Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Vấn đề đầu tư xây dựng nhà ở tại thủ đô Hà Nội của công ty Tư vấn-Đầu tư xây dựng và phát triển nhà Hà Nội.Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.45 KB, 67 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nhà ở là một trong những điều kiện cơ bản phục vụ cho đời sống của con
người. Ngay từ khi mới sơ khai thì con người đã biết tạo ra cho mình một mái
nhà che chở trước thiên nhiên. Khi mà mọi điều kiện sống thay đổi dân số
ngày càng đông lên thì nhu cầu về nhà ở tăng cao.
Công cuộc đổi mới trong những năm qua đã đưa nước ta thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội để bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH
đất nước. Tuy nhiên tốc độ đô thị hoá đã làm tăng sức ép khá căng thẳng về
nhiều mặt, trong đó có vấn đề về nhà ở. Việc tăng dân số tự nhiên và di dân tự
do làm cho dân số đô thị tăng nhanh, trong khi việc cải thiện điều kiện ơ tại
chổ không đáp ứng được, dẫn đến việc nhà ở xây dựng tràn lan, lộn xộn phá
vỡ quy hoạch làm mất cảnh quan và kiến trúc đô thị. Vấn đề này ngày càng
trở nên bức xúc nhức nhối với nhân dân và chính quyền đô thị.
Trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội và thực hiện mục tiêu CNH-
HĐH đất nước nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng thì việc thực hiện đầu
tư xây dựng nhà ở cho người dân có tầm quan trọng đặc biệt, nó không những
góp phần làm thay đổi bộ mặt kiến trúc của thủ đô, mà đồng thời nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Vấn đề đầu tư xây dựng nhà ở phát triển đã tạo điều kiện phát triển nhiều
mục tiêu quan trọng khác của thủ đô Hà Nội như tăng nhanh tốc độ đô thị
hoá, phát triển khu đô thi mới, phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất...
Khi tiến hành một hoạt động đầu tư xây dựng nhà ở thì vấn đề được đặt ra
là kết quả đạt được đó đã giúp giải quyết được vấn đề gì? Giải quyết được bao
nhiêu?Tạo ra thuận lợi như thế nào? về chỗ ở cho người dân. Và đồng thời
qua đó đã tạo ra sự đồng bộ như thế nào về mặt kiến trúc đô thị cho thủ đô để
phù hợp với quy hoạch chung đã đề ra. Ngoài ra còn đánh giá được hiệu quả
đầu tư xây dựng đó đã đem lại những giá trị gì khác nữa, đạt được hiệu quả tài
chính là bao nhiêu, qua đó cho chúng ta rút ra được những bài học kinh
1
nghiệm cho những giai đoạn đầu tư xây dựng nhà ở những nơi khác và cho
phép tạo ra tính hiệu quả sử dụng cao, giải quyết được nhiều vướng mắc trong


vấn đề chổ ở cho người dân đô thị. Đồng thời nó cũng đóng góp một phần
nguồn lực tài chính cho nền kinh tế.
Thấy được tầm quan trọng của vấn đề đó trong thời gian thực tập tại công ty
Tư vấn-Đầu tư xây dựng và phát triển nhà Hà Nội em đã chọn đề tài: Vấn đề
đầu tư xây dựng nhà ở tại thủ đô Hà Nội của công ty Tư vấn-Đầu tư xây
dựng và phát triển nhà Hà Nội.Thực trạng và giải pháp.
Làm đối tượng nghiên cứu của chuyên đề thực tập. Nội dung của báo
cáo chuyên đề xem xét tình hình đầu tư xây dựng nhà ở của công ty Tư vấn-
Đầu tư xây dựng và phát triển nhà Hà Nội trong thời gian qua và đánh giá chi
tiết hiệu quả của việc đầu tư xây dựng nhà ở của công ty.
Trên cơ sở đó vận dụng những kiến thức lý luận đã nắm bắt được ở trường để
đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng nhà ở trên
địa bàn Hà Nội của công ty.
Kết cấu của chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư xây dựng nhà ở đô
thị
Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư xây dựng nhà ở tại Hà Nội
của công ty Tư vấn-Đầu tư xây dựng và phát triển nhà Hà Nội trong thời
gian qua.
ChươngIII: Những định hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả công tác đầu tư xây dựng nhà ở tại địa bàn
Hà Nội của công ty Tư vấn-Đầu tư xây dựng và phát triển nhà Hà Nội.
Tất cả những lý luận phân tích, đánh giá và giải pháp trong chuyên đề này
được vận dụng các phương pháp phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản
lý... Kết hợp với hiểu biết của bản thân trong 4 năm học đại học ở trường
ĐHKTQD và những kiến thực thu được trong thời gian thực tập. Hy vọng đây
không chỉ là một đề tài nghiên cứu của chuyên đề thực tập mà nó còn là một
2
cơ hội để em tự khẳng định lại những kiến thức đã tiếp thu được trong quá
trình học tập, đặc biệt là trong thời gian học các môn chuyên ngành. Đồng

thời đây cũng là cơ hội để em tập hợp được những kiến thức mà tiếp thu được
ở trường lớp và thực tế để có thể phục vụ tốt công việc sau này của mình.
Do được sự tận tình giúp đỡ của cô giáo th.s Nguyễn Thị Thanh Huyền
giảng viên chính của bộ môn Kinh tế đô thị của trường ĐHKTQD và các cô
chú của công ty, đặc biệt là cô Nguyễn Kim Duyên,Trưởng ban quản lý dự án
Mỹ Đình cùng với sự nỗ lực tìm tòi tài liệu đã giúp em hoàn thành báo cáo
chuyên đề này.Tuy nhiên do thời gian có hạn và kinh nghiệm còn ít nên em
không thể tránh những sai sót khi trình bày những lý luận về chuyên đề.
Em mong có được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các cán bộ của công
ty Tư vấn-Đầu tư xây dựng và phát triển nhà Hà Nội cùng với bạn bè quan
tâm tới vấn đề này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô cùng các cô chú trong
công ty đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo này.

Hà Nội, tháng 5 năm 2004
Sinh viên: Nguyễn Thế Quân
3
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
XÂY DỰNG
NHÀ Ở ĐÔ THỊ .
I. KHÁI NIỆM NHÀ Ở ĐÔ THỊ VÀ NHỮNG ĐẶC TÍNH CƠ BẢN CỦA NÓ
1.1.Khái niệm
Nhà ở là nơi cư trú của con người, là chổ để cho con người tạo ra tái sản xuất
sức lao động của mình để tồn tại và phát triển.
• Nhà ở được hiểu đồng nghĩa với chỗ ở, bao gồm phần kiến trúc kỹ
thuật của ngôi nhà (kể cả tịên nghi và công trình kỹ thuật gắn với ngôi
nhà), các kết cấu kỹ thuật và điều kiện kỹ thuật gắn với ngôi nhà), các
kết cấu kỹ thuật và điều kiện môi trường của khu vực.
Trên thực tế, khái niệm nhà ở luôn phải được hiểu theo nghĩa rộng vì tất cả

các vấn đề liên quan đến nhà ở kể cả kiến trúc kỹ thuật của ngôi nhà không
thể tách rời các yếu tố kỹ thuật và môi trường tự nhiên xẵ hội của khu vực.
1.2.Những đặc tính cơ bản của nó
- Nhà ở đô thị là nơi cư trú của các hộ gia đình với mật độ cao.
Nhu cầu về sự thuận tiện và dễ dàng liên hệ với bên ngoài dẫn đến nhà ở
tập trung trong thành phố với mật độ cao. Con người muốn thuận tiện khi đi
làm, đi học, đi mua sắm,...Cơ quan, trường học, cữa hàng thường tập trung
từng khu vực. Do đó mọi người cũng muốn nhà ở của mình quanh khu vực
đó. Các hộ gia đình mong muốn nơi mình ở có dịch vụ về kỹ thuật, có trường
học, có trạm xá và dịch vụ xã hội khác. Khi các hộ gia đình sống gần nhau thì
tổng các chi phí lại rẽ hơn so với việc các hộ gia đình sống phân tán.
- Mang tính loại trừ.
Nếu các khu nhà được sử dụng với cùng mục đích, muốn tập trung các
hoạt động lại với nhau thì nhất thiết phải loại bỏ các hoạt động khác trong khu
vực khác trong khu vực đó. Vì vậy, nếu nhà ở muốn tập trung thành một khu
4
vực riêng biệt thì phải có sự tách biệt về hoạt động so vớ các khu vực khác.
Quá trình loại trừ này diễn ra thông qua thị trường đất đai. Có nghĩa là nếu có
sự cạnh tranh về đất đai khi hai hay nhiều hoạt động khác nhau đều muốn
diễn ra trên địa điểm thì địa điểm sẽ dành cho hoạt động nào có khả năng đầu
tư nhiều hơn. Hoạt động còn lại sẽ tìm một vị trí khác mà ở đó lại có một hoạt
động khác loại trừ. Bằng cách này hệ thống hoạt động sẽ loại bỏ lẫn nhau và
dành được địa điểm mà nó có thể tập trung thành một khu vực.
Quá trình loại trừ diễn ra chậm bởi vì nhà ở tồn tại rất lâu nên sự thay đổi về
đất đai không xãy ra thường xuyên và diễn ra với một chừng mực mà tất cảt
các hoạt động có vị trí trung tâm -là nơi thuận tiên nhất. Trong quá trình cạnh
tranh này,các cơ quan, cữa hàng thường dành được vị trí trung tâm thành phố.
Sau đó, các hoạt động, các nhà máy trong ngành công nghiệp có vị trí xung
quanh khu vực trung tâm và nhà ở bị loại bỏ ở các nơi trừ vùng nông thôn.
- Thị trường nhà ở không đồng nhất

Khác nhau về vị trí trong thành phố, diện tích, tuổi, cấu trúc tiện dụng, cao
tầng hay thấp tầng.
- Nhà ở không có khả năng di chuyển
Người ta không di chuyển được nhà vì nó gắn với vị trí không gian.
- Tính bền vững
Nhà ở bền vững lâu dài, chi phí cho xây dựng, mua sắm cao.
- Chuyển chổ ở phức tạp, chi phí lớn và kéo theo nhiều vấn đề.
Chuyển nhà có liên quan đến rất nhiều vấn đề như nơi học tập, nơi làm
việc của các thành viên trong gia đình.
- Môi trường tự nhiên và xã hội có vai trò quan trọng
Các hộ gia đình chọn chổ ở có môi trường trong lành,an ninh xã hội tốt.
- Giá nhà phụ thuộc vào giá đất và mức độ bền vững vật lý, kết cấu, mức
thuận tiện
Giá nhà ở với ý nghĩa là nơi cư trú gồm tiền xây dựng nhà và tiền mua
đất. Cần chia mức giá nhà thành hai phần: Mức giá xây dựng và giá đất.
5
Như vậy, giá thị trường của nhà ở là tổng giá trị thị trường của nhà và đất.
6
1.3.Cung cầu và các nhân tố ảnh hưởng về nhà ở đô thị
Đường cung dài hạn về nhà co giãn hoàn toàn, điều đôó không co nghĩa là
người chủ nhà lắp bánh xe vào nhà của họ để chuyển từ thành phố này sang
thành phố khác. Thực tế họ có thể tăng, giảm cung nhà bằng cách:
-Tăng giảm đầu tư cho sữa chữa,duy trì.
-Sử dụng hoặc bỏ trống nhà ở.
-Cho thuê nhà để ở hoặc dùng nhà vào mục đích khác.
-Không làm gì để chờ tăng cầu nhà.
Bốn phản ứng này người chủ nhà có thể tăng, giảm cung nhà ở trong dài
hạn. Đường cầu dài hạn cũng như ngắn hạn về nhà ở cũng co giãn hoàn toàn,
vì người thuê nhà có thể di chuyển nhà từ thành phố này sang thành phố khác.
Tuy nhiên vì chi phí chuyển nhà khá cao nên sự co giãn của cầu về số lượng

nhà sẽ chậm hơn so với sự co giãn về chất lượng nhà. Khi cầu về số lưọng
cũng như chất lượng giảm làm cho doanh thu giảm, khối lượng nhà cung cấp
tối ưu và lợi nhuận giảm.Chủ nhà sẽ có hướng giảm cung bằng cách đã nêu
trên.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu về nhà ở đô thị và sự ảnh hưởng
với các mức độ khác nhau như:
- Thu nhập trung bình làm tăng cầu nhà ở, nhưng cầu về chất lượng nhà ở
tăng nhanh do sự di chuyển nhà và chi phí nhà rất lớn.
-Biến động dân số và mật độ dân số làm tăng hoặc giảm số lưọng nhà ở .
-Tập quán sinh sống của dân cư, đặc biệt là dân nhập cư mang theo tập
quán của mình.
-Ảnh hưởng của khu vực lân cận: Chính là vấn đề ngoại ứng trong lĩnh vực
nhà ở.
-Sự điều chỉnh quy hoạch của nhà nước về đất đô thị và thay đổi chưc năng
đất đô thị .
7
1.4.Các tiêu chuẩn phân loại nhà ở
1.4.1.Tiêu chuẩn kỹ thuật
-Tiêu chuẩn kỹ thuật xác định chất lượng xây dựng công trình và nhà ở được
thể hiện thông qua các tiêu chuẩn về độ bền vững của ngôi nhà (niên hạn sử
dụng ngôi nhà ) và mức độ chịu lửa (độ bền vững và độ chịu lửa của ngôi nhà
được xác định trong tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy cho nhà và công trình)
-Tiêu chuẩn kỹ thuật xác định chất lượng sử dụng của ngôi nhà được xác
định theo các yếu tố sau:
+Tiêu chuẩn diện tích, khối lượng và dây chuyền sử dụng các buồng
phòng.
+Tiêu chuẩn về trang thiết bị kỹ thuật vệ sinh, thông hơi, thông gió, tiện
nghi các lắp đặt hệ thống cấp điện, cấp thoát nước.
+ Mức độ hoàn thiện bên trong và bên ngoài ngôi nhà, trang trí nội thất.
Cụ thể:

Bậc I: Đầy đủ, phần lớn bằng hàng cao cấp, cữa bằng gỗ tốt.
Bậc II: Đầy đủ, thiết bị vệ sinh và cữa bằng vật liệu tốt.
Bậc III: Chưa đầy đủ, đều là vật liệu thông thường.
Bậc IV: Không đầy đủ, đều là vật liệu thông thường và cấp thấp.
1.4.2.Phân loại nhà ở
Việc đánh giá phân loại nhà ở trong một nước phải dựa vào các tiêu chuẩn
của nước đó. Liên quan đến vật liệu sử dụng để xây dựng nhà ở, người ta
phân biệt nhà ở theo: Vật liệu bền như đá, bê tông, gỗ tốt. Vật liệu ít bền như
tranh, tre, nứa, lá.
Nhà ở còn được phân loại như nhà kiên cố, bán kiên cố, hoặc nhà tạm theo
vật liệu xây và thời gian sử dụng nhà ở.
Có nhiều phương pháp khác nhau để tiến hành xác định chất lượng của nhà
ở: Đó là phương pháp phân tích kinh tế - kỹ thuật và phương pháp thống kê
kinh nghiệm .
8
Phương pháp phân tích kinh tế - kỹ thuật: Đây là phương pháp xác định giá
trị còn lại của nhà ở căn cứ vào chất lượng của các kết cấu chính (móng,
khung, cột, tường, nền, sàn kết cấu đỡ mái và mái) tạo nên ngôi nhà ở đó và
tỷ lệ giá trị của các kết cấu chính so với tổng giá trị ngôi nhà .
Phương pháp thống kê kinh nghiệm: Xác định giá trị còn lại của ngôi nhà
căn cứ vào thực trạng của ngôi nhà, niên hạn sử dụng và thời gian sử dụng
của ngôi nhà đó.
Nước ta thường sử dụng các tiêu chuẩn phân cấp nhà ở như sau:
- Đối với nhà ở nhiều căn hộ, nhà ở riêng biệt thấp tầng hoặc cao tầng được
phân loại theo 4 cấp, cấp I là cấp cao nhất, cấp IV là cấp thấp nhất.
Cấp nhà Chất lượng sử
dụng
Chất lượng xây dựng công trình
Độ bền vững Độ chịu lửa
Cấp I Bậc I:Chất lượng

sử dụng cao
BậcI:Niên hạn
sử dụng trên100
năm
Bậc I hoặc II
Cấp II Bậc II:Chấtlượng
sử dụng khá
BậcII:Niên
hạnsử dụng trên
50 năm
BậcIII
Cấp III Bậc III:Chất
lượng sử dụng
trung bình
Bậc III: Niên
hạn sử dụng
trên 20 năm
Bậc IV
Cấp IV Bậc IV:Chất lượng
sử dụng thấp
Bậc IV :Niên
hạn sử dụng
trên 20 năm
Bậc V
- Đối với nhà biệt thự
Nhà biệt thự là nhà ở riêng biệt, có sân vườn, hàng rào, xây bằng gạch ngói
hay bê tông cốt thép, kiến trúc mỹ thuật tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, mổi tầng
có ít nhất hai phòng để ở quay mặt ra sân hay ra vườn (không kể phòng tiếp
khách hay phòng ăn riêng). Biệt thự phân ra bốn hạng:
Hạng 1: Biệt thự giáp tường;

9
Hạng 2: Biệt thự song đôi;
Hạng 3: Biệt thự riêng biệt;
Hạng 4:Biệt thự sang trọng riêng biệt ;
Phân loại biệt thự căn cứ vào mức độ, sử dụng vật liệu xây dựng đắt tiền,
sân vườn rông hay hẹp, mức độ trang trí tiện nghi sinh hoạt và cách bố trí
phòng tắm rửa, vệ sinh ;
Hạng 1 có thể mổi tầng có một phòng tắm rửa vệ sinh và hạng 4 cứ mổi
phòng có 1 phòng tắm rửa vệ sinh riêng. Giải pháp kiến trúc, mỹ thụât, có
trang trí, hoàn thiện bên trong, bên ngoài ngôi nhà chất lượng cao hoặc tượng
đối cao. Ngôi nhà có kết cấu chịu lực: Khung cột bê tông hoặc tường gạch
chịu lực, sàn gỗ hoặc bê tông có lát vật liệu chất lượng cao. Mái bằng bê tông
cốt thép hoặc mái ngói có trần bảo đảm cách âm, chống nhiệt, chống nóng.
Ngoài các cách phân loại trên, nhà ở còn phải căn cứ vào các tiêu chuẩn sau
để phân loại:
- Diện tích sử dụng (m
2
);
- Hệ số cấp đô thị (K1);
- Hệ số vị trí xét theo các khu vực trong đô thị (K2);
- Hệ số cao tầng (K3);
- Hệ số điều kiện giao thông, kết cấu hạ tầng (K4);
Việc phân loại các điều kiện nhà ở như trên sẽ là căn cứ để tính giá cho
thuê nhà ở cảu các tổ chức, cá nhân, đồng thời cũng là căn cứ để xác định
nghĩa vụ với nhà nước của các tổ chức quản lý và kinh doanh phát triển nhà ở
thuộc sở hữu của Nhà nước.
II.ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ Ở VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA NÓ
2.1.Khái niệm về đầu tư xây dựng nhà ở đô thị
* Khái niệm về đầu tư: Đầu tư theo nghĩa rộng nhất của nó, có thể hiểu như
một quá trình bỏ vốn (bao gồm cả tiền, nguồn lực và công nghệ) để đạt được

một mục đích hay một tập hợp các mục đích nhất định nào đó. Những loại
10
mục tiêu này có thể là: Mục tiêu kinh tế chính trị, kinh tế, văn hoá,xẵ hội...và
cũng có lúc là mục đích nhân đạo đơn thuần.
* Khái niệm về đầu tư phát triển: Là hình thức quan trọng và chủ yếu.
Người có vốn đầu tư (cá nhân, tập thể hay nhà nước)gắn liền với hoạt động
kinh tế của đầu tư. Hoạt động đầu tư trong trường hợp này nhằm nâng cao
năng lực của các cơ sở sản xuất hiện có theo hướng số lượng và chất lượng và
tạo ra các năng lực sản xuất mới. Đây là hình thức tái sản xuất mở rộng. Và
cũng là hình thức đầu tư quan trọng tạo ra nhiều việc làm mới, sản phẩm mới
và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
* Khái niệm đầu tư xây dựng nhà ở: Là hoạt động đầu tư phát triển bỏ vốn
và sức lao động, trí tuệ và công nghệ để tiến hành các hoạt động như là xây
dựng mới, sửa chửa cải tạo nhà cửa và các kết cấu hạ tầng nhằm tạo ra tài sản
mới hoặc duy trì hoạt động của các ngôi nhà đang tồn tại cho mỗi cá nhân,
mỗi hộ gia đình, cho mỗi quốc gia, tạo ra tiềm lực kinh tế xã hội.
2.2.Đặc điểm và nội dung của đầu tư xây dựng nhà ở đô thị
2.2.1 Đặc điểm đầu tư xây dựng nhà ở:
- Để thi công và hoàn thành một công trình phải trải qua nhiều giai đoạn do
đó quá trình này cần một số vốn lớn.Tức là giá trị của hoạt động đầu tư vào
nhà là rất lớn.
- Có những dự án nhỏ thì thời gian thực hiện ngắn có thể là một vài năm,
ngoài ra có những dự án lớn tầm cỡ thì thời gian thực hiện phải kéo dài rất lâu
lên tới nhiều năm. Lý do là ngoài những công việc chính ra còn phải thực hiện
các công việc khác mà mức độ phức tạp cũng không kém nó phải trải qua
nhiều công đoạn cụ thể như: Giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, bồi thường và
chuẩn bị đầu tư...
- Hoạt động đầu tư xây dựng nhà ở khi thực hiện xong thì có thể thu hồi vốn
ngay đối với những ngôi nhà để bán như khu chung cư cao tầng, ngoài ra thì
có nhiều dự án mà bắt buộc phải thu hồi vốn muộn như xây dựng bán trả góp,

11
trả chậm hoặc những công trình phúc lợi, công trình cho hộ có thu nhập
thấp ...
- Quá trình thực hiện đầu tư xây dựng nhà chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện
về địa hình, kinh tế, chính trị văn hoá xẵ hội ...
2.2.2. Nội dung của đầu tư xây dựng nhà ở đô thị :
- Đầu tư mới mở rộng việc cung cấp các loại nhà và công trình.
- Đầu tư thay thế các toà nhà hiện có khi mà các tuổi thọ của các công trình
này giảm sút một cách nghiêm trọng hoặc do một lý do nào đó.
- Đầu tư những dự án có quy mô lớn ví dụ như các khu chung cư chất lượng
cao, khu đô thị mới được thành lập hay các khu nhà có chất lượng cao. Ở
nước ta thì các dự án này đươc thực hiện rất nhiều trong quá trình phát triển đi
lên, nó được coi là nhu cầu không giới hạn.
- Đầu tư sữa chữa bảo trì, khôi phục, cải tạo công trình hiện có khi cần thiết
tại một thời điểm nào đó.
2.3.Sự cần thiết phải đầu tư xây dựng nhà ở đô thị
- Hiện nay thì các khu dân cư đã trở nên quá đông với một mật độ dày đặc,
diện tích nhà ở đầu người ngày càng ít đi, mọi người phải sống chật chội chen
lấn. Đầu tư nhà ở giải quyết phần nào được nhu cầu ở tạm thời, cải thiện điều
kiện ở cho người dân đô thị.
- Đầu tư xây dựng nhà ở đô thị nhằm thực hiện hoá chính sách hiện hoá
chiến lược phát triển đô thị, đồng thời sẽ giảm được tình trạng xây dựng tràn
lan trái phép gây nên tình trạng lộn xộn mất mỹ quan đô thị như hiện nay.
- Đầu tư xây dựng nhà ở đô thị nhằm tạo nên một khu đô thị mới hiện đại ,
đồng bộ về cơ sở hạ tầng có kiến trúc hài hoà thích hợp với lối sống công
nghiệp hiện đại, qua đó cũng nhằm bảo vệ những khu nhà cổ có giá trị văn
hoá truyền thống.
- Đầu tư xây dựng nhà ở là một nghành quan trọng có nhiều đóng góp cho
ngành kinh tế đô thị, nó không những tạo ra công ăn việc làm mà còn thúc
12

đẩy các nhành khác liên quan cùng phát triển như sản xuất vật liệu xây
dựng,vận tải, và các nhành dịch vụ khác...
2.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư xây dựng nhà ở đô thị
Cũng như các hoạt động đầu tư khác, đầu tư xây dựng nhà ở cũng chịu tác
động của các yếu tố khác như: Lãi suất, tỷ suất lợi nhuận bình quân, chu kỳ
kinh doanh, độ trễ thời gian.
- Lãi suất: Là một yếu tố nội sinh tác động trực tiếp tới sự gia tăng hay sự
suy giảm của đầu tư. Khi lãi suất giảm tức là giảm chi phí sử dụng vốn sẽ
khuyến khích các nhà đầu tư vay vốn từ các ngân hàng để tiến hành đầu tư do
có kích cầu đầu tư. Ngược lại khi lãi suất tăng sẽ làm hạn chế khả năng vay
vốn của nhà đầu tư, từ đó làm giảm khả năng nhu cầu đầu tư.
- Tỹ suất lợi nhuận bình quân: Là một nhân tố khách quan vừa phản ánh
trong mỗi thời kỳ thì đầu tư vào ngành nào là có lợi nhất, mặt khác nó cũng
điều tiết đầu tư từ vùng này sang vùng khác. Tỷ suất lợi nhuận bình quân của
ngành này cao hơn ngành khác tức là đầu tư vào ngành đó cho lợi nhuận cao
hơn.Điều này kích thích các nhà đầu tư rút vốn từ ngành khác để đầu tư vào
nghành đó.
- Thời gian thu hồi vốn đầu tư: Đây là một nhân tố quan trọng của hoạt động
đầu tư.Tức là đầu tư hôm nay thì trong một thời gian sau mới phát huy tác
dụng, một thời gian sau thì mới có kết quả và thu hồi được vốn đầu tư.Đây là
một nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả và đánh giá hiệu quả đầu tư
xây dựng nhà ở.
- Chu kỳ kinh doanh: Thể hiện dao động của nền kinh tế qua hai giai đoạn
đặc trưng là đỉnh và đáy của chu kỳ. Đỉnh của chu kỳ kinh doanh được xem
như thời kỳ khi nền kinh tế đang cực thịnh, phần lớn nhà đầu tư đều bỏ vốn để
đầu tư, nhu cầu của đầu tư là rất lớn. Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ suy
thoái, hay đáy của chu kỳ thì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều bị trì trệ,
các nhà đầu tư thận trọng bảo toàn vốn của mình, nhu cầu đầu tư thấp.
2.5.Những chủ thể tham gia đầu tư xây dựng nhà ở tại đô thị .
13

2.5.1.Khu vực nhà nước đầu tư xây dựng nhà ở công cộng
Nhà ở khu vực công cộng được xem là mục tiêu của các chính sách về nhà
ở, vì đây là khu vực mà chính phủ đầu tư vốn xây dựng và có thể kiểm soát
trực tiếp. Đa số các nước đang phát triển có một vài hình thức nhà ở công
cộng mặc dù dân cư được sống trong nhà ở công cộng là rất nhỏ. Tuy có sự
khác nhau giữa các nước, song có một điều được thừa nhận là nhà ở công
cộng được sử dụng chủ yếu cho các viên chức nhà nước hơn là đáp ứng cho
người nghèo và các tầng lớp khác trong xẵ hội.
Nhà ở công cộng trong các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam
thường được xác địnhlà loại hàng hoá đựợc bao cấp, với nguồn cung cấp rất
có hạn trong khi nhu cầu lại rất lớn. Những người sống trong các ngôi nhà
này giành được sự bao cấp hoàn toàn hoặc một phần của nhà nước.
Do tác động của các dự án về nhà ở của chính phủ nên đầu thập kỹ 70,
những hình thức can thiệp với mô hình đất xây dựng nhà ở đã có các dịch vụ
tối thiểu. Công việc nâng cấp, sữa chữa nhà ổ chuột đã được thực hiện tại các
nước đang phát triển, nhờ có các tổ chức quốc tế và Ngân hàng thế giới cho
vay để xây dựng nhà ở.
Trong giải pháp sử dụng đất xây dựng nhà ở tại các khu đô thị, chính quyền
các đô thị đã chuẩn bị những lô đất có các dịch vụ tối thiểu cho những hộ gia
đình có thu nhập thấp được xây dựng dần dần nhà ở của họ. Cách giải quyết
nàycho phép mở rộng đối với tất cả các đô thị để giảm chi phí cho dân chúng ,
góp phần vào việc ổn định xã hội ở đô thị một cách đáng kể.Vì vậy,vấn đề
nhà ở là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế đô thị chứ không
phải là một khía cạnh của phúc lợi xẵ hội.
2.5.2.Khu vực tư nhân đầu tư xây dựng nhà ở
Nhà ở công cộng là một hệ thống công trình được xây dựng để cấp, cho
thuê và bán do chính chủ kiểm soát hoàn toàn. Nhà nước có trách nhiệm cấp
vốn nhân sách cũng như quy định khuôn khổ điều tiết đối với việc phát triển
14
và xây dựng. Trong trường hợp khu vực tư nhân, chính phủ có ít sự kiểm soát

hơn, mặc dầu nhà nước vẫn quản lý và điều tiết trong khuôn khổ pháp luật.
Vấn đề quyết định đầu tư (đầu tư vào đâu,đầu tư như thế nào và cho loại hình
nhà ở nào ) được thực hiện bỡi những lợi ích tư nhân. Sự quan tâm chủ yếu
của chủ đầu tư được quyết định mức độ lợi nhuận thu được là bao nhiêu từ
việc bỏ vốn vào đầu tư xây dựng nhà ở.
Trong cơ chế đó, chức năng quản lý của nhà nước là ban hành những quy
định nhằm kiểm soát việc xây dựng nhà ở khu vực tư nhân được thực hiện
thông qua một hệ thống các văn bản pháp luật và các quy định dưới luật. Mọi
yếu tố về chi phí đầu tư xây dựng các công trình đều được các doanh nghiệp
tư nhân tính toánvà đưa vào giá thành xây dựng nhà ở.
Mục đích đầu tiên của các doanh nghiệp là lợi nhuận nên họ cố gắng tiến
hànhtrong khuôn khổ của pháp luật và tận dụng mọi kẽ hở của pháp luật để
giữ đúng những quy định trong quá trình kinh doanh nhà đất, đó là một
nghành kinh doanh sinh lợi đặc biệt. Để đạt được mục tiêu lợi nhuận nó có thể
tạo điều kiện cho sự tham nhũng của bộ máy quan liêu. Đôi khi đối với các
chu doanh nghiệp xây dựng khu vực nhà ở tư nhân họ quan niệm hối lộ các
quan chức nhà nước có lợi hơn là tuân thủ theo đúng các quy định pháp luật.
Nhà ở là một loại hàng hóa đặc biệt và thông thường ngưòi mua không thể
nắm vững toàn bộ chất lượng ngôi nhà, vì vậy Nhà nước cần ban hành các
quy định bằng văn bản bảo vệ người tiêu dùng có được một số thông tin tối
thiểu trong việc mua nhà, tránh được những sai lầm có thể xảy ra và rằng
buộc trách nhiệm của chủ công trình. Mặt khác có các quy định cụ thể như
vậylà để hạ thấp giá nhà ở thị trường, hoặc mở rộng hơn quyền sở hửu nhà ở
trong xã hội đô thị. Điều này thể hiện trong chính sách cho vay, thế chấp bằng
nhà ở của nhà mình, bằng cách đảm bảo một khoản vay nợ dài hạn từ các
ngân hàng công và tư. Tuy nhiên, việc mở rộng quyền sở hửu nhà ở thông qua
các chính sách cầm cố và chính sách thuế lại gây thiệt hại cho những người
thuê nhà vốn là bộ phận dân nghèo ở thành thị. Nhà nước điều tiết ngành xây
15
dựng nhà ở là khuyến khích sự phát triển cũa các thành phố, để có tiện nghi

đầy đủ và môi trường sống dễ chịu. Chính quyền địa phương các cấp đang nổ
lực thực hiện khuyến khích xây dựng nhà ở tập trung với mật độ cao, lợi ích
trước mắt là không phải đi làm việc, học tập xa, đồng thời để bù đắp cho sự
phát triển tiếp theo của các vùng ngoại ô có mật độ cư trú thấp bất lợi về mặt
sinh thái.
Các thành phần kinh tế phi chính phủ (doanh nghiệp tư nhân) xây dựng nhà
ở với mục đích kiếm lợi nhuận tối đa, điều đó có ý nghĩa quan trọng cho sự
phát triển về không gian và môi trường của thành phố. Nếu không có sự can
thiệp của các chính sách thuế, các chủ doanh nghiệp này sẽ xây dựng những
ngôi nhà lới có chất lưọng cao nhằm phục vụ cho tầng lớp người giàu có
trong xă hội và họ sẽ không xây dựng các ngôi nhà cho người mua và có thu
nhập thấp với mục đích có nhiều lợi nhuận hơn. Họ làm như vậy với một lý
do quan trọng là chi phí đầu tư vào nhà đất và cung cấp một kết cấu hạ tầng
kỹ thuật trên một đơn vị diện tíchlà rất cao khi xây dựng các ngôi nhà có quy
mô lớn.
Ngày nay, tại các nước đang phát triển, ngành kinh doanh bất động sản đang
trên đà phát triển. Nhà ở được xây dựng ven thành phố theo thể loại thành phố
vườn và dân chúng đô thị đi lại làm việc, học tập và sinh hoạt bằng các
phương tiện giao thông hiện đại như ô tô, xe máy.
Việc định cư như vậy tạo ra sự tách biệt về không gian và phân hoá xã hội
rõ rệt hơn giữa các tầng lớp xẵ hội khác nhau về thu nhập và mức sống, đồng
thời việc đầu tư cơ sở kết cấu hạ tầng điện, nước, hơi đốt,v.v...sẽ rất đắt và
chiếm dụng nhiều đất canh tác, nhưng lại thích hợp với nhu cầu của một bộ
phận giàu có trong xã hội đô thị. Do đáp ứng được các nhu cầu đa dạng trong
xã hội mà khu vực tư nhân (phi chính phủ ) xây dựng nhà ở để bán, cho thuê
đạt được lợi nhuận cao. Vấn đề cơ bản để giải quyết nhà ở tại các đô thị là
phải rằng buộc trách nhiệm của chủ đầu tư hoặc giảm đến mức tối thiểu sự
16
kiểm soát theo các quy định của pháp luật thì mọi người sẽ có khả năng đạt
được nhu cầu của mình về nhà ở.

Trong các nuớc đang phát triển, sự chênh lệch về mức sống giữa các tầng
lớp giàu nghèo còn cao thì việc hy vọng của người dân vào thị trường trong
việc phân phối đất đai và nhà ở tại các đô thị là điều rất mong manh và sẽ dẫn
đến sự mất bình đẵng, không công bằng về vấn đề nhà ở nhất định xãy ra. Do
đó, vấn đề hoạch định các chính sách cho thích hợp với các đối tượng trong
xẵ hội đô thị để quản lý và điều tiết quá trình này cần phải đặt ở tầm quan
trọng hơn nữa.
2.6. Những yêu cầu cơ bản trong xây dựng nhà ở đô thị
Nhà ở có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của con người và nó gắn liền
với tính dân tộc, hiện đại và theo thời gian. Đối với đô thị, nhà ở còn phản ánh
quy mô phát triển đô thị trên mọi lĩnh vực khi ta nhìn vào mức độ phát triển
của nhà ở đô thị.
Nhà ở đô thị gồm có nhà chung cư, nhà ở xây dựng liền kề, nhà ở độc lập
trên các đường phố, nhà biệt thự vườn và mỗi loại nhà đều có yêu cầu và kiến
trúc thẩm mỹ khác nhau.
Để có một cái nhà đẹp, một đường phố có nhiều nhà đẹp, được xây dựng
liền kề nhau, tiện lợi cho người sử dụngvà phù hợp với hình khối kiến trúc
đường phố thì người thiết kế nhà phải suy nghĩ đắn đo để cho tác phẩm của
mình khi xây dựng lên phải phù hợp với quy hoạch chung và quy hoạch chi
tiết của một lô đất, phải phù hợp với các công trình liền kề trên một đường
phố để mang được tính hiện đại của một đô thị trong một thời đại khoa học
công nghệ phát triển cao.
Ngày nay, một vấn đề mà các nhà quy hoạch và các nhà quản lý đô thị cần
nhận rõ hơn đó là những tác phẩm kiến trúc về nhà ở hoặc một công trình
dịch vụ công cộng ở đô thị đều phải được tổ chức không gian và thẩm mỹ
kiến trúc phù hợp với các công trình xung quanh và phải đúng với quy hoạch.
17
Việc phân lô cho mổi căn hộ phải cân nhắc kỹ trên một đường phố để khi xây
dựng, nó mang được tính hài hoà và hiện đại, muốn vậy việc xác định chỉ giới
đường đỏ và chỉ giới xây dựng là một vấn đề rất quan trọng. Từ đó tạo dáng

hình khối kiến trúc đường phố sạch sẽ hài hoà, mang được tính thẩm mỹ, còn
việc xây thụt vào, trồi ra vỉa hè đều là việc làm không mang lại vẽ đẹp cho
đường phố, mặt khác phải có những văn bản hướng dẫn cụ thể trong xây dựng
với cốt cao nhà bao nhiêu mà Nhà nước phải quản lý, không chỉ tầng một mà
các tầng trên cũng phải quản lý có quy địng cụ thể.
Nhà nước phải có hướng dẫn cụ thể và phải khống chế mô dun từng tầng, có
như vậy thành phố mới có vẻ đẹp trong trật tự. Song muốn có một bộ mặt
thành phố đẹp cũng cần lưu ý dến tính bền vững của ngôi nhà, vì vậy vấn đề
quản lý phần nền móng cho mỗi ngôi nhà và từng công trình công cộng cần
chú ý để việc xây dựng này đối với những thời gian khác nhau mà vẫn không
gây rạn nứt công trình liền kề. Đây là vấn đề mà các cơ quan xây dựng cần có
những văn bản hướng dẫn cụ thể, đồng thời cùng với cơ quan quy hoạch xây
dựng ở đô thị tăng cường kiểm soát để mỗi công trình trên mỗi đưòng phố
đảm bảo được yêu cầu kỹ thuật về mặt nền móng cũng như các bộ phận tồn
tại lâu dài như bộ phận bể phốt, đường ống dẫn nước sạch, thoát nước bẩn và
đường cáp điện cũng có phần văn bản hướng dẩn kèm theo sơ đồ thiết kế để
cho cơ quan quản lý nhà ở và công trình nắm được mọi liên hệ trong một ngôi
nhà và các công trình khác trên mỗi đường phố.
Người làm quản lý đô thị là người đại diện cho cả chính quyền và cho cả
lĩnh vực chuyên môn, vì họ là những người hiểu biết về chuên môn trong
nghành xây dựng và nắm chắc tình hình ở địa phương, họ có khả năng xem
xét hồ sơ xây dựng của các ngôi nhà và công trình công cộng có đủ các thủ
tục về hồ sơ trong lĩnh vực xây dựng, nằm tiến hành xây dựng một ngôi nhà
hoặc công trình. Khi đã có đủ các cơ sở pháp lý mới cấp phép xây dựng, và
khi xây dựng xong công trình phải đủ đảm bảo các yêu cầu trong giấy phép
xây dựng mới cấp giấy phép hoàn công. Nhưng để tiến hành được công việc
18
đó, nhà nước cần có những văn bản dưới luật một cách cụ thể hơn, giúp được
nhà quản lý đô thị hoàn thành được nhiệm vụ của mìnhlà hướng dẫn dân
chúng làm đúng với quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết để đô thị đẹp về

mặt kiến trúc và hiện đại về phần kết cấu hạ tầng kỹ thuật.

III. NGUỒN VỐN CHO ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHÀ Ở
3.1.Khái niệm về vốn
*Vốn được hiểu theo nghĩa rộng là vốn của một quốc gia, vốn theo nghĩa hẹp
là vốn của cá nhân, của doanh nghiệp. Hình thái biểu hiện của vốn bao gồm
hình thái tiền tệ, hình thái phi vật chất dưới dạng bằng phát minh sáng chế,
kiểu dáng mẫu mã, hình thái vật chất dưói dạng hàng hoá, tất cả các dạng hình
thái này đều tham gia vào quà trình sản xuất.
Vốn phải gắn với chủ sở hữu. Mổi một đồng vốn đều có chủ sở hữu nhất
định. Tuỳ theo hình thức đầu tư mà người sở hữu và người sử dụng vốn có thể
đồng nhất hay tách rời. Song dù trường hợp nào đi chăng nữa, người sở hữu
vốn vẫn được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và phải được tôn trọng quyền sỡ hữu
vốn của mình. Có thể nói đây là một nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong việc
huy động vốn, quản lý và sử dụng vốn, nó cho phép huy động được vốn nhàn
rỗi trong dân cư vào sản xuất kinh doanh, đồng thời quản lý và sử dụng vốn
có hiệu quả. Nhận thức được đặc trưng này sẽ giúp doanh nghiệp tìm ra mọi
biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Những phân tích trên cho thấy; “Vốn là phạm trù kinh tế cơ bản. Vốn sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị tài sản
được đầu tư vào hoạt động sản xuất sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh
lợi ”.
3.2.Phân loại vốn
3.2.1.Theo góc độ chu chuyển vốn.
3.2.1.1. Vốn cố định
Vốn cố định chia thành hai phần:
19
• Một phần tương ứng với giá trị hao mòn được chuyển dần vào giá trị
sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Số tiền khấu hao này được
trích lại và tích luỹ thành quỹ gọi là quỹ khấu hao tài sản cố định, nằm

mục đích để mua sắm, hiện đại hoá tài sản cố định của doanh nghiệp.
• Phần còn lại của vốn cố định nằm trong giá trị còn lại của các tài sản cố
định mà doanh nghiệp đang sử dụng.
Hai phần vốn trên sẽ tăng giảm tương ứng cho đến khi tài sảncố định khấu
hao hết hay hết thời gian sử dụng thì cũng là lúc hoàn thành một vòng luân
chuyển.
3.2.1.2.Vốn lưu động
- Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động
nhằm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành
một cách liên tục và thường xuyên.
- Vốn lưu động của doanh nghiệp là bộ phận của vốn sản xuất được biểu
hiện bằng số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình
tái sản xuất của donh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên liên tục,
nó được chuyển toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm và được thu hồi sau khi
thu được tiền bán sản phẩm.
Vốn lưu động có vai trò lớn trong toàn bộ quá trình sản xuất. Để tổ chức
quản lý vốn lưu động chúng ta phải quản lý trên nhiều mặt các khâu từng
thành phần vốn lưu động, thế nhưng việc tập trung các biệ pháp vào quản lý
những bộ phận vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn có ý nghĩa quyết định đến
việc tăng nhanh vòng quay và tiết kiệm vốn.
3.2.2.Theo góc độ nguồn hình thành
Căn cứ theo nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp chia thành hai loại:
• Nguồn vốn chủ sở hữu: Gồm vốn chủ sở hửu đầu tư, vốn tự bổ sung từ
lợi nhuận và các quỹ của doanh nghiệp, vốn tài trợ của nhà nước (nếu
có).
20
• Nguồn vốn vay: Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh
mà doanh nghiệp có nhiệm vụ phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế
khác như ngân hàng, các tổ chức kinh tế, phải trả cho nhà nước...
3.2.3. Theo tính chất sở hữu

Căn cứ theo tính chất sở hữu có thể phân chia thành hai loại:
• Nguồn vốn sở hữu nhà nước: Vốn ngân sách cấp và vốn tự bổ sung
• Nguồn vốn huy động: Vốn vay ngân hàng, vốn vay các đối tượng khác,
vốn góp liên doanh, phát hành trái phiếu ...
3.3.Nguyên tắc chung về huy động vốn của các doanh nghiệp đầu tư xây
dựng nhà ở hiện nay
- Để xác định lượng vốn đầu tư cần thiết, chủ đầu tư sẽ tính đến tất cả các
yếu tố. Tiền sử dụng đất, tiền giải phóng mặt bằng và tái định cư, tổng dự
toán các công trình và các chi phí khác có liên quan đến lập và thẩm định dự
án, quản lý dự án. Trên cơ sở xác định lượng vốn đầu tư cần thiết và tiến độ
đảm bảo vốn, chủ đầu tư sẽ tính toán tỷ trọng vốn huy động, vốn từ các nguồn
cũng như thời điểm tương ứng để giảm ứng đọng vốn và các rủi ro nếu có.
- Đối với vốn ngân sách chủ đầu tư có trách nhiệm lập dự án, thiết kế kỹ
thuật, tổng dự toán công trình sử dụng các nguồn nàt trình lên các cơ quan
quản lý của Thành phố phê duyệt theo quy định.
- Đối với nguồn vốn huy động từ sự đóng góp của cá nhân, cơ quan, đơn vị
có nhu cầu: Được thực hiện bằng các văn bản thoả thuận đóng góp vốn đầu tư
xây dựng, bên góp vốn được nhận quyền sử dụng đất để xây dựng nhà ở sau
khi đầu tư xong hạ tầng kỹ thuật với dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật
hoặc nhận nhà ở với dự án đầu tư xây dựng nhà ở.
- Đối với vốn vay: Được thực hiện bằng các hợp đồng theo pháp lệnh hợp
đồng kinh tế trong đó ghi số lãi suất và các cam kết hoàn vốn phần vốn vay
dùng để đầu tưhạng mục công trình nào đó của dự án theo tiến độ xây dựng
công trình.
21
- Đối với vốn doanh nghiệp: Có thể được sử dụng cho công tác đền bù giải
phóng mặt bằng, lập dự án, thiết kế trên cơ sở các văn bản đền bù được cấp có
thẩm quyền phê duyệt. Nhiều trường hợp nguồn vốn này có tỷ trọng nhỏ, chỉ
dùng cho lập dự án, thiết kế, tổng dự toán.


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
NHÀ Ở TẠI HÀ NỘI CỦA CÔNG TY TƯ VẤN-ĐẦU
TƯ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÀ HÀ NỘI
TRONG THỜI GIAN QUA.
I.GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY
1.1.Lịch sử hình thành và phát triển
- Tiền thân của công ty tư vấn đầu tư xây dựng và phát triển nhà Hà Nội là
xí nghiệp thiết kế sữa chữa nhà cửa Hà Nội trực thuộc sự lãnh đạo của sở
22
nhà đất Hà Nội, được thành lập theo quyết định số 5324/QĐ-TCCQ ngày
24 tháng 12 năm 1980 của UBND thành phố Hà Nội.
- Sau đó xí nghiệp sữa chữa nhà được đổi tên thành công ty thiét kế xây
dựng nhà theo quyết định số 1185/QĐ-UB ngày 18 tháng 5 năm 1992.
- Thành lập doanh nghiệp:Quyết định số 945/QB-UB ngày 8 thang3 năm
1993 của UBND thành phố Hà Nội .
Tên công ty: Công ty thiết kế xây dựng nhà.
Tên viêt tắt của công ty: HACID
- Đổi tên doanh nghiệp và xác định nhiệm vụ: Quyết định số 9067/QB-UB
ngày31 tháng12 năm 2002 của UBND thành phố Hà Nội.
Tên doanh nghiệp: Công ty Tư vấn- Đầu tư xây dựng và Phát triển nhà
Hà Nội .
- Đăng ký kinh doanh và bổ sung kinh doanh:
Số 105956 do Trọng tài kinh tế và Sở Kế Hoạch- ĐầuTư thành phố Hà
Nội cấp.
Bổ sung nhiệm vụ: Quyết định số5983/QB-UB ngày 8-10-2003 của
UBND TPHN.
23
1.2.Đặc điểm hoạt động của công ty
*Chức năng, nhiệm vụ của công ty tư vấn đầu tư xây dựng và phát triển

nhà Hà Nội:
- Thiết kế kỹ thuật thi công xây dựng, thiết kế quy hoạch chi tiết xây dựng
khu đô thị, nông thôn quy hoạch phát triển vùng quy hoạch phát triển vùng
quy hoạch hệ thống hạ tầng.
- Tư vấn, dịch vụ thẩm tra thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công, tổng dự toán
công trình.
- Soạn thảo hồ sơ mời thầu giám sát và quản lý công trình thi công xây lắp.
Quản lý chi phí xây dựng và nghiệm thu công trình, cung cấp thông tin về văn
bản quy phạm pháp luật về cơ chế chính sách đầu tư và xây dựng.
- Lập quản lý và thực hiện các dự án đầu tư về phát triển nhà và khu đô thị
mới. Đầu tư xây dựng và kinh doanh phát triển nhà và khu đô thị mới.
- Khảo sát đo đạc và khoan địa chất công trình, địa chất thủy văn, khảo sát
môi trường sinh thái và các dự án đầu tư và xử lý nền móng công trình.
- Tư vấn, dịch vụ chuyển nhượng nhà đất công tác giải phóng mặt bằng, đền
bù khi thu hồi đất và các dịch vụ cho tư vấn đầu tư xây dựng.
- Nghiên cứu và triển khai ứng dụng các đề tài khoa học trong lĩnh vực
tư vấn đầu tư và xây dựng. Tổ chức đào tạo cung cấp nguồn nhân lực phục
vụ công tác tư vấn xây dựng.Tổ chức đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực phục
vụ công tác tư vấn xây dựng.
- Tổng thầu thiết kế, quản lý dự án đầu tư và xây dựng các công trình dân
dụng công nghiệp và kỹ thuật hạ tầng. Lập dự toán công trình công nghiệp
dân dụng, kỹ thuật hạ tầng.
- Đánh giá tác động môi truờng các công trình dân dụng công nghiệp, kiểm
định các công trình xây dựng, cấu kiện xây dựng, kết cấu công trình xây
dựng ,nền móng công trình, thiết bị lắp đặt tại tại các công trình xây dựng, thi
công các công trình xây dựng, ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học và
công nghệ kỹ thuật tiên tiến.
24
- Thiết kế và thi công nội ngoại thất công trình. Liên doanh liên kết với mọi
thành phần kinh tế trong và ngoài nước để mở rộng phát triển sản xuất.

1.3.Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh tại công ty
Công ty được chuyển giao từ cơ quan chủ cũ là sở địa chính nhà đất về
Tổng Công Ty Đầu tư và Phát triển nhà Hà Nội, các tổ chức đảng, Công
Đoàn, đoàn thanh niên được chuyển giao về trực thuộc Tổng Công ty: Đ/c
giám đốc và 1 phó giám đốc nghỉ hưu, 02 đ/c phó giám đốc được điều đi nhận
nhiệm vụ mới ...
Thực hiến sự chỉ đậo của Tổng công ty, từ việc chuyển hướng hoạt động
sản xuất kinh doanh, Công ty đã xây dựng Đề án kiện toàn nâng cao năng lực
sản xuất kinh doanh, trình Tổng Công ty phê duyệt và nhanh chóng triển khai
thực hiện.Với sự thống nhất chỉ đạo, quyết tâm cao của lãnh đạo công ty,
công ty đã mạnh dạn đổi mới sắp xếp lại tổ chức, Công ty được bổ sung nhân
lực mới giữ trọng trách là giám đốc và các phó giám đốc công ty ...
Trên cơ sở tách phòng, thành lập mới, bổ sung tăng cường cán bộ cho đến
nay Công ty đã có 5 phòng nghiệp vụ là: Phòng Hành chính Quản trị, phòng
Khoa học kỹ thuật, phòng Tài chính kế toán Tổng hợp và Phòng Tổ chức lao
động tiền lương, cơ bản đã hoàn thành công tác tổ chức cán bộ của các phòng
nghiệp vụ.
Công ty đã mạnh dạn sát nhập các đơn vị sản xuất kinh doanh nhỏ, lẻ hoạt
động phân tán, đồng thời xây dựng đề án lựa chọn nhân sự thành lập mới các
xí nghiệp. Đến nay, công ty đã có 7 xí nghiệp trực thuộc trong đó có 4 xí
nghiệp Tư vấn thiết kế, 1xí nghiệp Khảo sát địa chất công trình, 1xí nghiệp tư
vấn chính sách nhà đất và Đầu tư phát triển nhà, 1 xí nghiệp Kỹ thuật hạ tầng
và môi trường, số lao động bình quân của các xí nghiệp từ 15 đến 20 người.
Với sự không ngừng đổi mới về tổ chức nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh, tháng 8/2002 UBND Thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 3894/QĐ-
UB xếp hạng II cho công ty .
25

×