Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Skkn một số giải pháp rèn kĩ năng nói, viết về chủ đề trong phân môn tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay Đảng và Nhà nước ta luôn đặc
biệt quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Với
mục tiêu đào tạo con người phát triển một cách toàn diện, rèn đức luyện tài để
hội nhập thế giới.
Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt là một môn học cần thiết, mục tiêu chính là
hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng: nghe – nói – đọc – viết. Bốn
kĩ năng đó được cụ thể hóa qua các phân môn: Tập đọc; Kể chuyện; Luyện từ
và câu; Tập viết; Tập làm văn.
Phân môn Tập làm văn là một phân mơn có vai trị quan trọng trong việc dạy
học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là phân mơn khó dạy trong chương
trình Tiếng Việt tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn được tốt người thầy phải
xâu chuỗi kiến thức từ các phân môn: tập đọc, kể chuyện, luyện từ và câu.. Đặc
biệt ở lớp 3, phân mơn tập làm văn rèn bốn kỹ năng: nói, nghe, đọc và viết.
Trong giờ tập làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm
các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn
bản. Qua từng nội dung bài dạy, phân môn tập làm văn nhằm bồi kĩ năng sống,
thành vi ứng xử đẹp, có tư tưởng trong sáng, lành mạnh và tốt đẹp cho học sinh.
Vậy phân môn Tập Làm Văn là một trong những phân mơn thực hành của mơn
Tiếng việt, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu
học. Thực hiện nhiệm vụ rèn kĩ năng sản sinh ngơn ngữ dưới dạng nói và viết.
Phân mơn Tập Làm Văn cùng với các môn học khác rèn tư duy, phát triển nhân
cách cho học sinh. Để đáp ứng tốt được mục tiêu chương trình của mơn học đã
đề ra, đòi hỏi người thầy phải biết vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
sao cho phù hợp với ngơn ngữ và tâm lý lứa tuổi của học sinh Tiểu học.Trong
q trình dạy học phân mơn Tập Làm Văn người thầy cịn phải có nghệ thuật sư
phạm, biết gợi mở giúp học sinh tiếp thu và lĩnh hội kiến thức. Qua kinh nghiệm
trực tiếp dạy lớp 3, qua dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp đặc biệt là khi dự giờ
tiếp tập làm văn lớp 3 trong trường tiểu học, tơi thấy có nhiều chỗ băn khoăn,
trăn trở. Xuất phát từ vấn đề đó nên tơi mạnh dạn viết đề tài : "Một số giải


pháp rèn kĩ năng nói, viết về một chủ đề trong phân môn Tập làm văn lớp
3”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Để thực hiện tốt mục tiêu của mơn học địi hỏi người thầy phải biết vận dung
linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù
hợp với khả năng sử dụng ngơn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh để giờ học diễn
ra tự nhiên nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy thầy phải có nghệ thuật
sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình huống và thơng
qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến thức bài.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1

skkn


"Một số giải pháp kĩ năng nói và viết về một chủ đề, trong phân môn Tập làm
văn lớp 3”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp luyện tập thực hành.
- Phương pháp trao đổi tranh luận
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1.Cơ sở lí luận:
Ngơn ngữ Tiếng Việt là một hệ thống bao gồm các bộ phận ngữ âm, từ vựng và
ngữ pháp. Mỗi bộ phận là một hệ thống nhỏ, có cơ cấu tổ chức riêng, có quan hệ

chặt chẽ với nhau trong hệ thống ngôn ngữ
Môn Tiếng Việt là một trong những mơn học chính của trường Tiểu học nên phải
thực hiện theo nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học theo đặc trưng của môn học
này. Phân mơn tập làm văn giữ vị trí chủ đạo trong chương trình Tiếng Việt của
lớp3. Việc dạy cho học sinh nắm được cách nghe, kể lại được nội dung câu
chuyện và kể hay nói, viết về một chủ đề có hiệu quả trong phân môn Tập làm
văn ở lớp 3 là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề này giúp học sinh rèn luyện các kỹ
năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để biết kể lại câu chuyện đã nghe
hay làm bài văn kể hay nói, viết về một chủ đề cho trước có hiệu quả. Giúp học
sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Nó có nhiều khả năng để phát triển
ngơn ngữ, tư duy lơgic và các năng lực trí tuệ. Ngồi ra phân mơn tập làm văn
cịn có vai trị hướng dẫn cho học sinh kĩ năng nói, viết.,.
Về cấu trúc phân mơn tập làm văn trong SGK Tiếng việt 3 có 54 bài tập. Mỗi
bài học được trình bày từ 1 đến 2 bài tập - gồm bài tập rèn luyện kỹ năng nói và
bài tập rèn kỹ năng viết trong đó bài tập rèn kỹ năng nói chiếm hơn 70% “Kể
hay nói, viết về một chủ đề”. Đối với dạng bài này thì nội dung được phân bổ
như sau:
- Dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề gồm có 16 bài tập như: Nói về đội
TNTP Nói về thành thị hoặc nơng thơn; Nói về q hương; Nói ,viết về cảnh
đẹp đất nước...
Như vậy dạng bài này trong chương trình Tập làm văn lớp Ba dạy 6 bài tập còn
lại. Nội dung kiến thức và yêu cầu rèn luyện kỹ năng ở phân môn tập làm văn
lớp 3 khá khó, nhiều bài tập mang tính thực hành từ thực tế xung quanh các em
như: Kể về buổi đầu đi học; Kể về người hàng xóm; Kể về gia đình mình; Nói,
2

skkn


viết về thành thị hoặc nơng thơn; Nói viết về người lao động trí ócKể lại buổi

biểu diễn nghệ thuật; Kể về lễ hội; Kể về trận thi đấu thể thao…Qua đó học sinh
hình thành được các kỹ năng tạo lập văn bản (từ chỗ nói theo những câu hỏi gợi
ý hoặc kể về gia đình, người thân đến viết một văn bản trọn vẹn). Muốn dạy tập
làm văn cho học sinh có hiệu quả, giáo viên cần nắm rõ mục tiêu, nội dung bài
học, lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy học; các hình thức dạy học phù
hợp với yêu cầu của từng bài. Có như thế mới nâng cao được chất lượng giờ
học, bồi dưỡng được những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp cho học sinh. Trong
phạm vi đề tài này, tôi chỉ đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ giới hạn trong việc
vận dụng phương pháp và hình thức dạy học phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả
cho học sinh khi học các dạng bài “Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết
về một chủ đề” trong phân môn tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.
2.2. Thực trạng
* Về Giáo viên:
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp tơi nhận thấy:
- Hình thức tổ chức các hoạt động trong giờ tập làm văn còn đơn điệu. Giáo
viên chưa xác định nội dung trọng tâm cần truyền tải đến học sinh mà chỉ biết
dựa vào sách giáo viên (SGV) và thậm chí đi theo sự hướng dẫn trong sách giáo
viên để dạy bài nào cũng giống bài nào
- Khả năng diễn đạt của giáo viên cịn hạn chế, ngơn ngữ chưa được trau chuốt.
Kiến thức bài cịn bó hẹp hồn tồn trong sách giáo khoa (SGK) và chỉ biết nêu
lên trình tự trong sách giáo khoa chứ chưa biết khắc sâu, chốt nội dung khi dạy
xong một tiết học
- Khi dạy cho học sinh “Kể hay nói, viết về một chủ đề” giáo viên chỉ có nêu
nội dung câu hỏi ở SGK cho học sinh trả lời bằng miệng sau đó yêu cầu học sinh
viết về chủ đề đó. Do vậy mà hiệu quả giờ dạy chưa cao, học sinh thực hành viết
bài chưa được đặc biệt là những học sinh hoàn thành chưa hoàn thành
- Giáo viên còn thụ động kiến thức ở SGK mà khơng chịu tìm tịi đọc thêm tài
liệu khác liên quan đến giảng dạy đặc biệt là khi dạy Tiếng việt nên ngơn ngữ
của giáo viên cịn hạn hẹp, bí từ.
- Giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tịi, vận dụng các phương pháp dạy học

dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh mà chỉ giảng
dạy theo một quy trình áp đặt rập khuôn.
- Việc tổ chức dạy các giờ tập làm văn (được coi là dạy mẫu ) ở các trường tiểu
học chưa nhiều nên giáo viên chưa có cơ hội để học tâp lẫn nhau nhằm nâng
cao năng lực giảng dạy.
* Về học sinh:
- Học sinh lớp 3 vốn từ của các em chưa đa dạng. Việc tiếp thu bài còn thụ
động theo cách truyền tải của giáo viên nên nó ảnh hưởng đến chất lượng học
tập của các em.
3

skkn


- Mơn tập làm văn là một mơn học khó, nhiều em còn ngại học văn, lười suy
nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, bài viết con sơ sài. Cách dùng
từ đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn cịn nghèo hình ảnh.
- Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy được vốn từ sẵn có
của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
- Khả năng tự tin trình bày trước đơng người chưa lưu lốt. Kĩ năng tập trung và
lắng nghe và nhận xét và sửa lỗi cho bạn của mình chưa cao
Tập làm văn là một phân mơn khó trong môn Tiếng việt 3. Giáo viên muốn dạy
tốt cần có thời gian chuẩn bị thật kĩ để đưa ra hệ thống câu hỏi, dẫn dắt gợi mở,
cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập.
Đầu năm học 2020- 2021 qua các bài kiểm tra của học sinh tôi nhận thấy học
sinh cịn gặp nhiều khó khăn.
Kết quả khảo sát
Khảo sát chất lượng về kĩ năng mở rộng vốn từ lớp 3A3 trong học kì I năm học
2020- 2021.
Đề bài: Viết (từ 3-5 câu ) về kỉ niệm ngày đầu tiên đi học của em.

Tổng số học sinh trong lớp 48 em tôi phân làm 2 loại tương ứng với 2 nhóm
như sau:
Loại
Hồn
thành
tốt
Hồn
thành
Chưa
hồn
thành

Số lượng

Nhận xét

6

Biết viết đủ câu,vốn từ phong phú, giàu hình ảnh, sinh động

30

Vốn từ khá phong phú, kĩ năng sử dụng vốn từ trong diễn đạt ,giao tiếp tốt

12

Vốn từ ở mức bình thường, lựa chọn sử dụng vốn từ đôi lúc chưa trôi chảy

2.3. Các giải pháp thực hiện khi dạy dạng bài: Nói, viết về một chủ đề.
Giải pháp 1:Phương pháp mạng ý nghĩa

Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của
học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ
bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên
cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý
tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong
SGK
*Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:
Hoạt động 1: Tìm hiểu đề
+) Học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí nhớ đồng thời biết
đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề.Trong trường hợp
dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là chúng
4

skkn


+) Để thực hiện hoạt động này giáo viên có thể sử dụng một trong các bước
sau:
- Giáo viên trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm măt nghĩ về đối
tượng,
- Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài.
- Kể một mẫu chuyện nhỏ kết hợp đặt câu hỏi hướng học sinh đến đề tài.
- Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học sinh
tự sưu tầm.
- Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung
cấp) liên quan đến đề tài.
- Sử dụng mơ hình ( khung sân khấu biểu diễn, chân dung một con người ...).
Trên nền khung giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào .
- Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm của
học sinh.

Hoạt động 2: Tìm ý
Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ đề
và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy. Khi tiến hành
hoạt động này GV cần sử dụng một trong các bước sau:
- Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát triển
ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh
nghiệm riêng của các em.
Ví dụ: Đối với văn miêu tả, câu hỏi có thể được triển khai theo hướng mở sau:
Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì? Em cảm thấy gì?...
- Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần cịn lại để học sinh suy
nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được
trình bày dưới nhiễu hình thức khác nhau tuỳ theo nội dung từng bài : Bơng hoa,
chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá...
- Đối với học sinh đã quen với việc sử dụng mạng, giáo viên nên để các em tự
nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh.
- Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. Giáo viên
tuyệt đối tránh viết chốt lại một số từ về đề bài. Cần xoá đi những ý đã được ghi
lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá nhân trong
phiếu học tập thì trên bảng chỉ cịn lại khung mạng trống.
Hoạt động 3: Lập dàn ý : Sắp xếp ý đã có trong mạng.
- Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự chung
của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tích chất mở (đoạn văn miêu tả thì
lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu tả
chi tiết, cụ thể thì nói sau)
- Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự
5

skkn



- Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để cả
lớp theo dõi việc làm mẫu của một số học sinh. Ngoài khung mạng làm mẫu,
GV vẽ sẵn trên bảng các mạng tương tự và che chúng lại. Sau khi HS đã tìm ý
và hình thành mạng ý nghĩa trong phiếu bài tập, giáo viên cho một số em lên thể
hiện lại ý của mình vào các khung mạng trên bảng.
Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới dạng
nói hay viết :
- Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình
diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đơi là tốt
nhất.
- Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ ngữ xoay
quanh mạng ít nhất một câu.
- Hình thành và phát triển “mơi trường tư liệu ở lớp học” để giúp học sinh có
điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi tìm ý và ý thành bài:
+ Sưu tầm và trưng bày các bài văn hay của học sinh ở các năm học trước.
+ Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới
thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.
+ Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh sưu tầm
danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo
khoa.
+Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay
trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu.
Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:
- Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức trao đổi
nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội dung và
thể loại của đề bài .
- Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo
hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa)
Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hồn chỉnh.
*Ví dụ minh họa: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Trang 92)

1. Chuẩn bị: Phiếu học tập
a..Hoàn thành bảng dưới đây
Tên bài đọc
Quê hương là...
Chi tiết làm em xúc động nhất
Giọng quê hương ................................... .........................................................
...
.....
................................... .........................................................
...
.....
Quê hương
................................... .........................................................
..
......
................................... .........................................................
6

skkn


..
Đất quý, đất yêu
...................................
..
...................................
..
Vẽ quê hương
...................................
..

...................................
..
Chõ bánh khúc ...................................
của dì tôi
..
...................................
..

.....
.........................................................
....
.........................................................
....
.........................................................
......
.........................................................
.....
.........................................................
.....
.........................................................
.....

b.Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất
đồng ý.
Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
+ Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.
+ Là nơi mình sinh ra và lớn lên.
+ Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.
+ Là cái gì đó mà khi xa mình thấy nhớ thương.
c.Các em hãy nghĩ về quê hương mình:

Quê em ở đâu?
Em yêu nhất cảnh vật gì ở q hương?
Cảnh vật đó có gì đáng nhớ?
Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
2. Cách tiến hành:
Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thơng tin ý
tưởng để nói.
- Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh hoàn thành
bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)
- GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu kết
quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài tập.
Hoạt động 2: HS suy nghĩ về quê hương đã xác định trong khung chủ đề và viết
ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà mình đang nghĩ tới.
- GV treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để kích
thích học sinh hồi tưởng.
- HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bìa phụ ghi vào
khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của
mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)
7

skkn


Ví dụ:
ngơi nhà

vườn bách thú

thành phố


con sơng

Cảnh đẹp q hương

cây đa, giếng nước

cánh đồng lúa

đường phố

nhà cao tầng

Hoạt động 3: Học sinh đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, GV hướng dẫn
các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
- GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh hoàn thành chậm để giúp các em
điều chỉnh.
Hoạt động 4: Học sinh nhìn mạng của mình và nói : Cho hai em nói mẫu trước
lớp .
Ví dụ : Em sinh ra và lớp lên ở một vùng quê cách trung tâm thành phố không
xa. Quê hương em thật là đẹp và thơ mộng. Ở đó có cây đa cổ thụ nghìn năm
tuổi, tỏa bóng rợp cả một vùng. Giếng làng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà
em là con sông quê hương. Em rất thích tắm mình dưới dịng sơng ấy mỗi trưa
hè đến. Cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay. Mỗi chiều hè em lại cùng lũ bạn chơi
thả diều trên đê, nằm dài trên những thảm cỏ xanh để ngắm mây trời yên ả Em
yêu quê hương của mình.
Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Thành phố của em là một thành phố
đẹp và hiện đại có nhiều tịa nhà cao tầng san sát nhau. Trên đường phố,dòng
người và xe cộ đi lại tấp nập.Các cửa hàng, của hiệu, trung tâm thương mại
buôn bán sầm uất. Ban đêm đèn điện đủ sắc màu lung linh huyền ảo. Vào dịp
cuối tuần, em thường được bố mẹ đưa đi chơi, công viên, siêu thị, vườn bách

thú, được ngồi trên lưng chú voi con., được thưởng thức các món ăn ngon. Em
rất vui và yêu quý thành phố của em.
- Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.
Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). Giáo viên bao quát lớp đặc
biệt lưu ý giúp học sinh hoàn thành chậm.
Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp:
- GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp ( khơng nhìn mạng ý nghĩa). Nếu
là học sinh hoàn thành chậm, Giáo viên cho học sinh nhìn mạng để nói.
- Tổ chức cho học sinh thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến
khích học sinh tự tìm đặt thêm câu hỏi mở rộng. Giáo viên nhận xét chung.
Giải pháp 2: Phương pháp bản đồ tư duy:
Bản đồ tư duy là một phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập
làm văn, người giáo viên cũng phải suy nghĩ, tìm tịi đặc biệt là các từ ngữ phục
vụ theo yêu cầu của từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư duy cần
8

skkn


phải đảm bảo đúng kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ
để qua đó học sinh tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu
quả giờ học cao hơn.
Ví dụ khi dạy đề bài: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Trang 92),
các bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồ tư duy như sau
thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa:

Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu( các từ ngữ phục vụ cho
đề bài) để hoàn thành bài nói về quê hương dễ dàng hơn.

9


skkn


Hoặc khi dạy bài: Kể về gia đình (BT1-TV3 - tập I - trang 28), giáo viên thực
hiện các bước như sau:
- Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của
bài tập: Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết.
- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình mình và viết ra bất kỳ những từ
ngữ nào liên quan đến gia đình mình.
- Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh
biết một số từ ngữ liên quan đến gia đình. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự suy
nghĩ và hồi tưởng.

10

skkn


- Học sinh ghi vào giấy nháp về gia đình mình.
- Giáo viên gọi một vài em kể về gia đình mình cho cả lớp nghe.
- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.
*Lưu ý: Học sinh lớp 3 tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ phục
vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được bản đồ tư duy hoàn chỉnh.
Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, giáo viên nên chuẩn bị
bản đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa áp dụng vào giảng dạy. Đối với những
học sinh khá giỏi, giáo viên cũng có thể hướng dẫn các em vẽ bản đồ tư duy
trong một số bài học nhưng không yêu cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học
sinh vẽ được bản đồ tư duy phục vụ cho bài học thì giáo viên cần định lượng
thời gian phù hợp để các em hồn thành, tránh tình trạng lạm dụng vẽ rồi không

đạt yêu cầu đề bài nêu ra.
Hoặc khi dạy bài: Kể về người thân giáoviên thực hiện các bước sau:
- Cho học sinh đọc kĩ yêu cầu bài tập, gióa viên giúp học sinh tìm hiểu u
cầu của bài tập: Kể về người thân của mình

11

skkn


- Học sinh suy nghĩ về người thân của mình và viết ra những từ ngữ liên
qua đến người thân của mình
- Giáo viên treo bản đồ tư duy lên bản. Giới thiệu cho học sinh biết một số
từ liên quan đên người thân của mình. Học sinh nhìn sơ đồ tư duy, tự suy
- nghĩ và hồi tưởng

Giải pháp 3: .Phương pháp “ Nguyên lý bàn tay”

12

skkn


Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn
Ví dụ: Trong bài tập làm văn tuần 23 “ Kể về một buổi biểu diễn văn
nghệ mà em vừa được xem”
Phần lớn những bài văn của học sinh lớp 3 chưa sáng tạo , chưa sinh động do
các em chưa biết cách tưởng tượng, . Dể thực hiện được điều đó giáo viên sẽ
giúp các em liên tưởng, xâu chuỗi các hình ảnh, hoạt động. Từ đó học sinh dễ
dàng tìm ý và diễn đạt bài văn rõ ràng hơn

- Học sinh nhớ lại và hồi tưởng lại qua hệ thống câu hỏi và hình ảnh, video
Ví dụ: Cho học sinh xem một số hình ảnh đẹp của một buổi biểu diễn văn
nghệ

13

skkn


Ví dụ: Trong bài tập làm văn tuần 23 “ Kể về một buổi biểu diễn xiếc mà em
vừa được xem”
- Giáo viên cho học sinh xem ảnh hoặc video về các tiết mục xiếc đặc sắc
- Học sinh quan sát tranh và dựa vào gợi ý và kể lại buổi biểu diễn xiếc
- Học sinh tự hoàn thành bài viết của mình

14

skkn


Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá:
- Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá cũng là một trong những yêu cầu đặt
ra cho giáo dục Tiểu học hiện nay. Việc chữa bài của học sinh khơng chỉ có duy
nhất giáo viên làm mà cần để cho học sinh được tự kiểm tra, đánh giá cho nhau.
Thông qua việc kiểm tra đánh giá bài của bạn, các em sẽ phát hiện ra những sai
sót để sửa chữa, đồng thời phát hiện ra những từ, những ý, những câu hay của
bạn để học hỏi. Để làm tốt khâu này , giáo viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật
cụ thể để học sinh có cơ sở lắng nghe và nhận xét bài của bạn. Từ nhận xét, học
sinh có thể tự chữa lỗi hoặc giúp bạn chữa lỗi theo các hướng sau đây:
a. Hướng dẫn phát hiện và sửa lỗi về từ:

- Trường hợp học sinh dùng từ chưa chính xác như các từ ngữ chưa phù hợp,
nghĩa của từ chưa hay hoặc từ thông dụng địa phương…
Ví dụ : “Bạn Bảo Ngọc có giọng hát véo von” giáo viên giúp học sinh thấy được
dùng từ “véo von” ở đây là không phù hợp với ngữ cảnh, sau đó cho HS tìm ra
từ hợp lý hơn để thay thế.
  b. Hướng dẫn phát hiện và sửa lỗi về câu:
- Học sinh nói viết câu chưa hay chưa đủ ý, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
sửa chữa bổ sung ý vào cho đúng; câu văn dài dòng ý chưa rõ ràng mạch lạc cần
cho học sinh sửa sai lược bỏ ý dư, ý trùng lặp. Giáo viên khuyến khích học sinh
tự sửa câu văn chưa hay của mình bằng những câu văn hay của bạn.
Ví dụ : “Kể về lễ hội đua thuyền . Lễ hội diễn ra trên dòng sông Mã quê em vào
chủ nhật tuần trước. Cuộc đua giữa các đội là Hoàng Long và Phú khê” Giáo
viên hướng dẫn học sinh lược bớt từ hoặc dùng từ phù hợp để thay thế cho
từ “cuộc đua” để tránh lặp từ quá nhiều trong bài.
   c. Hướng dẫn phát hiện lỗi về hình thức một đoạn văn :
  - Với mỗi chủ đề của bài Tập làm văn, nếu học sinh trình bày đủ nội dung theo
gợi ý đã cho thì bài văn của các em đạt yêu cầu về nội dung, cịn về hình thức,
15

skkn


một số em còn tự do xuống dòng, chưa đúng yêu cầu về hình thức của 1 đoạn
văn, điều này giáo viên cũng rất cần lưu tâm .
 d. Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi về sự chặt chẽ liên kết trong đoạn văn
Ví dụ : Với gợi ý Kể về buổi biểu diễn xiếc, từng gợi ý phần mở đoạn có rời rạc,
giáo viên có thể hướng dẫn học sinh liên kết các ý với nhau, khi kể khơng theo
trình tự từng ý nhưng vẫn đảm bảo nội dung và làm cho phần mở đầu đoạn sinh
động, lôi cuốn người đọc hơn. Hoặc hướng dẫn học sinh dùng những câu mở
đầu đoạn văn để nói hoặc kể một cách sáng tạo.

- Khi kể về một việc làm một hoạt động nào đó, giáo viên cần khuyến khích học
sinh sử dụng những từ liên kết câu thể hiện trình tự diễn biến của sự việc như:
“Mở đầu …”; “tiếp theo..”; “sau đó”; “cuối cùng” để đoạn văn gắn kết chặt chẽ
liên tục từng ý với nhau. Do đặc điểm lứa tuổi và trình độ từng đối tượng học
sinh khơng đồng đều nhau nên các em chưa hiểu nhiều về từ, câu liên kết trong
đoạn văn viết; vì vậy giáo viên cần hướng dẫn bằng những gợi ý giản đơn dễ
hiểu, có thể cho học sinh khá giỏi làm mẫu để giúp các em trình bày tốt hơn
đoạn văn viết của mình.
- Trong việc hướng dẫn học sinh sửa chữa bài viết, giáo viên cần đưa ra tiêu chí
đánh giá cụ thể giúp học sinh phát hiện những đoạn văn hay, ý tưởng phong phú
sáng tạo đồng thời phát hiện những hạn chế cịn vấp phải trong bài viết. Từ đó
học sinh có sự suy nghĩ để sửa chữa cách diễn đạt ý tưởng trong bài viết của
mình một cách hợp lí và sáng tạo.
Giải pháp 5: Rèn kĩ năng diễn đạt khi nói và viết cho học sinh:
a) Rèn kĩ năng nói cho học sinh:
- Do tâm lí lứa tuổi của học sinh lớp 3 và khả năng sử dụng từ ngữ, khả năng
giao tiếp của các em trước đám đông chưa được tự tin, mạch lạc, cịn nhiều sai
sót về kĩ năng nói như: nói nhỏ, ấp úng, ngọng, nói lặp từ, nói ê a…Các ý văn
rời rạc, khơng thốt ý khiến cho người nghe cảm thấy khó chịu, khơng hiểu
được nội dung văn bản. Vì vậy tơi u cầu học sinh trình bày bài nói theo các
bước sau:
+ Bước 1: Nói dưới hình thức trả lời theo các câu hỏi gợi ý (dành cho những học
sinh trung bình)
+ Bước 2: Nói gộp từ 2 – 3 câu hỏi một lúc, có liên kết các câu với nhau
(dành cho học sinh khá)
+ Bước 3: Nói thành bài văn (dành cho học sinh ở mức độ hoàn thành tốt)
- Khi mỗi học sinh nói Giáo viên nhắc các em khác tập trung theo dõi, lắng
nghe, tơn trọng người nói để cho bạn trình bày khơng bị mất bình tĩnh, nói được
liền mạch, học sinh có thể theo dõi được lời nói của bạn trên cơ sở đó các em
phát hiện ra những lỗi sai để sửa giúp bạn. Ngoài ra khi bạn nói thì các em có

thể học tập những câu văn hay, sáng tạo để vận dụng vào bài làm của mình.
b)  Rèn kĩ năng viết cho học sinh:
- Nói được là sẽ viết được. Tuy nhiên giữa nói và viết một văn bản cũng có sự
khác nhau. Khi nói, học sinh có thể được phép ê  a, sử dụng các từ :“à, ờ, thì, là,
mà…”nhưng khi viết khơng cho phép học sinh sử dụng các từ như vậy, mỗi câu
văn cần phải rõ ý, đủ thành phần chính của câu. Ngoài ra, giáo viên cần hướng
16

skkn


dẫn cho học sinh cách trình bày một bài viết, cách dùng từ ngữ, viết câu chính
xác, các ý diễn đạt có thứ tự hợp lý. Giáo viên cần phải khuyến khích, động
viên, ghi nhận những học sinh có ý tưởng hay, bài viết sáng tạo để khen ngợi và
nhân rộng đối với học sinh khác. Ngoài việc chú ý về nội dung , khi viết cũng
cần chú ý tới hình thức trình bày, nhắc nhở học sinh về chữ viết, lỗi chính tả.
Một bài văn viết tốt phải đảm bảo cả hai tiêu chí: nội dung và hình thức.
Giải pháp 6: Phối hợp với gia đình
Giáo viên có thể kết hợp, trao đổi với phụ huynh về những thuận lợi, khó khăn
trong việc dạy học nói chung, dạy mơn Tiếng việt, mở rộng vốn từ nói riêng,
trao đổi với họ về đặc điểm từng đối tượng con em mình cũng như kết kợp trao
đổi mục tiêu, nội dung chương trình phương pháp dạy học mới trong phân mơn
Tiếng việt … Từ đó để phụ huynh có thể tạo điều kiện hơn về mặt thời gian của
các em, kèm cặp hướng dẫn học sinh học ở nhà theo phương pháp phù hợp ,
thống nhất với nhà trường. Sau khi nắm bắt được tình hình học tập kỹ năng ý
thức học tập của con em mình qua giáo viên cũng như việc nắm bắt chương
trình,nội dung học tập của sách giáo khoa. Nếu liên kết tốt và thực sự có trách
nhiệm của giáo viên của phụ huynh đối với con em mình,kết quả học tập nói
chung sẽ được nâng cao.
IV. KIỂM NGHIỆM.

1. Kết quả đạt được:
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ về việc dạy tập làm văn lớp 3 với dạng
bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề đã được triển khai tại đơn vị chúng tôi. Kết
quả thu được như sau:
- Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn ở lớp 3, giáo viên cảm
thấy giờ học sôi nổi hơn trước, học sinh hứng thú hơn, qua thực hành giao tiếp
cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả.
- Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, sôi nổi.. Qua kiểm tra, chất lượng các bài văn của
học sinh nâng lên.
- Ở các tiết học Tập làm văn, nhất là từ đầu học kỳ II, khi đã làm quen với cách
học này, học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập cũng như giao tiếp nhất là
đối với những học sinh chưa hoàn thành và hoàn thành chậm
Sau đây là bảng tổng hợp kết quả khảo sát một số giờ dạy Tập làm văn lớp 3
với các dạng bài nêu trên :
Kết quả thực hành của học sinh
Kếtquả
khảo sát
Khảo sát đầu
năm
Cuối HK I
(tuần 16)

Tên bài dạy

TS
học
sinh

Nói về cảnh đẹp đất 48
nước

Nói về thành thị, nơng 48
thơn

Hồn thành tốt

Hoàn
thành

SL

TL%

SL

TL%

6

12,5

36

75

Chưa
hoàn
thành
SL
6


12

25

33

68,75

3

TL %
12,5
6,25

17

skkn


Giữa HK II
( tuần 26)

Kể về một ngày hội

48

20

41,7


28

58,33

0

2. Bài học kinh nghiệm:
Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với các dạng
bài tập “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, theo tơi người giáo viên phải có trách
nhiệm cao trong cơng tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện
pháp thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng
lực của bản thân mình. Qua đó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và
một thái độ học tập đúng đắn, người giáo viên cần lưu ý một số việc sau:
- Nắm vững nội dung chương trình mơn Tiếng việt lớp 3, đặc biệt là các bài
dạy Tập làm văn có trong chương trình để từ đó xâu chuỗi được các kiến thức
cần cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy.
- Chuẩn bị kỹ bài dạy và xác định đúng trọng tâm của bài.
- Trong từng tiết học cần vận dụng nhiều phương pháp và hình thức dạy học
khác nhau, khắc sâu kiến thức bài giảng giúp mỗi học sinh đều hiểu và làm bài
tập được ngay tại lớp.
- Đối với mỗi bài tập, giáo viên cần xác định đối tượng học sinh hồn thành
chậm và tìm ngun nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài để có biện
pháp giúp đỡ kịp thời giúp các em có điều kiện và niềm tin học tiếp các bài học
sau.
- Động viên khen thưởng kịp thời để gây hứng thú học tập cho học sinh.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Việc tìm hiểu những khó khăn của học sinh và tìm ra được hướng để khắc
phục những vướng mắc khi lĩnh hội tri thức mới là một điều khơng thể thiếu

trong q trình dạy học. Với việc tìm hiểu thực trạng dạy và học phân môn Tập
làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay với dạng bài: “ Kể hay nói, viết về một
chủ đề” và đưa ra được các biện pháp khắc phục đã đem lại cho chúng tôi một
kết quả học tập của học sinh rất khả quan. Với giáo viên, họ đã có trong tay
những giải pháp khi dạy dạng bài này và khơng cịn lúng túng khi giảng dạy
cho học sinh. Cũng thông qua đề tài này mà tổ chuyên môn trường chúng tơi đã
có những buổi họp chun mơn hữu ích, họ không chỉ sôi nổi thảo luận khi dạy
về phân mơn tập làm văn lớp 3 nói riêng này mà họ còn mạnh dạn đề ra các
biện pháp dạy học phù hợp với các phân mơn khác.
Tìm hiểu những biện pháp phù hợp với từng nội dung bài học là yêu cầu không
thể thiếu đối với mỗi giáo viên khi lên lớp. Với đề tài này tơi mong góp một
phần nhỏ bé vào trong kho tàng kinh nghiêm giảng dạy tập làm văn trong mơn
Tiếng việt lớp 3 nói riêng và trong cả bậc tiểu học nói chung.
18

skkn


3.2.Kiến nghị
Đối với Nhà trường và tổ chuyên môn: Cần có các buổi sinh hoạt chun mơn
có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình
độ chun mơn nghiệp vụ. Giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận
dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh.
Trên đây là một kinh nghiệm nhỏ mà tơi đã thử nghiệm thành cơng tại đơn vị để
góp phần nâng cao chất lượng dạy, học phần môn Tập làm văn lớp 3. Rất mong
nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn bè đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG TPThanh Hóa,ngày 30 tháng 3 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.


Nguyễn Thị Thùy

19

skkn



×