức tranh tranh trẻo, thanh khiết sau bão đã trở
thành nền tảng để làm nổi bật lên vẻ đẹp rực rỡ của bình minh. Hình ảnh mặt
trời mọc được đặt trong một khung cảnh rộng lớn, khống đạt và trong trẻo với
hình ảnh so sánh hết sức độc đáo: “Sau trận bão chân trời, ngấn bể sạch như
một tấm kính lau mây hết bụi”, điều đó dễ dàng khiến khán giả liên tưởng đến
hình ảnh một vịm trời cao rộng, xanh trong khơng một gợn mây. Cùng với đó
là màu nước biển trong tác phẩm cũng “lam biếc” đậm đà, tạ nên bức phông nền
đồng nhất “nước trời một sắc, phong cảnh ba thu” vơ cùng thích hợp để làm nổi
bật vẻ tuyệt diệu của cảnh mặt trời mọc. Cảnh bình minh trong Cơ Tô cũng
được Nguyễn Tuân miêu tả một cách đặc biệt: “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như
lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và
đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời


màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. So sánh thú vị của Nguyễn Tuân khi biến
hình ảnh mặt trời thành một loại thức ăn, việc chuyển đổi cảm giác này mang lại
cảm giác chân thực hơn cả, mặt trời trở nên gần gũi, với vẻ đẹp ấm áp “phúc
hậu” và thân thuộc với con người. Hơn thế nữa việc sử dụng các tính từ “trịn
trĩnh”", “phúc hậu”, “đầy đặn”, "hồng hào", “thăm thẳm” đã đem đến cho người
đọc những cảm nhận rõ nét về dáng hình của mặt trời buổi bình minh. Nó khác
xa với những cảnh bình minh trừu tượng, xa xăm trong văn học xưa và nay. Khi
mà ở đó người ta chỉ thấy được vẻ rực rỡ của những tia nắng, của bầu trời trong
xanh, chứ không bao giờ hình dung ra dáng vẻ thật sự của mặt trời, cũng không
nhận biết được thực ra vẻ đẹp của bình minh chân chính phải xuất phát từ dáng
vẻ mặt trời lúc ló rạng. Khơng chỉ vậy với sự kỳ vĩ tuyệt vời đó Nguyễn Tn
đã ví sự xuất hiện của mặt trời tựa như một “mâm lễ” quý giá thiêng liêng, một
món quà mà tạo hóa hoan hỉ ban tặng cho con người để mừng sự “trường thọ”.

Tô điểm thêm cho quang cảnh bình minh rực rỡ là sự xuất hiện của vài “chiếc
nhạn”, của cánh hải âu là là, gợi cảm giác thanh bình, chậm rãi nơi biển khơi.
Có thể nói rằng trong Cơ Tơ, Nguyễn Tn đã thực sự tinh tế và khéo léo khi
chọn lọc những từ ngữ và hình ảnh so sánh vơ cùng chính xác để đặc tả mặt trời,
từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp tráng lệ, rực rỡ và hùng vĩ của bình minh nơi đây.
Với “chủ nghĩa xê dịch” của mình, Nguyễn Tn ln đi tìm tịi cái đẹp ở khắp
mọi miền Tổ quốc. và trong việc tìm tịi của mình nhà văn ngồi chú ý đến vẻ
đẹp của thiên nhiên, thì con người với cuộc sống lao động cũng là một đề tài mà
tác giả đặt trọng tâm. Ở Cô Tô cũng không ngoại lệ, sau việc tái hiện vẻ đẹp
thiên qua bức tranh trong trẻo, tinh khiết của đảo sau bão và cảnh bình minh rực
rỡ huy hồng, thì Nguyễn Tn bắt đầu đi vào tìm hiểu những vẻ đẹp của con
người trong lao động. Cảnh sinh hoạt được mở ra xoay quanh cái giếng nước
ngọt ở rìa đảo rồi mở rộng ra cảnh con thuyền chuẩn bị ra khơi cùng cảnh dân
chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân
cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến. Tuy nhiên lại
“đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền”, nghĩa rằng sự sinh hoạt ở đây


ln mang một sắc thái phóng khống dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người
bán tranh giành, cãi vã khiến người ta khó chịu. Với chỉ một câu như vậy tác giả
đã dễ dàng cho người đọc những hình dung sơ lược về tính cách của người dân
đảo Cơ Tơ, náo nhiệt, sơi động nhưng hiền hịa, phóng khoáng. Nguyễn Tuân đã
chỉ ra sự cảnh lao động vừa tấp nập, khẩn trương, vừa thanh bình ấy trong nhiều
ý văn, ví như cảnh “Cái giếng nước ngọt đảo Thanh Ln sớm nay khơng biết
có bao nhiêu người đến và múc”, hay câu “Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái
giếng ngọt, thùng và cong gánh nối tiếp nhau đi đi về về”. Những lời tả ấy của
tác giả đã tái hiện một khung cảnh con người chăm chú lao động, miệt mài với
công việc không ngừng nghỉ, cũng làm nổi bật sự đông đúc và dồi dào của
giếng nước ngọt với hình ảnh đồn người nối tiếp nhau "đi đi về về" múc nước
đổ lên thuyền chuẩn bị ra khơi. Bên cạnh dáng vẻ khẩn trương, tấp nập của

những người dân chài thì cảnh sinh hoạt của đảo Cơ Tơ cịn hiện lên với dáng
vẻ thanh bình, chậm rãi trong hình ảnh chị Châu Hịa Mãn địu con mà tác giả
“thấy nó dịu dàng và yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho
lũ con lành”.
Đoạn trích Cơ Tơ là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất của tập ký cùng
tên. Qua ngịi bút uyên bác, tài hoa lối sử dụng từ ngữ điêu luyện, chính xác và
tinh tế nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện thật sinh động vẻ đẹp của thiên nhiên
đảo Cô Tô và cảnh sinh hoạt lao động của những con người nơi đây. Thơng qua
đó bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, tha thiết với những vẻ đẹp kỳ vĩ của đất
nước, cũng như tấm lòng sâu nặng, ngợi ca của tác giả với vẻ đẹp của con người
trong công cuộc lao động đổi mới và xây dựng đất nước.

Phân tích tác phẩm Cơ Tơ - Mẫu 6
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Một trong những sáng tác nổi bật của ơng là đoạn trích Cơ Tơ, Nguyễn
Tuân đã khắc họa lên khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên
vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.


Đầu tiên là khung cảnh Cô Tô sau cơn bão được tác giả tóm gọn lại bởi hai từ
“trong trẻo, sáng sủa”. Sau đó nhà văn bắt đầu khắc họa thiên nhiên Cơ Tơ.
Điểm nhìn của Nguyễn Tn đã xuất phát từ trên cao xuống dưới thấp. Xuất
phát từ nóc đồn trên đảo, nhà văn đã nhìn ra phía mặt biển rộng lớn để chiêm
ngưỡng thiên nhiên của Cô Tô. Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và mặt
nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mượt của cây, màu vàng giòn của cát
và màu trắng của sóng xơ dào dạt vào đảo. Màu xanh bao trùm lên Cơ Tơ,
nhưng với những sắc thái khác nhau. Tồn bộ cảnh đẹp được thu vào tầm mắt
khiến nhà ăn “càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ
ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”.
Nhưng khơng chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh Cơ Tơ cịn được khắc họa qua cảnh

mặt trời mọc. Đây là một bức tranh lộng lẫy, huy hoàng hiếm có. Nhà văn đã
miêu tả thật tinh tế: “Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết
mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Trịn trĩnh phúc hậu
như lịng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm
và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân
trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Hình ảnh so sánh độc đáo. Cảnh tượng
thật hùng vĩ, đường bệ y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để
mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển
Đông.
Cuối cùng, trong nền thiên nhiên ấy, không thể thiếu đi sự xuất hiện của con
người. Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình.
Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Ln sớm nay có khơng biết bao nhiêu là
người đến gánh và múc... Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống
thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng. Và
vẻ đẹp của cuộc sống còn được thể hiện ở suy ngẫm và liên tưởng của nhà văn
trước hình ảnh: “Chị Châu Hồ Mãn địu con, thấy nó dịu dàng n tâm như cái


hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”. Một hình ảnh cuộc sống
rất đỗi đời thường xuất hiện trong trang văn của Nguyễn Tuân.
Tóm lại, đoạn trích “Cơ Tơ” đã khắc họa được cho người đọc hình ảnh một Cơ
Tơ thật sinh động, chân thực. Thiên nhiên và con người nơi đây đẹp đẽ, hiền
hòa làm sao.



×