Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Trách nhiệm chính trị của cán bộ công chức ngành tư pháp từ thực tiễn tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.33 KB, 90 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA
CÁN BỘ CƠNG CHỨC NGÀNH TƯ PHÁP.............................................12
1.1. Quan niệm về trách nhiệm chính trị và trách nhiệm chính trị của đội ngũ
cán bộ, cơng chức ngành Tư pháp...................................................................12
1.2. Cán bộ, công chức....................................................................................18
1.3. Ngành Tư pháp ở Việt Nam hiện nay......................................................21
1.4. Một số tiêu chí xác định trách nhiệm chính trị của cán bộ, cơng chức....27
Chương 2: THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN
BỘ, CƠNG CHỨC NGÀNH TƯ PHÁP Ở TỈNH LẠNG SƠN................34
2.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - xã hội và đội ngũ CBCC ngành Tư pháp
ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay................................................................................34
2.2. Thực trạng trách nhiệm chính trị của đội ngũ CBCC ngành Tư pháp ở
tỉnh Lạng Sơn hiện nay...................................................................................44
2.3. Những vấn đề đặt ra về nâng cao trách nhiệm chính trị của đội ngũ CBCC
ngành tư pháp tỉnh Lạng Sơn..........................................................................58
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRÁCH
NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ CÔNG CHỨC NGÀNH TƯ PHÁP
TỈNH LẠNG SƠN.........................................................................................61
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả trách nhiệm chính trị của cán bộ, công
chức ngành Tư pháp tỉnh Lạng Sơn................................................................61
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trách nhiệm chính trị của cán
bộ công chức ngành Tư pháp tỉnh Lạng Sơn..................................................63
KẾT LUẬN....................................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................86


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBCC



: Cán bộ công chức

TNCT

: Trách nhiệm chính trị

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội Chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính trị là một lĩnh vực của đời sống xã hội, kể từ khi xã hội phân
chia thành giai cấp và tổ chức thành nhà nước, từ đó cuộc đấu tranh giành,
giữ, sử dụng sức mạnh chính trị, quyền lực chính trị đã trở thành cuộc đấu
tranh giai cấp, động lực cho sự phát triển xã hội. Đây là lĩnh vực phức tạp
nhất, nhạy cảm nhất và có vai trị ngày càng quan trọng.
Ngay từ thời cổ đại, các khía cạnh khác nhau của chính trị đã được
nhiều nhà tư tưởng lớn quan tâm và nghiên cứu, như: Quyền lực chính trị;
các thể chế chính trị; động lực chính trị; chính trị với văn hố và kinh tế…
Nhưng bất cứ khía cạnh nào mà khơng kể đến yếu tố con người thì thật thiếu
sót bởi con người là chủ thể của chính trị, là chủ thể nắm bắt quy luật và
vận hành nền chính trị - những con người chính trị sẽ có thể trở thành những
thủ lĩnh chính trị. Chính vì thế mà phạm trù con người chính trị ln được

các nhà triết học, nhà tư tưởng, chính trị gia từ cổ đại đến cận, hiện đại, từ
Tây sang Đông dày công khảo cứu để rút ra được những đặc điểm, quy luật
vận động chung về con người chính trị.
Dưới góc độ lý luận, c ác quan niệm về con người chính trị trong lịch
sử có rất nhiều tư tưởng khác nhau, từ tư tưởng Phương Đông như: Khổng
Tử; Mạnh Tử; Tuân Tử; Mặc Tử... đến tư tưởng Phương Tây như: Xê nơ
phơn; Platơn; Arix tốt; Ơguýt xtanh; Tơmát Đacanh... đề có cái nhìn nhận
nhất định về những con người chính trị, đó là những con người có những
quyền nhất định, tuy nhiên các nhà tư tưởng sau có cái nhìn chính xác hơn
về bản chất con người chính trị. Các Ơng đã nhận thức được con người
chính trị khơng phải chỉ là bậc quân vương và quan lại, mà tất cả dân chúng
đều là những con người chính trị. Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm về con
người chính trị: Với phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, Ông đã kế thừa các quan niệm về con người chính trị trong lịch sử nhân
1


loại, đồng thời có những phát triển mới có tính cách mạng trong quan niệm
về con người chính trị. Theo Ông, con người chính trị là những con người
hiện thực trong hồn cảnh hiện thực, có mối quan hệ hiện thực do chính
mình tạo ra. “Trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hịa các mối
quan hệ xã hội”. Trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội đó lao động và
ngơn ngữ là những yếu tố căn bản nhất tạo nên con người chính trị, con
người có ý thức và trí thức, khơng có con người trìu tượng ở đâu đó tách rời
hiện thực, tách rời hồn cảnh lịch sử. Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định, con
người là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất, quyết
định sự phát triển của lịch sử. Mọi người dân đều là những con người chính
trị, tham gia vào các quá trình sản xuất và phân cơng lao động xã hội. Do đó,
con người chính trị nào cũng thuộc về một giai cấp, một lực lượng xã hội
nào đó nhất định. Quần chúng nhân dân với tư cách là những con người

chính trị ln có vai trị quyết định trong các phong trào chính trị và trong
các cuộc cách mạng xã hội, là người sáng tạo ra lịch sử, là người quyết định
sự phát triển của xã hội...Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng của Chủ nghĩa MácLênin và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam đã khẳng định nhân
dân là người chủ của quyền lực tối cao, quyền lực nhà nước; mọi quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân. Hồ Chí Minh xác định đúng đắn vị trí vai
trị của nhân dân trong lịch sử dựng nước và giữ nước, trong các cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Người quan niệm nhân dân
là những con người chính trị, bất kể đó là ai, làm quan lớn hay dân thường.
Tuy nhiên, trong phạm vi Luận văn này, em xin phép được nghiên cứu
yếu tố về con người chính trị trong một phạm vi nhất định, đó là "Trách
nhiệm chính trị của cán bộ cơng chức ngành Tư pháp từ thực tiễn tỉnh
Lạng Sơn"
.
Trên phương diện lý luận, Cán bộ, cơng chức (CBCC), con người
chính trị nói chung bao gồm: Lãnh tụ, thủ lĩnh chính trị; Chính khách và
cơng chức.
2


Lãnh tụ, thủ lĩnh chính trị là người đứng đầu, có quyền lực cao nhất,
dẫn dắt và lãnh đạo một tổ chức hoặc một lực lượng chính trị; là người được
cộng đồng lựa chọn, tôn vinh, là người tiêu biểu, kết tinh ý chí, nguyện
vọng, lợi ích của cộng đồng, của giai cấp hoặc một xã hội nhất định. Bất kỳ
cộng đồng nào, giai cấp nào, dân tộc nào bao giờ cũng có nhu cầu về người
đứng đầu, do đó, cộng đồng ấy sẽ đào luyện ra lãnh tụ, thủ lĩnh chính trị cho
mình; là người có lập trường chính trị vững vàng, đại biểu trung thành cho
lợi ích của tổ chức, của giai cấp hoặc của dân tộc.... Chính khách và cơng
chức: Là những người đóng vai trị thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ
chính trị của tổ chức hoặc lực lượng chính trị, là những người ý thức được
sứ mệnh chính trị của mình, có tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm và nghệ thuật

hoạt động chính trị; là “khâu trung gian”, là cầu nối giữa lãnh tụ hoặc thủ
lĩnh chính trị với cộng đồng, thực hiện ý tưởng, mệnh lệnh của lãnh tụ hoặc
thủ lĩnh hoặc thực thi cơng vụ. Quyền và lợi ích gắn liền với hệ thống quyền
lực chính trị. Chất lượng hoạt động của giới chính khách và cơng chức ảnh
hưởng rất lớn tới hiệu lực, hiệu quả của tổ chức chính trị hoặc lực lượng
chính trị....
Trong quản lý nhà nước hay cịn gọi là quản lý công vụ, trách nhiệm
là một yếu tố không thể thiếu của mơ hình quản lý nhà nước, trách nhiệm là
sử dụng đúng thẩm quyền trong các mối quan hệ để tìm ra cách thức, biện
pháp thuận lợi nhất giúp thực thi công việc thành công. Chủ thể trách nhiệm
có thể là một cá nhân hay một tổ chức trong hệ thống hành chính (các cơ
quan, tổ chức của chính phủ). Chủ thể cũng có thể là một cá nhân cụ thể nào
đó như nhà quản lý, bộ trưởng hoặc các cơ quan như quốc hội, tòa án, cơ
quan kiểm toán; những chủ thể này tuy khác nhau nhưng có chung một điểm
là trách nhiệm cơng. Như vậy, có thể thấy trách nhiệm của CBCC là việc sử
dụng đúng thẩm quyền để thực thi và hồn thành các cơng việc được giao.
Ngồi thực hiện và hồn thành các cơng việc được giao, trách nhiệm của
CBCC còn bao gồm cả trách nhiệm giải trình. Thực hiện trách nhiệm là
3


nghĩa vụ của CBCC. Trách nhiệm của CBCC gắn liền với từng vị trí cơng
việc và được xét trong từng mối quan hệ công vụ cụ thể. Ứng với mỗi vị trí
cơng vụ, CBCC sẽ có các mối quan hệ và các trách nhiệm cụ thể khác nhau.
Chính vì vậy, khi nghiên cứu trách nhiệm của CBCC phải đặt trong mối
quan hệ công vụ cụ thể để xác định rõ các loại trách nhiệm mà CBCC phải
thực hiện. Trách nhiệm của CBCC có ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả hoạt
động của tổ chức. Bởi vì muốn đạt được hiệu quả trong tổ chức, cần phải
phân định rõ trách nhiệm cho CBCC gắn với các hoạt động mà họ đảm nhận
chứ không chỉ trao quyền. Để nâng cao trách nhiệm của CBCC cần phải căn

cứ vào vị trí và tính chất cơng việc để xác định trách nhiệm và phải được cụ
thể hóa trong từng mối quan hệ cơng vụ ở từng môi trường tổ chức gắn với
từng cá nhân CBCC.
Ở nước ta hiện nay, CNCT của CBCC được quy định tại Điều 8, Điều
9, Điều 10 - Luật Cán bộ công chức, quy định nghĩa vụ của CBCC: Đối với
Đảng, Nhà nước và nhân dân: Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và
lợi ích quốc gia; Tơn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; Liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; Chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Trong thi hành công vụ: Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu
trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; Có ý thức
tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ
chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm
pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước; Chủ động
và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đồn kết trong cơ quan,
tổ chức, đơn vị; Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà
nước được giao; Chấp hành quyết định của cấp trên.... Ngoài ra CBCC là
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ:
Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết

4


quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn
việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức; Tổ chức thực hiện các biện
pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật
về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp

thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi
phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây
phiền hà cho công dân; Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền
hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị của cá nhân, tổ chức; Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
Trách nhiệm của CBCC ngành tư pháp hiện nay ln được đặt ở vị trí
"trung tâm" với phương châm "cán bộ là nịng cốt cho hiệu quả cơng việc".
Cùng với đó, là triển khai thực hiện các nhiệm vụ để góp phần thực hiện
nhiệm vụ của Chính phủ về đẩy mạnh thực hiện 03 đột phát chiến lược gắn
với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế như đẩy mạnh cải cách thể
chế, hồn thiện mơi trường pháp lý cho phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, triển khai nghiêm túc thi hành pháp luật, đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật, tư
pháp. Do đó, cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC tư pháp khơng chỉ
về trình độ, năng lực cơng tác, mà cịn cả về phẩm chất và trách nhiệm
cơng vụ.
Ngồi việc thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm chung nêu trên, CBCC
ngành Tư pháp tiếp tục thực hiện 5 chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp theo
Quyết định số 2659/QĐ-BTP ngày 03/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp
như sau:
1. Với Tổ quốc - Trung thành, phấn đấu vì “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
5


2. Với nhân dân - Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân; phục vụ nhân
dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân.
3. Với công tác tư pháp - Trách nhiệm, tận tụy, sáng tạo, kỷ cương,

phụng cơng, thủ pháp, chí cơng vơ tư.
4. Với đồng nghiệp - Đoàn kết, thân ái, hợp tác, cùng tiến bộ.
5. Với bản thân - Nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, thượng tôn pháp luật.
Đối với ngành Tư pháp tỉnh Lạng Sơn, trên cơ sở chức năng, nhiệm
vụ được giao, là cơ quan chuyên môn thuộc UBND thực hiện chức năng
tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi
hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy
phạm pháp luật; kiểm sốt thủ tục hành chính; pháp chế; phổ biến, giáo dục
pháp luật; hòa giải ở cơ sở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý
lịch tư pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp
luật; công chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương
mại; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và
cơng tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Đa số CBCC trong ngành đều có phẩm chất đạo đức tốt, chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước, có tinh thần trách nhiệm cao, ý thức cầu tiến, ham học hỏi nâng cao
trình độ chun mơn, nghiệp vụ, có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, tận tuỵ phục
vụ nhân dân, có ý thức trách nhiệm và thực hiện đúng các quy định của pháp
luật, vì vậy cơ bản đáp ứng được các yêu cầu khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ.
Tuy nhiên, vẫn cịn một bộ phận CBCC năng lực tư duy, năng lực
hoạt động thực tiễn cịn hạn chế, làm việc theo thói quen, kinh nghiệm, chưa
có sự sáng tạo, chủ động trong tham mưu giải quyết cơng việc. Trình độ
chun mơn, nghiệp vụ hạn chế, chưa sâu trong việc nắm bắt những quy
định pháp luật và kỹ năng chuyên môn về quản lý ngành, nhất là đối với
những cơng việc khó khăn, phức tạp. Tại cấp xã vẫn cịn một số ít cơng chức
cấp xã chưa qua đào tạo. Việc tự nghiên cứu, học tập để nâng cao trình độ,
6


năng lực chưa đáp ứng được u cầu, cịn hình thức. Tiến độ triển khai công

việc trong một số lĩnh vực cơng tác được giao cịn chậm so với kế hoạch như
việc hướng dẫn, chỉ đạo công tác tuyên truyền triển khai một số Luật mới
ban hành, công tác trợ giúp pháp lý lưu động…, chất lượng một số mặt cơng
tác tư pháp cịn chưa đồng đều. Việc thực hiện sự chỉ đạo, điều hành ở một
số đơn vị có lúc chưa nghiêm, còn chậm trễ trong khâu tổ chức thực hiện;
một số ít cán bộ, cơng chức ý thức chấp hành các quy định của pháp luật trong
thực hiện nhiệm vụ, công vụ chưa thực sự cao, chưa chủ động nghiên cứu và
sáng tạo trong cơng việc, vẫn cịn tình trạng ỷ lại, chưa phát huy được năng
lực, trách nhiệm của mình trong thực thi nhiệm vụ, chưa sử dụng có hiệu
quả thời gian làm việc, chấp hành thời giờ làm việc chưa nghiêm túc, đi
muộn về sớm, sử dụng đồ uống có cồn trong giao lưu, tiếp khách; hút thuốc,
chơi game trong giờ làm việc. Trong các hoạt động thực thi công vụ, một số
CBCC vẫn chưa thực sự thể hiện sự nhiệt tình, chu đáo, tận tâm phục vụ
nhân nhân trong các hoạt động liên quan đến quyền và lợi ích của người dân,
cịn thể hiện sự máy móc trong giải quyết cơng việc, chưa thực sự xuất phát
từ nhu cầu, lợi ích chính đáng của người dân.
Nguyên nhân.
Xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập kinh tế quốc
tế, đòi hỏi phải nâng cao trách nhiệm chính trị trong từng vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của mỗi CBCC ngành tư pháp nói chung ngành tư pháp tỉnh Lạng
Sơn nói riêng ln là một vần đề hết sức quan trọng và cần thiết, nâng cao ý
thức trách nhiệm công vụ của CBCC, rèn luyện kỹ năng đối với người lãnh
đạo, quản lý với tư cách là những con người chính trị, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Từ những lý do như trên, em chọn đề tài "Trách nhiệm chính trị của
cán bộ, cơng chức ngành Tư pháp từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn"để nghiên
cứu viết luận văn Thạc sỹ Chính trị học.
7



2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực hiện Luật Cán bộ, công chức ngày 13 tháng 11 năm 2008 và các
văn bản hướng dẫn thi hành.
Để nâng cao trách nhiệm chính trị trong từng vị trí cơng tác của
CBCC toàn ngành Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành:
1. Quyết định phê duyệt Đề án tổng rà soát đội ngũ CBCC viên chức
ngành Tư pháp ngày 31/5/2011;
2. Quyết định số 2659/QĐ-BTP ngày 03/10/2012 về việc ban hành Chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp;
3. Chỉ thị số 02/CT-BTTP ngày 25/3/2013 về việc cán bộ, công chức, viên
chức (CB,CC,VC) ngành Tư pháp không uống rượu, bia trong ngày làm việc;
4. Đề án tổng rà soát đội ngũ CBCC viên chức ngành tư pháp;
5. Đề cương Báo cáo rà soát đội ngũ CBCC các cơ quan tư pháp và cơ
quan thi hành án đân sự địa phương;
6. Giải pháp, đề xuất, kiến nghị tăng cường, năng lực cho đội ngũ cán
bộ tư pháp địa phương;
7. Đề cương Báo cáo rà soát đội ngũ cán bộ các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp;
8. Kiến nghị tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ Tư pháp địa phương.
Các văn bản, Đề án trên đã được triển khai tồn diện, có những đề tài
đã được nghiệm thu và đưa vào áp dụng trong thực tiễn TNCT của CBCC
tồn ngành, đã có những cơng trình khoa học và tài liệu nghiên cứu về con
người chính trị được cơng nhận.
Tuy nhiên, các đề tài cũng mang tính tổng quan trong phạm vi cả nước.
Ở đây, từ vấn đề lý luận và thực tiễn, dưới góc độ TNCT của CBCC trong
một ngành (ngành Tư pháp), một cấp chính quyền (cấp tỉnh) tỉnh Lạng Sơn.
Để từng bước nâng cao hơn nữa TNCT của CBCC ngành Tư pháp tỉnh Lạng
Sơn, bản thân em thấy đây là vần đề hết sức cần thiết và phức tạp mà một số
Đề tài đã đề cấp đến nhưng trong phạm vi cả nước. Do vậy khi lựa chọn đề tài
bản thân vẫn cịn nhiều trăn trở để tìm tịi một số luận điểm về lý luận cũng
8



như thực tiễn về con người chính trị cũng như TNCT, trách nhiệm công vụ
của CBCC ngành tư pháp làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là phân tích cơ sở lý luận về con người chính trị,
đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp đảm bảo con người chính
trị cũng như TNCT, trách nhiệm công vụ của CBCC ngành tư pháp hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ khái niệm, vai trị, ngun tắc, nội dung
của con người chính trị, trách nhiệm chính trị của CBCC ngành tư pháp tỉnh
Lạng Sơn.
- Đánh giá về thực trạng con người chính trị cũng như TNCT, trách
nhiệm công vụ của CBCC ngành tư pháp tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện
nay. Trong đó tập trung phân tích, đánh giá những ưu điểm, những tồn tại,
hạn chế về việc thực hiện TNCT, trách nhiệm công vụ của CBCC ngành tư
pháp tỉnh Lạng Sơn và rút ra các nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ
quan của những hạn chế.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất các giải pháp cụ thể
có tính khả thi bảo đảm nâng cao chất lượng con người chính trị khi thực hiện
TNCT, trách nhiệm công vụ của CBCC ngành tư pháp tỉnh Lạng Sơn.
4. Đối tượng, Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ Chính trị học, với điều kiện là
cán bộ hoạt động thực tiễn ở cấp tỉnh thuộc lĩnh vực cơ quan Tư pháp, tham
mưu trực tiếp cho UBND tỉnh trong công tác Tư pháp, nên việc nghiên cứu
chủ yếu giới hạn ở phạm vi ngành tư pháp của cấp tỉnh. Người viết luận văn
tập trung vào vấn đề con người chính trị cũng như TNCT, trách nhiệm công
vụ của CBCC ngành tư pháp tỉnh Lạng Sơn hiện nay. Để từ đó, đánh giá một

cách khách quan, tồn diện về tình hình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, công
9


vụ của CBCC ngành tư pháp tỉnh Lạng Sơn; phải xuất phát từ cơ sở lý luận,
bảo đảm đúng quy định của pháp luật hiện hành, trách nhiệm của CBCC gắn
liền với từng vị trí cơng việc và được xét trong từng mối quan hệ công vụ cụ
thể. Ứng với mỗi vị trí cơng vụ, CBCC sẽ có các mối quan hệ và các trách
nhiệm cụ thể khác nhau để xác định rõ các loại trách nhiệm mà CBCC ngành
Tư pháp tỉnh lạng Sơn phải thực hiện. Đảm bảo tính khả thi và phù hợp với
thực tiễn của ngành Tư pháp địa phương. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp
cơ bản để bảo đảm việc thực hiện TNCT của CBCC trong thời gian tới có
hiệu quả cao hơn, bảo đảm hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người chính trị cũng như TNCT,
trách nhiệm cơng vụ của CBCC; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về việc tăng cường TNCT, trách nhiệm công vụ của CBCC Việt Nam XHCN
nói chung cũng như TNCT, trách nhiệm cơng vụ của CBCC ngành Tư pháp
nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn đã áp dụng phương
pháp luận của Triết học Mác-Lênin bao gồm phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể khác như phương pháp tổng
hợp, phân tích, so sánh, lịch sử, thống kê, điều tra, khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của Luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận của Luận văn:
- Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu và vận
dụng các lý thuyết về chính trị học, trong đó là con người chính trị cũng như

TNCT, trách nhiệm công vụ của CBCC.
- Kết quả đánh giá nghiên cứu làm sáng tỏ, minh chứng cho các thuyết
liên quan đến con người chính trị, TNCT, trách nhiệm cơng vụ của CBCC
10


trong Chính trị học, từ đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện TNCT của CBCC ngành
Tư pháp tỉnh Lạng Sơn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc vận
dụng các lý thuyết về TNCT của CBCC để xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn
việc thực hiện TNCT của CBCC ngành Tư pháp tỉnh Lạng Sơn, để từ đó nâng
cao hiệu quả chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị mà mỗi CBCC phải
thực hiện trong từng vị trí, chức năng, cơng vụ của ngành Tư pháp tỉnh trong
những năm tiếp theo.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban
ngành tỉnh cũng như CBCC trong quá trình thực hiện TNCT của mình một
cách hiệu quả trong cơng cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu bởi 3 chương, 8 tiết, khơng tính phần Mở đầu,
Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Cơ sở lý luận về con người chính trị, TNCT của CBCC
ngành Tư pháp nói chung và ngành Tư pháp tỉnh Lạng Sơn.
Chương 2: Thực trạng về con người chính trị, TNCT của CBCC ngành
Tư pháp tỉnh Lạng Sơn.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả TNCT của CBCC
ngành Tư pháp tỉnh Lạng Sơn.
8. Kế hoạch thực hiện đề tài
Từ ngày 09 tháng 6 năm 2015 đến ngày 27 tháng 11 năm 2015


11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ
CÔNG CHỨC NGÀNH TƯ PHÁP
1.1. Quan niệm về trách nhiệm chính trị và trách nhiệm chính trị
của đội ngũ cán bộ, công chức ngành Tư pháp
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm
Khái niệm “trách nhiệm” theo Từ điển tiếng Việt là “Điều phải làm,
phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”; hay “được hiểu là sự ràng buộc
đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm làm đúng đắn, nếu sai trái thì phải
chịu phần hậu quả”; hoặc “là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao
cho, phải bảo đảm làm trịn, nếu kết quả khơng tốt thì phải gánh chịu phần
hậu quả”. Và “trách nhiệm là phải bảo đảm làm tròn những sự việc được giao
cho. Nếu kết quả khơng tốt thì phải gánh chịu hậu quả”.
Với quan niệm như vậy, trong xã hội, bất kỳ ai cũng có trách nhiệm bởi
mỗi người đều có một vị trí nhất định trong các mối quan hệ xã hội, như gia
đình, dịng họ, địa phương, tập thể, tổ chức chính trị - xã hội, cơng dân của
một nước, thành viên của cộng đồng dân tộc và rộng nhất là của nhân loại...
Trong các mối quan hệ đó, trách nhiệm được hình thành trên cơ sở những quy
định của luật pháp, quy chế, thỏa thuận của tập thể, tổ chức, địa phương...
Trách nhiệm cịn được hình thành do dư luận xã hội và bị chi phối bởi dư luận
xã hội.
Theo tác giả: Trách nhiệm = kết quả phải tạo ra là gì, như thế nào và
theo đúng luật. Vậy nếu anh làm việc đúng, nhưng chưa đủ để tạo ra kết quả
u cầu thì chưa gọi là hồn thành trách nhiệm. Hồn thành trách nhiệm/
làm trịn trách nhiệm = tạo ra kết quả như hoặc hơn yêu cầu một cách không
phạm luật[1].

Theo Từ điển Luật học, trách nhiệm công vụ là “trách nhiệm của cán
bộ, công chức nhà nước phải hành động phù hợp với quy định của pháp luật,
12


lựa chọn phương án hành động tối ưu và hợp lý nhất, báo cáo kết quả hoạt
động và gánh chịu những hậu quả do không thực hiện hay thực hiện khơng
đúng các nghĩa vụ của mình. Trách nhiệm cơng vụ là khái niệm thể hiện trên
cả hai khía cạnh: tích cực và tiêu cực. Theo khía cạnh tích cực, trách nhiệm
công vụ thể hiện phạm vi các yêu cầu cụ thể của Nhà nước thông qua các quy
định của pháp luật về nội dung nhiệm vụ và phẩm chất của cán bộ, công chức
khi thực thi công vụ. Trách nhiệm công vụ theo nghĩa tiêu cực là sự gánh chịu
hậu quả pháp lý do không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ. Nội
hàm khái niệm trách nhiệm công vụ còn thể hiện yêu cầu của pháp luật và đạo
đức nghề nghiệp đối với cán bộ, công chức về tính chủ động sáng tạo trong
hoạt động thực thi cơng vụ. Đó là nghĩa vụ phải lựa chọn phương án hành
động tối ưu và hợp lý nhất”, tr 800
Cũng có ý kiến khác cho rằng “Trách nhiệm công vụ là một khái niệm
mang tính chất chính trị, đó là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và
nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và
nhiệm vụ đó. Trách nhiệm trong hoạt động cơng vụ của cơng chức có mối
quan hệ chặt chẽ với kết quả hoạt động cơng vụ”[2].
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức là
phải thực hiện đúng pháp luật và đạt được kết quả tốt nhất, với chi phí thấp
nhất, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, tức là nếu cán bộ, công chức thực
hiện đúng chức trách, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, nhưng chưa tạo
được kết quả theo u cầu thì chưa thể coi là hồn thành trách nhiệm cơng vụ.
Về phương diện chính trị - xã hội, trách nhiệm cơng vụ có mục đích
bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của nhân
dân, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật. Về phương diện pháp luật

- hành chính, trách nhiệm cơng vụ thể hiện u cầu bắt buộc của của chủ thể
quyền lực là Nhân dân (Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân) đối với cơ quan, cá nhân được ủy quyền.
13


Trên phương diện pháp luật, trách nhiệm cơng vụ tích cực là yếu tố
chủ yếu, quan trọng nhất trong việc thực hiện quy phạm pháp luật, pháp chế,
nhưng trên thực tế, trách nhiệm cơng vụ ở khía cạnh tiêu cực lại là vấn đề
được chú ý nhiều hơn. Điều đó được cắt nghĩa bởi tình trạng vi phạm trách
nhiệm cơng vụ nói chung, trong đó có vi phạm pháp luật với các tác hại của
nó ln gây bức xúc trong đời sống xã hội, ảnh hưởng xấu đến hoạt động bình
thường của các quan hệ xã hội.
1.1.2. Trách nhiệm chính trị của cán bộ, công chức
Trong quản lý nhà nước hay cịn gọi là quản lý cơng vụ, trách nhiệm là
một yếu tố khơng thể thiếu của mơ hình quản lý nhà nước, trách nhiệm là sử
dụng đúng thẩm quyền trong các mối quan hệ để tìm ra cách thức, biện pháp
thuận lợi nhất giúp thực thi công việc thành cơng.
Chủ thể trách nhiệm có thể là một cá nhân hay một tổ chức trong hệ
thống hành chính (các cơ quan, tổ chức của chính phủ). Chủ thể cũng có thể
là một cá nhân cụ thể nào đó như nhà quản lý, bộ trưởng hoặc các cơ quan
như quốc hội, tịa án, cơ quan kiểm tốn; những chủ thể này tuy khác nhau
nhưng có chung một điểm là trách nhiệm cơng.
Như vậy, có thể thấy trách nhiệm của CBCC là việc sử dụng đúng thẩm
quyền để thực thi và hoàn thành các cơng việc được giao. Ngồi thực hiện và
hồn thành các công việc được giao, trách nhiệm của CBCC cịn bao gồm cả
trách nhiệm giải trình. Thực hiện trách nhiệm là nghĩa vụ của CBCC. Trách
nhiệm của CBCC gắn liền với từng vị trí cơng việc và được xét trong từng
mối quan hệ công vụ cụ thể. Ứng với mỗi vị trí cơng vụ, CBCC sẽ có các mối

quan hệ và các trách nhiệm cụ thể khác nhau. Chính vì vậy, khi nghiên cứu
trách nhiệm của CBCC phải đặt trong mối quan hệ công vụ cụ thể để xác định
rõ các loại trách nhiệm mà CBCC phải thực hiện. Trách nhiệm của CBCC có
ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả hoạt động của tổ chức. Bởi vì muốn đạt được
hiệu quả trong tổ chức, cần phải phân định rõ trách nhiệm cho CBCC gắn với
các hoạt động mà họ đảm nhận chứ không chỉ trao quyền. Để nâng cao trách
14


nhiệm của CBCC cần phải căn cứ vào vị trí và tính chất cơng việc để xác định
trách nhiệm và phải được cụ thể hóa trong từng mối quan hệ công vụ ở từng
môi trường tổ chức gắn với từng cá nhân CBCC.
Ở nước ta hiện nay, CNCT của CBCC được quy định tại Điều 8, Điều
9, Điều 10 - Luật Cán bộ công chức, quy định nghĩa vụ của CBCC: Đối với
Đảng, Nhà nước và nhân dân: Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và
lợi ích quốc gia; Tơn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; Liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; Chấp
hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước.
Trong thi hành cơng vụ, cán bộ, cơng chức có nghĩa vụ: Thực hiện
đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
được giao; Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy
chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện
hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà
nước; Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành cơng vụ; giữ gìn đồn kết
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm
tài sản nhà nước được giao; Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ
cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản
với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc

thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không
chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực
tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về quyết định của mình; Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật.
Ngồi ra, cơng chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn
phải thực hiện các nghĩa vụ: Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; Kiểm tra,
15


đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức; Tổ chức
thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham
nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Tổ chức thực hiện các quy
định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa cơng sở trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý
có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái ðộ quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, gây phiền hà cho công dân; Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo
thẩm quyền hoặc kiến nghị cõ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức; Các nghĩa vụ khác theo quy định của
pháp luật.
Liên quan đến đạo đức công vụ, cán bộ, cơng chức phải thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư trong hoạt động công vụ và phải tuân thủ
các quy định về văn hóa giao tiếp ở cơng sở và văn hóa giao tiếp với nhân dân
như: phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc,
khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc; không
được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành
công vụ.
Đồng thời, cán bộ, công chức không được: Trốn tránh trách nhiệm,

thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc
tham gia đình cơng; Sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái pháp
luật; Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan
đến công vụ để vụ lợi; Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,
tín ngưỡng, tơn giáo dưới mọi hình thức.
Ngồi ra, cán bộ, cơng chức cịn khơng được làm một số cơng việc liên
quan đến bí mật nhà nước và liên quan đến các việc khác theo quy định của
pháp luật.

16


Đối với cán bộ, công chức vi phạm quy định của pháp luật, tuỳ theo
tính chất, mức độ vi phạm, Luật quy định phải chịu một trong các hình thức
kỷ luật sau:
Đối với cán bộ: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Cách chức; d) Bãi nhiệm.
Đối với công chức: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ bậc lương; d)
Giáng chức; đ) Cách chức; e) Buộc thôi việc.
b) Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định
tại Khoản 2 Điều 10: Người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại có nghĩa vụ
sau đây: a) Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực thông tin, tài liệu có liên
quan đến việc giải quyết bồi thường theo yêu cầu của cơ quan có trách nhiệm
bồi thường hoặc Tịa án;b) Hồn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền
mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; c) Nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
c) Bộ luật Hình sự quy định tại Điều 285:
“1. Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc
trường hợp quy định tại các điều 144 (Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước), 235 (Tội thiếu trách nhiệm trong việc

giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng) và 301 (Tội
thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn) của Bộ luật này, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng,
thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm.
3. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Như vậy, có thể nói, các quy định của pháp luật về trách nhiệm công vụ
của cán bộ, công chức khá đầy đủ, rõ ràng, tuy nhiên theo nghĩa tích cực và
tiêu cực, tức là hậu quả pháp lý do không thực hiện hay thực hiện không đúng
nghĩa vụ của cán bộ, công chức. Tuy nhiên đối với cán bộ, công chức làm
17


việc đúng, nhưng chưa đủ để tạo ra kết quả theo yêu cầu, hoặc làm việc một
cách cầm chừng, làm vừa đủ bổn phận, cốt sao không phạm phải khuyết điểm
hay bệnh “vô cảm” của cán bộ, công chức - đáng tiếc là đang khá phổ biến
hiện nay, tức là chưa hồn thành trách nhiệm cơng vụ, thì chưa có quy định cụ
thể và chế tài xử lý.
Trách nhiệm chính trị được xác lập dựa trên sự tín nhiệm. Và sự bất tín
nhiệm là loại chế tài duy nhất ở đây. Tuy nhiên, đây là loại chế tài mang nặng
tính “xa xỉ”: nó chỉ phát huy tác dụng trong một hệ thống chính trị có lương
tâm. Trách nhiệm chính trị là một loại trách nhiệm rất quan trọng. Bảo đảm
trách nhiệm chính trị là bảo đảm sự trong sạch và vững mạnh của nhà nước
1.2. Cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức là vấn đề cơ bản và quan trọng đối với mọi tổ chức
nhà nước; là yếu tố con người, quyết định năng lực và hiệu quả quản lý đất
nước. Bất cứ nhà nước nào cũng cần xây dựng một đội ngũ cán bộ, công
chức. Cán bộ, công chức bao gồm những người có trình độ, có năng lực quản
lý, có khả năng chun mơn và phẩm chất đạo đức tốt, làm việc nghiêm túc vì

bổn phận của mình trước công vụ. Thiếu đội ngũ này, kỷ cương đất nước sẽ bị
buông lỏng, trật tự xã hội sẽ bị xâm hại, nhà nước khó thực hiện chức năng
quản lý của mình đối với xã hội.
Mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử xã hội, quan niệm về cán bộ, cơng
chức, mang nội dung khác nhau. Do đó, trong thực tế rất khó có một khái
niệm chung về cán bộ, công chức cho tất cả các quốc gia, ở từng thời kỳ phát
triển khác nhau, vậy khái niệm cán bộ, cơng chức của mỗi nước phụ thuộc
vào tính đặc thù của mỗi quốc gia.
1.2.1. Cán bộ
Từ cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta khoảng mấy chục
năm gần đây để chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người
mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân, phục vụ cho
sự nghiệp cao cả giành độc lập, tự do cho dân tộc.
18



×