Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

tiểu luận môn nguyên lý công tác tư tưởng i đề tài nâng cao công tác giáo dục văn hóa đạo đức của người cán bộ, đảng viên huyện ba vì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.97 KB, 35 trang )


HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TUYÊN TRUYỀN


TIỂU LUẬN
Môn: NGUYÊN LÝ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG I
Đề tài: NÂNG CAO CÔNG TÁC GIÁO DỤC VĂN HÓA
ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
HUYỆN BA VÌ
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Phạm Huy Kỳ
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Tuyển Thủy
Lớp : QLVHTT K29A1

HÀ NỘI, 6/2011
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng
sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam , kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí
tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên
định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan,
nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc.
Khẩn trương triển khai cụ thể hoá, thể chế hoá và tổ chức thực hiện có
hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI. Gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn các nhiệm
vụ phát triển kinh tế và đạo đức cách mạng là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã, đang diễn ra sâu
sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện


đại hóa đất nước, tiến đến mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ văn minh". Từ đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
các cấp có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên, ngang tầm, đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ cách mạng.
Bác Hồ đã dạy: "Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém ". Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân. Đạo đức là nền tảng là gốc của mọi cán bộ, đảng viên.
Có đạo đức cách mạng, có lối sống giản dị trong sạch, lành mạnh, cán bộ
đảng viên sẽ có uy tín, có điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
2
Tuy nhiên, đứng trước sự thay đổi to lớn của nền kinh tế thị trường một
bộ phận cán bộ, đảng viên đã thoái hoá biến chất, làm suy giảm lòng tin của
quần chúng nhân dân với Đảng, với chế độ.
Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã nhận định: "Sự suy thoái về phẩm
chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng".
Đại hội lần thứ VIII đánh giá sự sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống diễn ra nghiêm trọng hơn: "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí,
kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức lối sống" và "Điều đáng lo
ngại không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về
phẩm chất đạo đức".
Đảng ta đã đưa ra nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng tiêu cực nêu
trên. Song đến nay tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã nhận định: "Tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo
điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng" ,
Đại hội Đảng lần thứ X nhấn mạnh: "Đấu tranh phòng chống tham nhũng

lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ
trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội".
Trước tình hình đó, việc nâng cao đạo đức cách mạng của người cán bộ,
lãnh đạo quản lý là việc cần thiết và cấp bách. Tình hình đạo đức cán bộ
lãnh đạo quản lý ở huyện Ba Vì cũng không nằm ngoài cái chung đó. Vì thế,
để góp phần nhỏ bé vào việc giải quyết vấn đề này tôi lựa chọn đề tài:
"Nâng cao giáo dục văn hóa đạo đức của người cán bộ-đảng viên ở huyện
Ba Vì hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đạo đức đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
đặc biệt quan tâm trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán
3
bộ, đảng viên. Nhiều bài viết, bài nói của Người đã trở thành những công
trình nghiên cứu về đạo đức cách mạng như:
- "Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng", Nxb Sự thật, Hà Nội 1976
- "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng", Nxb Thông tin
lý luận, Hà Nội, 1986.
- "Hồ Chí Minh về đạo đức", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh đã được một số tác giả nghiên cứu trên
cơ sở học tập đạo đức, phong cách làm việc của Người, đề xuất các giải
pháp xây dựng đạo đức mới:
- "Học tập đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh", Nxb Thông tấn, Hà Nội,
2004.
- "Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của công chức theo tư tưởng
Hồ Chí Minh", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998 - Thang Văn Phúc chủ
biên.
- Giáo trình: "Đạo đức học Mác - Lênin" GS, TS Nguyễn Ngọc Long và
PGS. TS Nguyễn Thế Kiệt (Chủ biên) - Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh - Viện triết học - Nxb Lý luận chính trị Hà Nội 2004.
- "Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người

cán bộ, lãnh đạo quản lý", GS. TS Nguyễn Ngọc Long, tạp chí lý luận
chính trị, số 4-2001.
Nhận xét:
Trên đây là những công trình nghiên cứu mà các tác giả đã đưa ra
những chuẩn mực, nguyên tắc , yêu cầu đạo đức cho bộ phận cán bộ-đảng
viên. Khi nghiên cứu các công trình các tác giả thống nhất giữa giáo dục
đạo đức chung và giáo dục đạo đức riêng từ đó biện chứng những mối quan
hệ về đạo đức trên cơ sở kinh tế thị trường. Từ đó đưa ra những giải pháp
cho việc nâng cao giáo dục đạo đức cán bộ-đảng viên hiện nay.
Trên thực tế, ở huyện Ba Vì trong những năm qua cùng với sự hội
nhập, phát triển kinh tế của cả nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Ba Vì đã
gặt hái được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
4
văn hoá xã hội. Hiện thực đó đã được thông qua các văn bản, đánh giá
tổng kết của huyện Ba Vì và được Đảng, Nhà nước công nhận.
Song, thực tế cho thấy tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên ở huyện Ba Vì nói riêng và cả nước nói chung
trong những năm qua không giảm. Vấn đề đặt ra là: Nguyên nhân sâu xa
nào khiến cho những giải pháp của chúng ta đề ra chưa được thực hiện một
cách có hiệu quả.
Cho nên việc nghiên cứu vấn đề đạo đức, xây dựng đạo đức cách mạng
cho cán bộ lãnh đạo quản lý nói chung, ở huyện Ba Vì nói riêng cần tiếp
tục làm sáng tỏ thêm. Từ đó có những giải pháp chủ yếu để xây dựng đạo
đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này.
3. Mục đíchvà nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3. 1. Mục đích
Qua thực tế ở huyện Ba Vì, đề tài đã phân tích thực trạng, nguyên nhân
tình hình đạo đức của cán bộ lãnh đạo quản lý, từ đó đưa ra những giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ này ở
huyện Ba Vì hiện nay.

3. 2. Nhiệm vụ
- Tầm quan trọng và yêu cầu của đạo đức cách mạng ở cán bộ, đảng
viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ thực trạng đạo đức của người cán bộ, đảng viên ở huyện Ba Vì
hiện nay và nguyên nhân của thực trạng này.
- Đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng của
cán bộ, viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở huyện Ba Vì.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
4. 1. Cơ sở lý luận
Đề tài chủ yếu dựa vào quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
đạo đức, đạo đức cách mạng, đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý.
5
Ngoài ra có tham khảo kế thừa các kết quả ở những công trình nghiên cứu
đã được công bố có liên quan đến nội dung của đề tài.
6
4. 2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó tư tưởng chỉ đạo và phương pháp
của đề tài là quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Đề tài sử dụng một số phương pháp cụ thể, trong đó chủ yếu là phương
pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp phân tích điều tra xã hội học, phương
pháp so sánh.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
5. 1. Đối tượng
Đề tài tập trung nghiên cứu đạo đức, thực trạng các cán bộ, đảng viên ở
huyện Ba Vì.
5. 2. Phạm vi
Cán bộ, đảng viên huyện Ba Vì từ năm 2006-2011
6. Ý nghĩa của đề tài

Góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về đạo đức, đạo
đức cách mạng của người cán bộ đảng viên, bổ sung thêm những cơ sở
khoa học có thể tham khảo cho việc hoạch định chiến lược và chính sách cụ
thể liên quan đến vấn đề đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Ba Vì hiện nay.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
môn: Triết học; Kinh tế chính trị; Đạo đức; Văn hoá xã hội trong Trường
Chính trị huyện; Trung học chuyên nghiệp ở huyện Ba Vì.
7. Kết cấu đề tài
Gồm 3 phần:
Phần Mở Đầu
Phần Nội Dung(gồm 3 chương)
Phần kết luận
7
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Yếu tố và vai trò hình thành nên văn hóa đạo đức
để nâng cao đạo đức cho người cán bộ, đảng viên hiện nay
1. 1. Giáo dục đạo đức
1. 1. 1. Các khái niệm liên quan
1. 1. 1. 1. Đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức, một chế định xã hội thực hiện việc
điều chỉnh và đánh giá hành vi con người trong quan hệ con người với con
người, con người với xã hội trên mọi lĩnh vực đời sống. thực hiện bởi niềm
tin cá nhân và sức mạnh của dư luận.
1. 1. 1. 2. Văn hóa đạo đức
Văn hóa đạo đức là hệ thống giá trị , chuẩn mực đạo đức hình thành
trong đời sống xã hội, được cộng đồng xã hội thừa nhận, lĩnh hội, bảo vệ và
trao chuyển. Hệ giá trị này vận hành trong đời sống xã hội nhờ hoạt động
đạo đức của xã hội và của mỗi cá nhân.
Văn hóa đạo đức thể hiện sâu sắc khía cạnh nhân tính của một nền văn
hóa, biến đổi theo lịch sử phát triển mỗi dân tộc. Như vậy với tư cách là một

hình thái ý thức xã hội, khái niệm văn hóa đạo đức rộng hơn và bao hàm cả
khái niệm đạo đức. Triết học quan tâm tới đạo đức như một hình thái ý thức
phản ánh đời sống đạo đức của xã hội, còn văn hóa đạo đức lại quan tâm tới
hệ giá trị chuẩn mực đạo đức của xã hội, tới hoạt động đạo đức của con
người thông qua hành vi đạo đức của mỗi cá nhân và cộng đồng cũng như
phẩm chất nhân văn của nền đạo đức xã hội biểu hiện ở bản than hệ giá trị-
chuẩn mực được đánh giá theo chuẩn tiến bộ nhất của dân tọc và nhân loại.
1. 1. 2. Các yếu tố cấu thành
1. 1. 2. 1. Giá trị đạo đức
Là một loại giá trị tinh thần được hình thành trong đời sống xã hội, thể
hiện qua các đạo lí, nguyên tắc, quy tắc đã được cộng đồng chấp nhận, lựa
8
chọn đáp ứng tối ưu nhu cầu duy tri sự ổn định, bền vững của cộng đồng
trong một thời gian nhất định.
1. 1. 2. 2. Chuẩn mực đạo đức
Cụ thể hóa các giá trị đạo đức, quy định về phép ứng xử của con người
trong đời sống xã hội, từng hoàn cảnh cụ thể với những khuôn mẫu bắt
buộc con người phải thực hiện.
1. 1. 2. 3. Hoạt động đạo đức
Hoạt động đạo đức là yếu tố cấu thành vô cùng quan trọng của văn hóa
đạo đức. Được quyết định bởi ý thức đạo đức và biểu hiện sinh động hành
vi đạo đức mà con người vận dụng trong các mối quan hệ của mình.
1. 1. 2. 4. Con đường giáo dục đạo đức
Để biến nhu cầu đạo đức của xã hội thành đạo đức cá nhân , cần tiến
hành giáo dục qua con đường trực tiếp và con đường gián tiếp.
Con đường trực tiếp là sự truyền đạt tri thức đạo đức trực tiếp cho đối
tượng giáo dục qua sự nhận thức trong quá trình giảng dạy tại nhà trường
và gia đình.
Con đường gián tiếp là con đường tác động đến đạo đức cá nhân của
đối tượng giáo dục thông qua việc tổ chức các phong trào cách mạng thực

tiễn. . Qua việc tham gia hoạt động và qua kết quả của phong trào mà mỗi
người tự rút ra bài học, tìm ra kinh nghiệm cho mình.
1. 1. 2. 5. Nội dung hình thành văn hóa đạo đức
Trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, giải phóng xã
hội, tạo điều kiện cho con người phát triển tự do và toàn diện. Vì vậy, trung
thành với lí tưởng của chủ nghĩa xã hội không chỉ là yêu cầu về chính trị
mà còn là yêu cầu về đạo đức cách mạng.
Lao động tích cực và trung thực.
Lao động là một giá trị đạo đức của cá nhân. Nhưng khi xã hội xuất
hiện giai cấp thì ý nghĩa đạo đức của lao động bị loại bỏ, các giai cấp thống
trị chỉ coi lao động như một phương tiện để bóc lột. Chúng chỉ khai thác giá
9
trị kinh tế của lao động chứ không đếm xỉa đến giá trị đạo đức và các giá trị
xã hội khác của lao động. Từ đó làm cho lao động, vốn coi là một giá trị
đạo đức quý giá nhất của con người, trở thành hình thức khổ sai , đày ải con
người. Trong chủ nghĩa xã hội mọi thành quả lao động đều trực tiếp hoặc
gián tiếp thuộc về nhân dân. Vì vậy, lao động trong chủ nghĩa xã hội vừa là
nghĩa vụ thiêng liêng, vừa là niềm vui, là trách nhiệm của mỗi người. Qua
lao động, con người tự khẳng định mình và đóng góp sức mình vào sự phát
triển xã hội.
Có lòng yêu nước tha thiết và tinh thần quốc tế trong sáng.
Lòng yêu nước là một truyền thống vô cùng quý báu và có sức sống
diệu kì trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính long yêu nước đã tạo nên lịch
sử hào hung dựng nước, giữ nước. Có lòng yêu nước trở thành tiêu chí
thiêng liêng , thành tình cảm lớn, nhu cầu tự nhiên trong đời sống đạo đức
con người Việt Nam.
Có lòng nhân ái đối với cộng đồng.
Mỗi con người tồn tại và phát triển là nhờ cộng đông xã hội. Vì vậy, từ
xa xưa, giữa con người với con người đã có tình yêu thương cao đẹp đối với

nhau. Lòng nhân ái cũng là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Tình cảm
“thương người như thể thương thân”Lá lành đùm lá rách”…
1. 2. Sự cần thiết nâng cao công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ,
đảng viên
Mỗi chế độ có hệ thống những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức riêng
để điều chỉnh hành vi của con người. Nhu cầu đạo đức xuất phát từ xã hội ,
nhưng biểu hiện đạo đức lại thông qua hành vi của cá nhân. Con người một
mặt bị ảnh hưởng bởi các truyền thống đạo đức cũ, mặt khác trong một môi
trường xã hội cụ thể và trình độ cụ thể của từng người cũng chi phối các
quan niệm và hành vi đạo đức của họ. Do đó để tất cả mọi người trong xã hội
đều có thể tiếp nhận và thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực chung, phải tiến
hành đạo giáo dục đạo đức. Trong điều kiện mới của nước ta hiện nay, giáo
dục đạo đức trở thành một nội dung quan trọng trong công tác tư tưởng.
10
Khi bàn về con người, C. Mac coi con người như là một hệ thống
những năng lực thể chất và năng lực tinh thần. Theo C. Mac, đạo đức của
con người thuộc về những năng lực tinh thần-những năng lực không thể
thiếu được, hơn nữa chính nhờ chúng mà những năng lực thể chất có sự
định hướng phát triển đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đề cao và
đánh giá rất đứng mức vai trò của đạo đức. Theo Người, nhân cách con
người bao gồm cả Đức và Tài, trong đó Đức là gốc, Tài là quan trọng. Như
vậy đạo đức là một yếu tố , một mặt của nhân cách cá nhân . Song, nhân
cách , nhân cách đạo đức cá nhân không tự nhiên mà có, nó do sự giáo dục
rèn luyện bền bỉ lâu dài mới có được.
Giáo dục đạo đức ở đây bao gồm cả sự giáo dục về phía xã hội và sự
tự giáo dục của mỗi cá nhân. Nếu như giáo dục từ phía xã hội sẽ giúp cho
mỗi cá nhân hình thành ý thức đạo đức thì sự tự giáo dục của bản thân mỗi
người sẽ giúp họ có khả năng điều chỉnh và duy trì thường xuyên các hành
vi đạo đức. Từ đó có thể thấy rằng giáo dục đạo đức là con đường cơ bản
nhất để hình thành văn hóa đạo đức cá nhân.

Giáo dục đạo đức từ phía xã hội sẽ giúp cho con người nhận thức được
những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức mà xã
hội đặt ra, đồng thời nó còn giúp cho mỗi cá nhân có khả năng lựa chọn ,
đánh giá các hiện tượng đạo đức xã hội, đánh giá tư cách ý thức và hành vi
của bản thân mình. Trong đời sống của bất kì xã hội nào cũng tồn tại những
hệ thống những quan niêm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức để định hướng
hoạt động người.
Giáo dục đạo đức thong qua “sự tự giáo dục” sẽ giúp cho mỗi cá nhân
tự ý thức được trách nhiệm , nghĩa vụ đạo đức cá nhân với người khác và
với xã hội. Mỗi người với tư cách là chủ thể đạo đức phải tự giác, tự
nguyện điều chỉnh hành vi của mình trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức
của xã hội. . Đồng thời cần đi vào hoạt động thực tiễn để rèn luyện và duy
trì thường xuyên các hành vi đạo đức để ngày càng hoàn thiện hơn về nhân
cách. Nhìn chung trong xã hội, có một hiện tượng phổ biến là con người
11
luôn có nhu cầu hướng tới giá trị đạo đức, sống thiện, có ích, làm tròn nghĩa
vụ đạo đức đối với xã hội.
Hiện nay , đất nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường đinh
hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nhân tố đảm bảo cho nền kinh tế
thị trường phát triển đúng định hướng chính trị là người lao động phải có
văn hóa đạo đức. Mặt khác, nền kinh tế thị trường cũng tác động tới văn
hóa đạo đức cán bộ, đảng viên ở cả 2 mặt:tích cực và tiêu cực.
Tác động tích cực:nền kinh tế thị trường với những vận động khách
quan của nó đã đặt cá nhân vào đúng vị trí là chủ thể của quá trình vận hành
nền kinh tế, từ đó vai trò của cá nhân cũng được đề cao trong mọi lĩnh vực
hoạt động. Nếu trước đây lấy giá trị tập thể và xã hội làm chuẩn mực thì
nay lấy giá trị cá nhân. làm con người phát triển sáng tạo, năng động mang
đặc thù cá nhân. Kinh tế thị trường đề cao vai trò cá nhân, làm cho trách
nhiệm của mỗi cá nhân cũng trở nên rõ ràng hơn.
Tác động tiêu cực:Nền kinh tế tạo cho con người có thể làm giàu, vì

vậy mà con người có thể bất chấp tất cả vì lợi ích cá nhân. Sự thay đổi cơ
chế vận hành của nền kinh tế kéo theo sự thay đổi quan niệm về thang giá
trị đạo đức, biểu hiện coi trọng giá trị chính trị xã hôi sang chạy theo các
giá trị kinh tế vật chất;từ chỗ lấy con người xã hội , tập thể làm mẫu mực
chuyển sang quá nặng về con người cá nhân, thậm chí chủ nghĩa cá nhân…
Trước tình hình đó, vai trò của giáo dục đạo đức càng quan trọng , nó
trở thành một yếu tố không thể thiếu trong việc hinh thành và phát triển văn
hóa đạo đức cho cán bộ đảng viên.
12
Chương 2: Thực trạng vấn đề nghiên cứu công tác giáo dục
đạo đức huyện Ba Vì hiện nay
2. 1. Những yếu tố tác động tới công tác giáo dục đạo đức cho cán
bộ đảng viên huyện Ba Vì
2. 1. 1 Điều kiện tự nhiên
Địa lý
Ba Vì là huyện tận cùng phía Tây Bắc của Hà Nội, trên địa bàn huyện
có một phần lớn của dãy núi Ba Vì chạy qua phía Nam huyện, phía Đông
giáp thị xã Sơn Tây, phía Đông Nam giáp huyện Thạch Thất. Phía Nam
giáp các huyện Lương Sơn (về phía Đông Nam huyện) và Kỳ Sơn của Hòa
Bình (về phía Tây Nam huyện). Phía Tây và phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ,
với ranh giới là sông Đà (ở phía Tây) và sông Hồng (sông Thao) (ở phía
Bắc). Phía Đông Bắc giáp huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc, ranh giới là
sông Hồng. Huyện Ba Vì là một huyện bán sơn địa, diện tích tự nhiên là
428, 0 km², lớn nhất Thủ đô Hà Nội. Huyện có hai hồ rất lớn là hồ Suối
Hai, và hồ Đồng Mô. Các hồ này đều là hồ nhân tạo và nằm ở đầu nguồn
sông Tích, chảy sang thị xã Sơn Tây, và một số huyện phía Tây Hà Nội,
rồi đổ nước vào sông Đáy. Trên địa bàn huyện có vườn quốc gia Ba Vì. Ở
ranh giới của huyện với tỉnh Phú Thọ có hai ngã ba sông là: ngã ba Trung
Hà giữa sông Đà và sông Hồng (tại xã Phong Vân) và ngã ba Bạch Hạc
giữa sông Hồng và sông Lô (tại các xã Tản Hồng và Phú Cường, đối diện

với thành phố Việt Trì).
13
Dân số
Theo thống kê năm 2008, dân số huyện Ba Vì sau khi sát nhập vào Hà
Nội là 250. 000 người, gồm các dân tộc: Kinh, Mường, . . .
Hành chính
Trước khi sáp nhập vào Hà Nội, toàn huyện Ba Vì có 1 thị trấn và 31
xã. Ngày 1 tháng 8 năm 2008, cũng như các huyện khác của tỉnh Hà Tây,
huyện Ba Vì sáp nhập vào Hà Nội. Tuy nhiên trước đó, ngày 10 tháng 7
năm 2008, toàn bộ diện tích tự nhiên là 454, 08ha và dân số 2. 701 người
của xã Tân Đức, thuộc huyện Ba Vì được sáp nhập vào thành phố Việt Trì,
Phú Thọ, theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII về điều
chỉnh địa giới hành chính giữa tỉnh Hà Tây và tỉnh Phú Thọ.
[1]
.
Hiện tại, Huyện Ba Vì có 1 thị trấn là Tây Đằng (huyện lỵ) và 30 xã:
Ba Trại, Ba Vì, Cẩm Lĩnh, Cam Thượng, Châu Sơn, Chu Minh, Cổ Đô,
Đông Quang, Đồng Thái, Khánh Thượng, Minh Châu, Minh Quang,
Phong Vân, Phú Châu, Phú Cường, Phú Đông, Phú Phương, Phú Sơn,
Sơn Đà, Tản Hồng, Tản Lĩnh, Thái Hòa, Thuần Mỹ, Thụy An, Tiên
Phong, Tòng Bạt, Vân Hòa, Vạn Thắng, Vật Lại, Yên Bài.
Giao thông
• Đường bộ : có quốc lộ 32 chạy qua thị trấn Tây Đằng, nối Sơn Tây
với Hưng Hóa tỉnh Phú Thọ và đi các tỉnh vùng Tây Bắc Bắc Bộ. Trên
quốc lộ này, đoạn cuối tại xã Thái Hòa, có cầu Trung Hà, bắc qua sông
Hồng.
• Đường thủy : sông Hồng, sông Đà và sông Tích.
Lịch sử
Huyện Ba Vì được thành lập ngày 26/7/1968 trên cơ sở hợp nhất các
huyện cũ Bất Bạt, Tùng Thiện và Quảng Oai của tỉnh Hà Tây. Thời kỳ

1975-78 thuộc tỉnh Hà Sơn Bình. Từ năm 1978 đến năm 1991 thuộc thành
phố Hà Nội. Từ năm 1991 đến năm 2008 thuộc Hà Tây. Từ 1 tháng 8 năm
2008, Ba Vì là một huyện của Hà Nội.
14
2. 1. 2. Sự ảnh hưởng của đặc điểm con người Việt Nam
Trong lịch sử phát triển hàng ngàn năm của dân tộc, con người Việt
Nam đã tạo nên cho mình những đặc điểm xác định về tư duy và lối sống.
Làm rõ những đặc điểm ấy cùng cơ sở hình thành và biến đổi của chúng có
ý nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang đổi mới và hội
nhập quốc tế. Tuy nhiên, khi nghiên cứu đặc điểm về tư duy và lối sống
của con người Việt Nam hiện nay, chúng ta cần quan tâm một số vấn đề
sau đây.
Một là, đặc điểm về tư duy và lối sống của con người. Có hai góc độ
nghiên cứu về con người là góc độ sinh học và góc độ xã hội. Tương ứng
với hai góc độ đó, đặc điểm của con người sẽ bao gồm cả đặc điểm sinh
học và đặc điểm xã hội. Nói đến đặc điểm xã hội của con người trước hết
là nói đến đặc điểm về tư duy và lối sống. Nhưng tư duy và lối sống là gì?
Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về hai khái niệm này. Tuy nhiên, khi
nghiên cứu về tư duy và lối sống của con người thì tư duy cần được hiểu
theo nghĩa rộng là hình thức phán ánh cao nhất chỉ có ở con người, bao
gồm ý nghĩ, ý thức, suy nghĩ, nếp nghĩ, tri thức, hiểu biết, quan niệm,
quan điểm, tư tưởng, nhận thức lý tính. Còn lối sống là phương thức hoạt
động của con người, bao gồm nếp sống, thói quen, phong tục, tập quán,
cách sống, cách làm, cách ăn, cách mặc, cách ở, cách sinh hoạt. Giữa tư
duy và lối sống có quan hệ mật thiết với nhau. Tư duy chỉ đạo hoạt động
của con người, làm cho hoạt động của con người khác với hoạt động của
các loài động vật khác. Thông qua việc nghiên cứu lối sống của một cộng
đồng người nào đó, chúng ta có thể nhận biết được tư duy của cộng đồng
người ấy. Ngược lại, lối sống cũng có ảnh hưởng đến tư duy, vì tư duy

của con người hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện sinh hoạt vật
chất và thông qua hoạt động sống của chính bản thân con người.
Hai là, đặc điểm chung về tư duy và lối sống của con người Việt Nam.
Đặc điểm chung về tư duy và lối sống của con người Việt Nam là đặc điểm
15
chung của con người Việt Nam thuộc 54 dân tộc sống trên đất nước Việt
Nam. Tuy nhiên, “đặc điểm chung của con người Việt Nam” cần được
hiểu không phải là đặc điểm chung của tất cả người Việt Nam, mà là đặc
điểm chung của đa số người Việt Nam. Chúng ta khó tìm ra được đặc điểm
chung về tư duy và lối sống của tất cả người Việt Nam. Chẳng hạn, cần cù
thường được coi là một đặc điểm chung của con người Việt Nam, nhưng
thực ra đó chỉ là đặc điểm của đa số người Việt Nam; bởi, trên thực tế, vẫn
có một số người Việt Nam không cần cù (mặc dù số người này chỉ chiếm tỷ
lệ rất nhỏ).
Ba là, đặc điểm của con người Việt Nam hiện nay. Khái niệm “hiện
nay” thường được hiểu trong quan hệ so sánh với khái niệm “quá khứ” hoặc
khái niệm “truyền thống”. Đặc điểm của con người Việt Nam hiện nay là
những đặc điểm có ở đa số con người Việt Nam hiện nay và cũng có thể là
đặc điểm vốn có ở đa số con người Việt Nam trong quá khứ. Bởi vì, trong
số các đặc điểm của con người Việt Nam hiện nay, có một số đặc điểm
được hình thành từ cách đây hàng ngàn năm (thậm chí hình thành trước khi
nhà nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam xuất hiện), một số đặc điểm hình
thành trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam và một số đặc điểm
mới hình thành trong thời kỳ hiện nay. Nhưng “hiện nay” là giai đoạn nào?
Có người hiểu hiện nay là giai đoạn từ 1945 đến nay. Có người lại hiểu
hiện nay là giai đoạn từ đầu thế kỷ XX (khi nuớc ta bắt đầu tiếp thu văn hoá
phương Tây) đến nay. Cũng có người hiểu hiện nay là giai đoạn từ 1986
(khi nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế) đến nay.
Khi nói đến đặc điểm của con người Việt Nam hiện nay thì khái niệm hiện
nay cần được hiểu theo nghĩa thứ ba. Bởi vì, con người Việt Nam từ trước

1986 có những đặc điểm như ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước, coi
thường thuơng nghiệp, coi thường người buôn bán. Còn con người Việt
Nam từ 1986 đến nay không có hoặc về cơ bản không có những đặc điểm
ấy. Con người Việt Nam từ 1986 về trước không phải là con người Việt
Nam hiện nay
16
Bốn là, các đặc điểm chung và riêng về tư duy và lối sống của con
người Việt Nam. Trong số các đặc điểm về tư duy và lối sống của con
người Việt Nam không chỉ có những đặc điểm của riêng con người Việt
Nam, mà còn có những đặc điểm chung của con người Việt Nam với một
số hoặc tất cả dân tộc khác, những đặc điểm chung đó xuất hiện do người
Việt Nam tiếp thu học hỏi từ các dân tộc khác. Ví dụ, hệ tư tưởng và lối
sống Nho giáo là một đặc điểm về tư duy và lối sống của một bộ phận đáng
kể con người Việt Nam, đặc điểm này được du nhập từ người Trung Quốc.
Đương nhiên, đó là một đặc điểm chung của một bộ phận đáng kể người
Việt Nam và một bộ phận đáng kể người Trung Quốc. Các đặc điểm như
yêu nước, cần cù, hiếu học, khoan dung, đoàn kết, trọng nghĩa. . . cũng
là những đặc điểm chung của người Việt Nam và nhiều dân tộc khác.
Năm là, đặc điểm tích cực và đặc điểm tiêu cực về tư duy và lối sống
của con người Việt Nam hiện nay. Trong số các đặc điểm về tư duy và lối
sống của con người Việt Nam hiện nay có một số đặc điểm tích cực và một
số đặc điểm tiêu cực. Chẳng hạn, trọng tình hơn lý (chín bỏ làm mười,
một trăm cái lý không bằng một tí cái tình) là một quan niệm sống của một
bộ phận đáng kể người Việt Nam hiện nay. Trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền, đây là một đặc điểm tiêu cực mà chúng ta cần ra sức
khắc phục. Bởi, nhà nước pháp quyền đòi hỏi mọi người đều phải sống và
làm việc theo pháp luật, nếu cái lý của pháp luật được thay bằng cái tình
cảm tính của con người thì pháp luật sẽ không còn có ý nghĩa.
Sáu là, đặc điểm bản sắc về tư duy và lối sống của con người Việt
Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khoá VIII) đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản tạo nên bản sắc dân tộc Việt
Nam: “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng
tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. . .
”(1). Nói đến bản sắc dân tộc Việt Nam là nói đến đặc điểm bản sắc của
17
con người Việt Nam. Vì vậy, có thể cho rằng, lòng yêu nước nồng nàn, ý
chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân
- gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống là những đặc điểm bản sắc về tư duy và lối sống
của con người Việt Nam. Ngoài các đặc điểm tích cực, tư duy và lối sống
của con người Việt Nam còn có cả đặc điểm tiêu cực. Tuy nhiên, những
đặc điểm tích cực là cơ bản.
Bảy là, căn cứ khoa học của những nhận định về thói hư tật xấu của
con người Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu khi nói đến đặc điểm về tư
duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay đã kể ra nhiều đặc điểm
tiêu cực hay “thói hư tật xấu”. Chẳng hạn, có ý kiến cho rằng, người Việt
Nam dễ thoả mãn nên thường xuất hiện tâm lý hưởng thụ và đòi hỏi, từ đó
dẫn đến không chịu làm việc; thiếu tầm tư duy dài hạn và chủ động trong
công việc; không có ý thức nâng suy nghĩ đó thành lý luận để áp dụng;
động cơ học tập không phải vì mục đích tự thân phát triển, ít khi học đến
đầu đến đuôi, kiến thức không có hệ thống, không cơ bản; nhưng thiếu
tính liên kết để tạo ra sức mạnh tập thể.
2. 2. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh của huyện trong những năm
qua
2. 2. 1. Thành tựu và nguyên nhân
Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị về

tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” Huyện Ba Vì đã đạt được một số thành tựu:
Năm 2007, đã thành lập Ban chỉ đạo cuộc vận động học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tổ chức sinh hoạt để phân công
trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên của Ban chỉ đạo. những năm tiếp
theo, tiếp tục tiến hành củng cố Ban chỉ đạo. ”. Ban chỉ đạo về học tập và
18
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của Huyện ủy đã triển khai thực
hiện các nội dung:
* Ban chỉ đạo đã triển khai tới 100% cán bộ, đảng viên tham gia nhiều
lớp học tập, quán triệt, thống nhất Kế hoạch thực hiện Cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Sau đó, cho cán bộ và
Đảng viên học tập các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
nghe kể các mẩu chuyện về thân thế và sự nghiệp của Bác, những tấm
gương và lời dạy của Bác về đức tính “ Cần – Kiệm – Liêm – Chính – Chí
công vô tư – Cho Đảng viên tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt, phối hợp
với Ban tuyên giáo Huyện ủy và Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Ba
Vì triển khai nhằm tuyên truyền về học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh.
* Triển khai cho toàn thể cán bộ đảng viên đăng ký học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào tháng 12/2009, đến tháng 10
năm 2010 thì tiến hành viết bài thu hoạch để đánh giá sơ kết quả 9 tháng
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí minh.
* Nhân dịp ngày thành lập Quân đội nhân dân 22-12 hằng năm,
huyện ủy luôn tổ chức cho cán bộ đảng viên nghe kể chuyện truyền thống
về ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, chuyện về anh bộ đội Cụ
Hồ qua lời kể của các Bác Cựu chiến binh của huyện.
19
* Tích cực kẻ vẽ các băng dôn, khẩu hiệu, pano áp phích tuyên
truyền về các nội dung như: “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ

Chí Minh”.
*Hàng năm Ban tuyên giáo huyện Khuyến khích các đồng chí cán
bộ, đảng viên trong huyện nghiên cứu và thực hiện các đề tài sáng kiến
kinh nghiệm để áp dụng hiệu quả trong thực tế.
* Tạo điều kiện cho Cán bộ, Đảng viên học hỏi bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, tham gia các lớp học lí luận chính trị, lớp Bồi dưỡng cán
bộ quản lý, các lớp Đại học từ xa nhằm nâng cao trình độ, lý luận cách
mạng và trình đọ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên giúp
họ thuấn nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, lý tưởng đạo đức cách
mạng của Đảng để cống hiến cho Đảng và cho nhân dân.
* Mạnh dạn đấu tranh với các biểu hiện vi phạm tiêu cực trong Đảng
để làm trong sạch đội ngũ Đảng: Năm 2008 và 2010 đã kỷ luật hai đồng chí
Đảng viên vi phạm sinh con thứ ba bằng hình thức Cảnh cáo Chi bộ, chậm
tăng lương 1 năm.
Nguyên nhân đạt được thành tựu trên:
Chi bộ nhận thức được trách nhiệm trong việc tổ chức triển khai Cuộc
vận động một cách sâu rộng với nhiều nội dung thiết thực, triển khai tới
toàn thể Cán bộ, Đảng viên, giáo viên và học sinh toàn trường, tạo thành
một phong trào có sức lan tỏa nhanh và mạnh tới từng con người, từng
công việc cụ thể tác động không nhỏ đến nhận thức đạo đức, góp phần
nâng cao chất lượng của phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức
của Bác nói riêng và phong trào giáo dục của nhà trường nói chung; chấp
hành nghiêm túc việc tổ chức học tập, quán triệt, xây dựng kế hoạch và
chương trình hành động để thực hiện. Các đồng chí trong HĐSP tích cực
tham gia học tập, viết thu hoạch, tham gia gúp ý, tự liờn hệ kiểm điểm
bản thân, đăng ký rèn luyện, thực hiện đạo đức, lối sống để hoàn thiện
mình hơn.
20
Nhìn chung, chất lượng học tập được đảm bảo về nội dung cũng như
các yêu cầu đặt ra; những nhận thức trong Đảng viên, cán bộ công chức có

chuyển biến tích cực trong việc nắm bắt mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội
dung Cuộc vận động và 02 chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh;
tự giác nêu rõ khuyết điểm, tồn tại, phương hướng rèn luyện, tu dưỡng
đạo đức, lối sống cá nhân.
2. 2. 2. Hạn chế và nguyên nhân
Nhận thức của một số ít Đảng viên, cán bộ về ý nghĩa Cuộc vận động
chưa đúng mức; còn hời hợt và chưa tích cực cao trong học tập.
Việc tổ chức học tập chất lượng chưa cao.
Một số cán bộ, Đảng viên với tinh thần đấu tranh phê bình, tự phê bình
chưa cao; chưa mạnh dạn góp ý; còn nể nang, ngại va chạm vì sợ mất lòng
nhau.
Việc xây dựng nội dung Xây và Chống của một số thành viên trong
đơn vị còn chung chung, chưa gắn với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị;
bài thu hoạch còn sao chép, chưa liên hệ đầy đủ những tồn tại, hạn chế
cũng như phương hướng và mốc thời gian khắc phục, sữa chữa về đạo đức,
lối sống cho từng cá nhân.
2. 3. Vấn đề đặt ra về công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên
huyện Ba Vì
2. 3. 1. Nhận thức của các chủ thể còn nhiều bất cập trong khi yêu cầu
hội nhập ngày càng cao
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Cách mạng là một nghề, nghề gì cũng
phải học, học lý luận Mác-Lênin, học văn hóa, học khoa học-kỹ thuật, học
ngoại ngữ… Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có học thức, phải có
văn hóa. Với mọi cán bộ, đảng viên, Người yêu cầu “vững về chính trị,
giỏi về chuyên môn” và “nghề nào cũng phải học, phải thông thạo”.
Hiện nay khi mà thời đại đã và đang tạo cho nhân loại thu được nhiều
thành tựu kỳ diệu trên các lĩnh vực thì những chân lý của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tựu do cuộc cách mạng khoa học-
21
công nghệ hiện đại đem lại chính là những thăng hoa của văn hóa, là đỉnh

cao trí tuệ của loài người.
Các nhân tố đó đang và sẽ là hành trang và sức mạnh tinh thần không
thể thiếu được để toàn Đảng, toàn dân ta vững bước tiến vào thế kỷ XXI,
một thế kỷ chứa đầy triển vọng nhưng cũng không ít thách thức.
Nâng cao trí tuệ trong tình hình mới đòi hỏi Đảng bộ huyện tiếp tục đổi
mới tư duy. Phải hiểu cho đúng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, biết vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết và tư tưởng đó, đặc
biệt là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội vào những điều kiện lịch sử cụ thể
hiện nay. Phải hiểu cho đúng thực tiễn Việt Nam và thế giới, những xu thế
lớn của thời đại khi nhân loại bước vào thế kỷ XXI, những kiến thức về
khoa học-kỹ thuật, công nghệ hiện đại, và đặc biệt là về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa còn mới mẻ đối với chúng ta.
Từ đó Đảng không ngừng hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính
sách xây dựng và bảo vệ đất nước; cán bộ, đảng viên phải quán triệt và
lãnh đạo nhân dân biến những đường lối, chủ trương, chính sách ấy thành
hiện thực.
“Kiến thiết cần có nhân tài”. Muốn có nhân tài thì phải đào tạo. Với ý
nghĩa đó, cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được
xem là quốc sách hàng đầu. Đảng cần đẩy mạnh hơn nữa trong phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước, đào tạo ra những con người có khả năng đáp ứng nhu cầu trước
mắt và chuẩn bị cho sự phát triển của đất nước trong tương lai.
2. 3. 2. Giữa công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên huyện còn
nhiều mâu thuẫn
Trong xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện cuộc vận động phải có các
tiêu chí cụ thể, thiết thực, phù hợp với thực tiễn. Kiện toàn kịp thời Ban
chỉ đạo cuộc vận động các cấp, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc cơ sở gắn
với chỉ đạo điểm, xây dựng mô hình.
22
Cần tạo sự nhận thức đầy đủ hơn trong cán bộ, Đảng viên về mục đích,

yêu cầu, ý nghĩa, tầm quan trọng của Cuộc vận động.
Chú trọng công tác tuyên truyền sâu rộng trong đơn vị Đảng bộ huyện
Ba Vì.
Cần phải đề cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu tổ chức; tăng
cường tham mưu cho cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo và tranh thủ sự quan tâm
của các ban ngành đoàn thể tạo điều kiện, phối hợp để tổ chức thực hiện
cuộc vận động đạt kết quả tốt.
23
Chương 3. Phương hướng và giải pháp công tác giáo dục đạo
đức cho các cán bộ, đảng viên huyện Ba

3. 1. Phương hướng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta xác định trong những
năm tới toàn Đảng tiếp tục thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng,
nhất là Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Nghị quyết Đại hội X chỉ rõ: "Tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo
đức lối sống, nâng cao tính tiền phong gương mẫu, phẩm chất và năng lực
của đội ngũ cán bộ, Đảng viên”. Trong điều kiện hiện nay để đội ngũ cán
bộ đảng viên của Đảng thật sự vững mạnh có đủ năng lực và phẩm chất
ngang tầm với bản chất cách mạng của một đảng cầm quyền trong sự
nghiệp đổi mới cần tập trung làm tốt những nội dung cơ bản sau:
Một là: mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự rèn luyện, tu
dưỡng về đạo đức lối sống thực hiện tốt tư tưởng của Hồ Chủ tịch cần
kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Chấp hành nghiêm túc điều lệ Đảng,
pháp luật nhà nước, gương mẫu giữ gìn phẩm chất đạo đức người đảng viên
cộng sản trong điều kiện và môi trường mới.
Hai là: Phải thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình theo
phương châm từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài và lấy ý
kiến của quần chúng trong cơ quan đơn vị và ý kiến của nhân dân trong khu
dân cư nơi cán bộ đảng viên cư trú góp ý kiến phê bình cán bộ đảng viên.

Ba là: Không ngừng hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật, trước
hết là về mặt kinh tế nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường và hội nhập. Giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các
giai cấp, các bộ phận, các tầng lớp, các ngành nghề trong xã hội
Bốn là: Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng,
quan liêu, tiêu cực làm trong sạch đội ngũ đảng viên.
24
Năm là: Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nhân rộng các điển hình tiên
tiến, tuyên truyền kịp thời những gương người tốt, việc tốt, lên án cái xấu,
cái ác, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí quan liêu và các tệ
nạn xã hội khác.
Sáu là: các cấp uỷ đảng và chi bộ phải nắm chắc tình hình mọi mặt của
đảng viên cán bộ được quản lý, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ
trong lãnh đạo và quản lý rèn luyện cán bộ đảng viên, phát huy dân chủ
trong quản lý và giám sát, kiểm tra.
Trên đây là một số nội dung cơ bản nhằm không ngừng nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức lối sống cho đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng, chỉ
có thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 6 lần hai ( khoáVIII), và những nội dung cơ bản được xác
định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng thì Đảng ta mới không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu ngang tầm với nhiệm vụ của một đảng cầm quyền trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. 2. Giải pháp
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cả xã hội về vai trò, nội dung của
đạo đức đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ huyện Ba Vì.
Nhận thức đúng, quyết tâm cao sẽ tạo được sự chuyển biến cơ bản của
các cấp uỷ đảng, mỗi tổ chức, xã hội và gia đình trong việc giáo dục, rèn
luyện đạo đức cho mỗi người, nhất là thế hệ trẻ và đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Song, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

không chỉ yêu cầu nhận thức đúng về vai trò của đạo đức mà còn phải tạo
được sự thống nhất về nội dung của đạo đức mới.
Đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên là sự ứng xử với tổ chức, xã hội và
gia đình theo những nguyên tắc, những chuẩn mực nhất định. Đạo đức cách
mạng của mỗi cán bộ, đảng viên là ý chí quyết tâm thực hiện tốt đường lối,
chính sách của Đảng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên
trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình; hết lòng hết sức phục vụ
25

×