TIỂU LUẬN:
Quản trị công tác tiêu thụ sản phẩm
và một số giải pháp nhằm nâng cao
công tác tiêu thụ sản phẩm tại công
ty cổ phần xi măng Bím Sơn
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trường đến nay tuy còn mới mẻ nhưng nó đã cuốn hút hầu hết các Doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Từ đây, nhiều Doanh nghiệp đã bắt kịp
được với cơ chế mới và kinh doanh có hiệu quả, tuy nhiên cũng có không ít những
Doanh nghiệp vẫn nằm trong tình trạng làm ăn thua lỗ và đứng trước nguy cơ phá sản.
Bởi trong cơ chế mới các Doanh nghiệp cùng sản xuất hàng hoá, cùng tồn tại cạnh
tranh và bình đẳng với nhau trước pháp luật, đã tạo đà cho nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ bằng sự đào thải những Doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thay thế bằng những Doanh
nghiệp có năng lực, nhạy bén và có khả năng phát triển.
Vậy vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của các Doanh nghiệp sản xuất đó
chính là hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các Doanh nghiệp phải thực
hiện tốt nguyên tắc hạch toán kinh doanh “lấy thu bù chi và có lãi”. Một trong những
khâu ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động sx kinh doanh của Doanh nghiệp là
khâu tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, Doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm là để tiêu thụ và hoạt động đó diễn ra trên thị trường ngày càng có sự cạnh tranh
gay gắt, quyết liệt. Vì vậy, làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ giúp Doanh nghiệp có
nguồn tài chính để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh vòng
quay của vốn và đem lại hiệu quả kinh doanh cao. Đồng thời, qua đó cũng tạo điều
kiện cho nền kinh tế tăng trưởng, phát triển và hội nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Xuất phát từ quan điểm này, trong thời gian được về thực tập tại Công ty cổ
phần xi măng Bỉm Sơn, tôi đã cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu về công tác tiêu thụ sản
phẩm của Công ty thông qua đề tài “Quản trị công tác tiêu thụ sản phẩm và một số
giải pháp nhằm nâng cao công tác tiêu thụ sản phẩm tại công ty cổ phần xi măng
Bím Sơn” .
Chương I: Giới thiệu tổng quát về công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn .
Chương II: Thực trạng công tác tiêu thụ tại công ty cổ phân xi măng Bỉm Sơn
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghi nhăm tăng nhằm đẩy mạnh công
tác tiêu thụ tại công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn .
PHẦN I:
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
XI MĂNG BỈM SƠN .
1. Quá trình hình thành và phát triển .
Cuối thập kỷ 60, cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc đang đi vào
giai đoại ác liệt nhất, thì Đảng và Nhà nước ta đã hoạch định một chiến lược xây dựng,
để ngay sau khi thống nhất nước nhà, dân tộc ta có thể bắt tay ngay vào công cuộc xây
dựng kiến thiết đất nước.Cũng trong thời gian này, với sự giúp đỡ to lớn của nhân dân
Liên-Xô, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định xây dựng một nhà máy sản xuất xi măng
hiện đại, có công suất lớn nhất nước ta tại khu vực Bỉm Sơn, nhằm đáp ứng một phần
nhu cầu xi măng cho công cuộc xây dựng đất nước ngay sau khi kết thúc chiến tranh.
Quá trình hình thành và phát triển:
Đã có rất nhiều địa điểm được khảo sát và có khả năng xây dựng nhà máy xi
măng như: Hoàng Mai (Nghệ An), Bỉm Sơn, Nghi Sơn (Thanh Hoá), Bút Sơn (Nam
Hà)…Nhưng do điều kiện của nước ta lúc đó không đủ sức để xây tất cả các nhà máy
nên Đảng, Chính phủ đã quyết định tập trung xây dựng nhà máy xi măng Bỉm Sơn có
công suất lớn nhất nước ta khi đó nhằm đáp ứng được một phần nhu cầu xi măng cho
công cuộc xây dựng đất nước sau khi thống nhất.
- Giai đoạn 1: Tiến hành công tác khảo sát thăm dò địa chất (1968 - 1975)
Việc thăm dò khảo sát do đoàn Địa chất 306 tiến hành trên phạm vi rộng hàng
chục km
2
. Trong báo cáo cuối cùng về kết quả thăm dò khảo sát địa chất ở Bỉm Sơn,
đoàn Địa chất 306 đã khẳng định: nguồn nguyên liệu ở đây đủ điều kiện để xây dựng
nhà máy xi măng cỡ lớn, có công suất từ 1,5 – 2 triệu tấn / năm.
Đến cuối năm 1975, các tài liệu về xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã
hoàn tất, được Đảng và Chính phủ thông qua lần cuối.
- Giai đoạn 2: Quá trình xây dựng và hoàn thành xây dựng, đưa nhà máy đi vào
sản xuất (1975 – 1985)
Công trình xây dựng Nhà máy xi măng Bỉm Sơn nhận được sự hợp tác và giúp
đỡ to lớn của Liên Xô (cũ). Theo thoả thuận ký kết thì Liên Xô sẽ giúp đỡ cho Việt
Nam toàn bộ dây chuyền công nghệ và trang thiết bị hiện đại, thiết kế kỹ thuật để xây
dựng nhà máy với hai dây chuyền sản xuất có công suất 1,2 triệu tấn / năm.
Ngày 01/10/1974, công việc thi công chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy bắt
đầu. Đến năm 1980, Chính phủ ra quyết định số 334 / BXD – TC CB ngày 04/03/1980
thành lập Nhà máy xi măng Bỉm Sơn.
Tháng 10 năm 1981 , dây chuyền 1 đã được lắp ráp hoàn chỉnh và đến
28/12/1981 những bao xi măng đầu tiên mác P400 nhãn hiệu “Con voi” của Nhà máy
xi măng Bỉm Sơn đã chính thức xuất xưởng.
Từ năm 1982 – 1985, các đơn vị tiếp tục xây lắp các phần còn lại và hoàn chỉnh
nhà máy.
-Giai đoạn 3: Sản xuất kinh doanh, thực hiện cơ chế quản lý mới (1986 - 1990).
Từ năm 1986 – 1990 là giai đoạn nhà máy xi măng Bỉm Sơn chuyển dần từ cơ
chế quản lý cũ sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo nghị quyết Đại hội
Đảng IV. Nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã vượt qua những khó khăn thử thách mới như:
Các dây chuyền sản xuất thiếu nguyên vật liệu, thiếu phụ tùng thay thế, ý thức tổ chức
kỷ luật lao động của công nhân còn lỏng lẻo, tư tưởng bảo thủ trì trệ, tâm lý bao cấp
còn nặng nề,…Những bài học kinh nghiệm và thành công đã nâng cao một bước năng
lực quản lý điều hành, tổ chức lao động sản xuất của nhà máy.
-Giai đoạn 4: Xi măng Bỉm Sơn đổi mới (Từ năm 1991 đến nay)
Tháng 08 năm 1993, Thực hiện chủ trương sản xuất gắn liền với tiêu thụ, ngày
12/8/1993, Bộ Xây Dựng ra quyết định số 366/BXD-TCLĐ hợp nhất Công ty Kinh
doanh Vật tư số 4 và Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, đổi tên thành Công ty Xi măng Bỉm
Sơn, là công ty nhà nước trực thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam với tổng số công
nhân viên là 2864 người, trong đó nhân viên quản lý là 302 người.
Ngày 19/02/2002, được sự đồng ý của Nhà nước và sự chỉ đạo của Tổng công
ty xi măng Việt Nam, Công ty xi măng Bỉm Sơn đã khởi công xây dựng, cải tạo và
hiện đại hoá dây chuyền sản xuất với công suất thiết kế giai đoạn I đạt sản lượng 1,8
triệu tấn xi măng / năm, giai đoạn II đạt sản lượng 2,4 triệu tấn xi măng / năm.
Từ năm 2004 đến nay công ty đang thực hiện tiếp dự án xây dựng nhà máy xi
măng mới công suất 2 triệu tấn sản phẩm/năm.
Từ ngày 01/5/2006 Công ty chuyển đổi thành Công ty cổ phần Xi măng Bỉm
Sơn theo quyết định số 486/QĐ-BXD ngày 23/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng
và đăng kí kinh doanh số 2603000429 do sở KH&ĐT tỉnh Thanh Hóa cấp ngày
01/5/2006. Ngày 20/1/2006 Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn tổ chức bán đấu giá cổ
phần lần đầu tại 2 địa điểm là Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh.
Sau hơn 25 năm hình thành và phát triển với không ít những khó khăn trở ngại,
Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn đã có những bước phát triển vững vàng trong nền
kinh tế thị trường.
Các giải thưởng đã đạt được:
+Từ năm 1988 được cấp dấu chất lượng cấp 1
+Từ năm 1992 đến nay liên tục được Bộ xây dựng và công đoàn ngành tập cờ
chứng nhận sản phẩm chất lượn cao
+ Đạt 12 huy chương vàng tại hội chợ triển lãm quốc tế hàng công nghiệp Việt
Nam tổ chức tại Giảng Võ Hà Nội (từ 1991 -2003, năm 2002 không tham gia)
+Từ 1994 đến nay liên tục được tổng cục TC-ĐL-CL cấp chứng nhận sản
phẩm hợp chuẩn.Các sản phẩm xi măng PCB30,PCB40 và clinker thương phẩm của
công ty đã được công bố tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa và hàng hóa phù hợp tiêu
chuẩn tại chi cục TC-ĐL-CL tỉnh Thanh hóa.
+Ủy ban quốc tế của tổ chức BID có trụ sở tại thủ đô MADRID-Tây Ban Nha
đã có quyết định tặng thưởng “Sao Vàng Quốc Tế” về tinh thần hợp tác và chất lượng
sản phẩm cho công ty.
+Liên tục từ năm 1997 đến nay được người tiêu dùng bình chọn và báo Sài Gòn
tiếp thi cấp chưngd nhận Hàng Việt Nam chất lượng cao.
+Được giải bạc trong giải thưởng chất lượng chất lượng Việt Nam năm 1999.
+Đạt giải quả cầu vàng về chất lượng năm 2003,2004,2005,2006.
+Đạt huy chương vàng tại triển lãm quốc tế về vật liệu xây dựng BUILDMAT
2004.
+Đạt giải vàng(cúp vàng) trong giải thưởng chất lượng Việt Nam năm
2007,2008.
+Nằm trong tốp 100 thương hiệu mạnh của Việt Nam do người tiêu dùng bình
chọn năm 2007
+Được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động thời kì đổi mới.
2. Một số thông tin cơ bản về công ty xi măng bỉm sơn .
Tên Công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN
+ Tên gọi tắt : Công ty xi măng Bỉm Sơn.
+ Tên giao dịch Quốc tế : BIMSON JOINT STOCK COMPANY.
+ Tên viết tắt : BCC.
+ Trụ sở Công ty: Phường Ba Đình-Thị xã Bỉm Sơn-tỉnh Thanh Hóa.
+ Tel/Fax : 037.824.242/037.824.046
+Website: www.ximangbimson.com.vn
+Email:
Ngành nghề kinh doanh:
- Sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu xi măng, clinker
- Sản xuất, kinh doanh các loại vật liệu xây dựng khác.
Vốn điều lệ :
-956.613.970.000 đồng Việt Nam.
-Lượng cổ phiếu đắng kí giao dịch : cổ phiếu thường .
-Khối lượng cổ phiếu giao dịch : 95,661,357 .
-Giá trị đăng kí giao dịch : 956, 613, 970,000.
Người đại diện theo pháp luật của Công ty.
· Chức danh : Giám đốc công ty.
· Họ và tên : Nguyễn Như Khuê.
3. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm
Sơn.
* Khối sản xuất chính
Khối sản xuất chính của Công ty gồm có 6 xưởng sản xuất chính, mỗi xưởng có
nhiệm vụ thực hiện công việc sản xuất theo đúng quy trình công nghệ của Công ty áp
dụng. Mỗi xưởng được giao cho mỗi công việc cụ thể khác nhau theo từng công đoạn
của quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm xi măng cho Công ty.
Xưởng Mỏ nguyên liệu:Là đơn vị sản xuất trực thuộc công ty cổ phần xi măng
Bỉm Sơn có chức năng :quản lý khai thác mỏ của công ty,khai thác,bốc,xúc đá vôi,đá
sét đảm bảo khối lượng và chất lượng theo kế hoạch của công ty giao,nhằm đạt hiệu
quả kinh tế cao.
Xưởng Ô tô vận tải: Có nhiệm vụ tổ chức và sử dụng hợp lý các loại phương
tiện xe, máy để vận chuyển nguyên liệu đã khai thác và vận tải hàng hoá cho sản xuất
kinh doanh của Công ty.
Xưởng Tạo nguyên liệu: Có nhiệm vụ nghiền đá vôi và đất sét tạo ra hỗn hợp
dưới dạng bùn bằng các thiết bị chính là máy đập đá vôi, thiết bị nghiền và các thiết bị
phụ trợ khác.
Xưởng Lò nung: Có nhiệm vụ quản lý thiết bị từ tiếp liệu, lò nung, nghiền than
đến nạp Clinker, tổ chức vận hành đúng quy trình đảm bảo thiết bị hoạt động liên tục,
đồng bộ nhằm tạo ra Clinker có chất lượng cao.
Xưởng Nghiền xi măng: Có nhiệm vụ nghiền hỗn hợp Clinker, thạch cao và các
chất phụ gia khác thành xi măng bột bằng máy nghiền chuyên dùng, máy đập thạch
cao.
Xưởng Đóng bao: Có nhiệm vụ đóng gói xi măng bột đã được sản xuất.
* Khối sản xuất phụ
Khối sản xuất phụ có nhiệm vụ hỗ trợ cho khối sản xuất chính hoàn thành công
việc của mình. Khối sản xuất phụ gồm 5 xưởng với mỗi nhiệm vụ khác nhau như sau:
Xưởng Cơ khí chế tạo: Thực hiện sửa chữa các thiết bị của các đơn vị trong
Công ty, chế tạo một số phụ tùng phục vụ cho công tác sửa chữa và thay thế.
Xưởng Sửa chữa thiết bị: Thực hiện công tác sửa chữa máy móc thiết bị phần
cơ khí thuộc dây chuyền sản xuất của Công ty.
Xưởng sửa chữa công trình cấp thoát-nén khí: Thực hiện công tác sửa chữa các
công trình kiến trúc, xây lót lò nung và làm công tác vệ sinh công nghiệp trong Công
ty.
Xưởng Điện tự động: Tổ chức quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả hệ thống
điện được Công ty giao, đảm bảo vận hành an toàn các thiết bị cung cấp điên của Công
ty.
Xưởng may bao: Cung cấp vỏ bao phục vụ cho đóng bao
* Khối tiêu thụ :
Gồm có 6 chi nhánh và 1 trung tâm tiêu thụ
-Trung tâm tiêu thụ có nhiệm vụ ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm trực tiếp
với công ty , hợp đồng vận tải của công ty với các cá nhân, tập thể bên ngoài để vận
chuyển xi măng đến các địa bàn tiêu thụ, viết hoá đơn kiêm phiếu xuất kho bán xi
măng cho tất cả các đối tượng mua xi măng đầu nguồn, điều độ nguồn hàng hợp lí đến
các địa bàn tại từng thời điểm.
- Các chi nhánh ( Chi nhánh Thái Bình; Chi nhánh Nam Định; Chi nhánh Ninh
Bình; Chi nhánh Thanh Hoá; Chi nhánh Nghệ An và chi nhánh Hà Tĩnh )có nhiệm vụ
bán xi măng trên địa bàn của mình phụ trách, chịu trách nhiệm theo dõi số hàng bán ra
cũng như các chi phí liên quan đến việc bán hàng và theo dõi các đại lý thuộc lĩnh vực
của chi nhánh quản lý.
* Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty:
Tổ chức hoạt động là tổ chức quá trình hoạt động của con người trong sự kết
hợp giữa 3 yếu tố cơ bản của qúa trình lao động (sức lao động, công cụ lao động và đối
tượng lao động) và các mối quan hệ qua lại giữa người lao động với nhau nhằm mục
đích nâng cao năng suất lao động và sử dụng đầy đủ nhất các tư liệu sản xuất đồng
thời thông qua quy trình lao động mà con người được rèn luyện để tiến tới hoàn thiện
mình. Tổ chức lao động có vai trò quan trọng, là cơ sở để sử dụng có hiệu quả các
nguồn tài nguyên của xã hội, là sự khẳng định ý nghĩa của qúa trình sản xuất.
Gồm:
- Đại hội đồng cổ đông :Đại hội đồng cổ đông quyết định tất cả những vấn đề
thuộc về công ty theo pháp luật qui định như: cơ cấu tổ chức sản xuất, qui mô sản xuất
kinh doanh, kế hoạch, nhiệm vụ, cổ tức, phương hướng đầu tư phát triển
-Giám đốc công ty :Là người đại diện theo pháp luật của công ty,là người có
quyền điều hành cao nhất trong công ty.Là người điều hành mọi hoạt động hàng ngày
của công ty và chịu trách nhiệm trước pháp luật của nhà nước và hội đồng quản trị về
việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
- Phó giám đốc phụ trách sản xuất:Đại diện lãnh đạo công ty chịu trách nhiệm
về đảm bảo hệ thống quản lý chất lượng được xây dựng ,duy trì và áp dụng. Chỉ đạo
quản lý trực tiếp các đơn vị :Phòng kỹ thuật sản xuất,điều hành sản xuất,thí ngiệm khu
công nghiệp,kỹ thuật an toàn,cung ứng vật tư thiết bị,các phân xưởng sản xuất chính
- Phó giám đốc cơ điện : giúp giám đốc công ty quản lý chỉ đạo điều hành công
tác cơ điện phục vụ cho quá trình sản xuất ,bảo dưỡng ,sửa chữa máy móc thiết bị
,phương tiện bốc xúc,khai thác,vận chuyển,công tác cung ứng vật tư thiết bị,phụ tùng
phục vụ sửa chữa ,gia công chế tạo.Chỉ đạo quản lý trực tiếp các đơn vị:phòng cơ
khí,năng lượng,các phân xưởng phụ trợ.
- Phó giám đốc nội chính : giúp giám đốc công ty trực tiếp chỉ đạo điều hành
công tác bảo vệ quân sự,phòng cháy chữa cháy,đời sống,văn hóa xã hội,y tế trong
công ty.Trực tiếp quản lý các đơn vị:Phòng bảo vệ ,quân sự,phòng đời sống,quản
trị,trạm y tế công ty.
-Phó giám đốc phụ trách công tác tiêu thụ sản phẩm:Giúp giám đốc công ty
trực tiếp chỉ đạo điều hành công tác thị trường,tổ chức mạng lưới bán hàng,vận tải
hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm nhằm đáp ứng sản xuất kinh doanh của công ty.Trực
tiếp quản lý chỉ đạo các đơn vị:Trung tâm giao dịch tiêu thụ,văn phòng đại diện tại các
tỉnh trong nước và văn phòng đại diện tại nước CHDC nhân dân Lào.
-Phó giám đốc công ty kiêm giám đốc BQL dự án:Chuẩn bị hồ sơ thiết
kế,dựtoán,tổng dự toán xây dựng công trình để chủ đầu tư tổ chức thẩm định phê
duyệt theo quy định.Lập kế hoạch đấu thầu,lập hồ sơ mời thầu cho các gói thầu.
Các phòng ban:
-Phòng tổ chức lao động:Tham mưu cho giám đốc về công tác tổ chức cán bộ
,tổ chức sản xuất kinh doanh,tổ chức lao động,tiền lương,tiền thưởng,định mức lao
động,công tác đào tạo,bồi dưỡng thi đua khen thưởng,kỷ luật.
-Phòng Kinh tế Kế Hoạch: Tham mưu giúp giám đốc công ty định hướng chiến
lược sản xuất kinh doanh.Xây dựng toàn bộ hệ thống kế hoạch thuộc các lĩnh vực
trong công ty,kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kế hoạch đã đề ra.
-Phòng Kế toán thống kê tài chính: Quản lý tài chính và giám sát việc hoạt
động kinh tế tài chính trong công ty.Tổ chức chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế
toán,hạch toán kế toán theo đúng chuẩn mực kinh tế Việt Nam và hoạch toán kinh tế
nội bộ.
-Phòng Thẩm định: Tham mưu giúp giám đốc công ty thẩm định kế hoạch sản
xuất kinh doanh đầu tư xây dựng và kết quả đấu thầu các gói thầu mua bán hàng hóa
của công ty và của dự án thuộc công ty quản lý.
-Phòng Kỹ thuật sản xuất: Quản lý kỹ thuật công nghệ sản xuất xi măng ,đảm
bảo xi măng sản xuất đúng chất lượng theo quy định ,quản lý chặt chẽ các quá trình
sản xuất,quản lý chất lượng sản phẩm,tiến bộ kỹ thuật môi trường, định mức, nguyên,
nhiên vật liệu nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
-Phòng cơ khí:Quản lý kỹ thuật các thiết bị cơ khí,thiết bị xe máy của công
ty,nhằm đảm bảo các máy móc,thiết bị hoạt động an toàn ổn định đạt năng suất,chất
lượng và hiệu quả cao.
-Phòng năng lượng: Quản lý kỹ thuật ,lĩnh vực :điện,điện tự động ,thông
tin,nước,khí nén ,thiết bị lọc bụi của công ty.nhằm đảm bảo các thiết bị an toàn,ổn
định,đạt năng xuất,chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
-Phòng Kỹ thuật an toàn-Vệ sinh lao động:Quản lý, chỉ đạo, giám sát về việc
thực hiện công tác bảo vệ lao động trong công ty nhằm đảm bảo điều kiện an toàn,sức
khỏe và tính mạng người lao động trực tiếp góp phần bảo vệ và phát triển lực lượng
sản xuất và tăng năng suất lao động hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của
công ty.
-Phòng cung ứng vật tư thiết bị: Tham mưu giúp giám đốc công ty tổ chức chỉ
đạo và thực hiện kế hoạch cung ứng vật tư thiết bị, nguyên nhiên vật liệu,phụ tùng
phục vụ sản xuất kinh doanh của công ty.
-Phòng điều hành sản xuất: Thực hiện công tác điều hành sản xuất hàng ngày
và vận hành trung tâm hệ thống thiết bị trong dây chuyền công nghệ sản xuất xi măng
theo phương pháp khô .Điều hành quá trình sản xuất từ khâu khai thác,bốc,xúc,vận
chuyển nguyên liệu đến xuất sản phẩm tiêu thụ,đảm bảo năng suất,chất lượng sản
phẩm,đáp ứng yêu cầu sản phẩm kinh doanh và đạt hiệu quả cao của công ty.
-Phòng Bảo vệ quân sự:Tổ chức và thực hiện công tác bảo vệ tài sản,giữ gìn
trật tự an ninh,phòng chống cháy nổ trong địa bàn sản xuất của công ty,tổ chức xây
dựng lực lượng dân quân tự vệ ,công tác quốc phòng toàn dân của công ty.
-Tổng kho vật tư thiết bị: Thực hiện chức năng :nhập,cấp phát,bảo quản toàn bộ
vật tư thiết bị ,phụ tùng,nguyên nhiên vật liệu,kho tàng phục vụ yêu cầu sản xuất
kinh doanh của công ty.
-Văn phòng công ty: Giúp giám đốc công ty tổng hợp mọi hoạt động có liên
quan đến công ty.Tổ chức thực hiện công tác quản lý hành chính và quan hệ của công
ty với các cơ quan bên ngoài.
-Trạm y tế công ty: Quản lý và chăm sóc sức khỏe ban đầu.Khám chữa
bệnh,phòng chống dịch bệnh,cấp cứu tai nạn lao động cho người lao động và người lao
động theo khả năng chuyên môn và phân cấp của ngành y tế.
-Ban quản lý dự án : Là đơn vị trực thuộc công ty,chịu trách nhiệm quản lý,điều
hành dự án đầu tư xây dựng dây chuyền mới nhà máy xi măng Bỉm Sơn.Ban quản lý
dự án chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư về việc thực hiện nhiệm
vụ,quyền hạn được giao.
Nhìn vào có thể thấy công ty đã phân công trách nhiệm chính cho 5 phó giám
đốc : Mỗi phó giám đốc phụ trách một tổ hợp, phòng ban, phân xưởng có chức năng
tương tự và có liên quan đến nhau . Điều đó chứng tỏ công ty đã có sự nghiên cứu
chấn chỉnh sắp xếp bộ máy quản lý, các đơn vị sản xuất một cách hợp lý để mỗi phó
giám đốc phụ trách một lĩnh vực riêng vừa đảm bảo nắm bắt được tình hình một cách
cụ thể, vừa tránh được sự chồng chéo trong quản lý .
4. Môt số đặc điêm kinh doanh của công ty .
a , Sản phẩm của công ty .
Sản phẩm chính hiện nay Công ty đang sản xuất là xi măng pooclăng hỗn hợp
PCB 30 và PCB 40 theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 6260 năm 1997, xi măng PC 40
theo TCVN 2682 năm 1999 và Clinker thương phẩm theo TCVN 7024 năm 2002. Các
sản phẩm này Công ty đã công bố sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn và chất lượng hàng
hoá tại Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (TC – ĐL – CL) Thanh Hoá và được
Chi cục tiếp nhận. Đặc biệt đối với hai sản phẩm xi măng chủ đạo là PCB 30 và PCB 40 đã
được Trung tâm Chứng nhận Phù hợp Tiêu chuẩn QUACERT thuộc Tổng cục TC – ĐL –
CL cấp chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn.
Quy trình sản xuất của công ty là sản xuất đơn giản kiểu khép kín. Sản phẩm tạo ra trải
qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, Sản phẩm chính của công ty là xi măg PCB 30, PCB
40, Clinker, ximăng lixăng, được sản xuất trên dây chuyền công nghệ đồng bộ, liên
tục.Với chính sách chất lượng nhất quán, sản phẩm xi măng mang nhãn hiệu “Con
Voi” của Công ty đã và đang có uy tín với người tiêu dùng trên thị trường hơn 25 năm
qua Do nhu cầu của thị trường mà hiện tại sản phẩm xi măng PCB 30 đang chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu sản phẩm của Công ty. Định hướng trong thời gian tới Công ty
sẽ sản xuất đại trà chủng loại xi măng PCB 40 pha phụ gia tỷ lệ cao, hạ giá thành sản
phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn Công ty.
b, Tình hình lao động của công ty .
Tình hình lao động của Công ty, được thể hiện qua bảng số liệu ở bảng 1 cho
thấy, số lao động qua các năm (2008 -2010) về tổng số lao động đã giảm đi và đấy là
xu thế tất yếu của bất kỳ doanh nghiệp sản xuất theo xu hướng ngày càng hiện đại,
chuyên môn hoá như CTCP xi măng Bỉm Sơn và có hai đặc điểm chính sau:
Về mặt số lượng, lao động có xu hướng giảm dần qua 3 năm cụ thể: Năm
2008là 2.434 lao động nhưng đến năm 2009chỉ còn là 2.337 lao động, tiếp tục đến
năm 2010 giảm xuống còn 2.325 lao động. Ngược lại, chất lượng lao động không
ngừng tăng cao. Cụ thể là lao động có trình độ trên đại học và đại học tăng liên tục, lao
động chưa qua đào tạo giảm đáng kể (năm 2008 là 347 lao động chiếm 14,26% đến
năm 2010, chỉ còn lại là 218 lao động và chỉ còn chiếm tỉ lệ 9,38%).
Xét theo giới tính: Do đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty là sản xuất các
sản phẩm phục vụ cho xây dựng như xi măng, clinker…nên trong quá trình sản xuất có
nhiều khói, bụi các chất độc cũng như tính chất các công việc là nặng nhọc như điều
khiển máy, bốc vác, vận chuyển nguyên vật liệu, thành phẩm Chính vì vậy, cần phải
có lực lượng lao động có sức khoẻ tốt, có khả năng chống chịu tốt nên nó phù hợp với
nam giới hơn là nữ giới. Còn số lao động nữ chiếm tỷ lệ ít hơn và phần đa số lao động
là nữ giới này hoạt động ở các lĩnh vực văn phòng, văn thư, vệ sinh…. Do đó, trong 3
năm (2008 - 2010) lực lượng lao động nam luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn rất nhiều so
với lao động nữ trong Công ty (trên 70%).
Năm 2008, lao động nam có đến 1942 người tương ứng chiếm 79,79%, lao động
nữ là 492 người, tương ứng là 20,21%. Năm 2009, lao động nam là 1.922, lao động nữ
là 415 người. So với năm 2008, năm 2009 số lao động nam giảm 20 người, tương ứng
giảm 1,03%; lao động nữ giảm 77 người, tương ứng giảm 15,65%. Năm 2010 số lượng
lao động nam tăng 0,36%, tương ứng tăng 7 người; Nhưng số lao động nữ lại tiếp tục
giảm, giảm 4,58% hay giảm 19 người.
Xét theo trình độ chuyên môn: Qua bảng 1 cho thấy, qua 3 năm, lao động có
trình độ đại học và trên đại học tăng nhanh. Nếu năm 2008 là 322 lao động chiếm
13,23% thì năm 2009 tăng lên 31 người, tương ứng tăng 9,635% so với năm 2008.
Đến năm 2010, đội ngũ lao động này tiếp tục tăng lên 22 người, tức là tăng 6,23%.
Đặc biệt, trong năm 2010 này thì so với năm 2009 lao động ở các trình độ như cao
đẳng, công nhân nghề cũng tăng lên. Trong khi đó, thì lao động chưa qua đào tạo giảm
đi một cách đáng kể, giảm 15,83% hay tương ứng giảm 41 người so với năm 2009.
Trình độ chuyên môn của người lao động không ngừng được cải thiện đặc biệt là lao
động có trình độ đại học tăng, chiếm tỷ trọng ngày càng cao, tỉ lệ lao động chưa qua
đào tạo giảm đáng kể, đây là tín hiệu đáng mừng cho doanh nghiệp. Tất cả những biến
động về mặt trình độ chứng tỏ sự quan tâm của ban lãnh đạo tới lực lượng lao động
của Công ty, đã tạo cơ hội cho CBCNV nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề và phát
huy tinh thần không ngừng học tập.
Xét theo tính chất công việc: Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn là một doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng bởi vậy tỷ trọng lao động trực tiếp cao
hơn rất nhiều so với lao động gián tiếp. Năm 2008, số lao động trực tiếp chiếm 75,68%
tương ứng với 1.842 người, lao dộng gián tiếp chỉ chiếm 24,32% tương ứng với 592
người. Năm 2009, lao động trực tiếp của Công ty giảm tương đối nhiều so với năm
2007, giảm 117 người, tương ứng giảm 6,35%. Lao động gián tiếp năm 2009 đang có
xu hướng tăng so với năm 2008, tăng 20 người, tức là tăng 3,38%.
So sánh năm 2010 và năm 2009, số lượng lao động trực tiếp của Công ty tiếp tục
giảm nhưng không giảm mạnh như năm 2009, giảm từ 1.725 người xuống còn 1.694
người, giảm về tuyệt đối 31 người, về tương đối giảm 1,80%.
BẢNG 1: TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUA 3 NĂM 2008-2010
ĐVT: Người
Chỉ tiêu
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
So sánh
2009/2008 2010/2009
SL % SL % SL % +/-
%tăng
giảm
+/-
%tăng
giảm
Tổng LĐ 2.434
100
2.337
100
2.325
100
-97
-3,99
-12
-0,51
1.Phân theo giới tính
- Nam 1.942
79,79
1.922
82,24
1.929
82,97
-20
-1,03
7
0,36
- Nữ 492
20,21
415
17,76
396
17,03
-77
-15,65
-19
-4,58
2. Phân theo trình độ
- Đại học và trên đại học 322
13,23
353
15,10
375
16,13
31
9,63
22
6,23
- Cao đẳng 134
5,51
106
4,54
119
5,12
-28
-20,90
13
12,26
- Trung cấp 312
12,82
322
11,94
261
11,23
10
3,21
-61
-18,94
- Công nhân nghề 1.319
54,19
1.298
55,54
1.352
58,15
-21
-1,59
54
4,16
- Chưa qua đào tạo 347
14,25
259
12,88
218
9,38
-88
-25,36
-41
-15,83
3. Phân theo tính chất
- LĐ trực tiếp 1.842
75,68
1.725
75,87
1.694
76,09
-117
-6,35
-31
-1,80
- LĐ gián tiếp 592
24,32
612
24,13
631
23,91
20
3,38
19
3,10
(Nguồn: Phòng tổ chức lao động - CTCP xi măng Bỉm Sơn)
c, Tình hình cơ sở vật chất của công ty .
Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vật
liệu xây dựng nên vấn đề CSVCKT luôn được coi trọng, quan tâm hàng đầu. Đặc
biệt là máy móc, trang thiết bị sản xuất. Bảng 2, phản ánh tình hình cơ sở vật chất
kỹ thuật của Công ty qua 3 năm (2008- 2010).
Nhìn chung, qua 3 năm tổng giá trị CSVCKT của Công ty đều tăng với tốc
độ tương đối cao. Năm 2009, tăng 1,18% hay tăng 21,03 tỷ đồng so với năm 2008
và đạt 1.796,83 tỷ đồng. Và đến năm 2010 tăng 4,95% hay tăng tương ứng 88,97 tỷ
đồng, đạt 1.885,80 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ, Công ty luôn chú trọng trong việc
đầu tư tài sản cố định để phục vụ một cách tốt nhất cho quá trình sản xuất kinh
doanh nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế của Công ty;
đồng thời đáp ứng nhu cầu về sản phẩm ngày càng cao của người tiêu dùng.
Máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng giá trị cơ sở vật chất kỹ
thuật (trên 70%) của Công ty, cụ thể là: Năm 2008, giá trị máy móc thiết bị là
1.287,79 tỷ đồng hay chiếm 72,52%, năm 2010 là 1.338,66 tỷ đồng hay chiếm
70,99%. Qua 3 năm giá trị máy móc thiết bị đều tăng: năm 2009 so với năm 2008
tăng 0,42% hay tương ứng tăng 5,46 tỷ đồng; Và năm 2010 tăng 3,51% hay tăng
45,41 tỷ đồng so với năm 2009.
Hàng năm Công ty đều cải thiện hoặc nâng cấp khu vực nhà làm việc,
nhà xưởng phù hợp với việc mở rộng quy mô sản xuất đồng thời cải thiện hơn môi
trường làm việc cho cán bộ công nhân viên. Năm 2010, giá trị nhà cửa vật kiến trúc
của Công ty đạt 383,10 tỷ đồng, tăng 16,62 tỷ đồng hay tăng tương ứng là 4,54% so
với năm 2009.
Trong 3 năm qua Công ty cũng đầu tư nhiều vào phương tiện vận tải. Năm
2009, giá trị phương tiện vận tải đạt 119,51 tỷ đồng, tăng 8,02% hay tăng 8,87 tỷ
đồng so với năm 2008. Và đặc biệt năm 2010, giá trị phương tiện vận tải tăng rất
nhiều so với năm 2009, tăng 17,37% hay tăng 20,76 tỷ đồng. Có sự tăng mạnh về
phương tiện vận tải như vậy là Công ty đã đầu tư mua thêm ô tô tải để vận chuyển
nguyên vật liệu.
BẢNG 2: CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT CỦA CÔNG TY QUA 3 NĂM 2008- 2010
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
So sánh
2009/2008 2010/2009
GT % GT % GT % +/-
% tăng,
giảm
+/-
%tăng,
giảm
Tổng 1.775,80
100 1.796,83
100 1.885,80
100 21,03 1,18 88,97 4,95
1.Nhà cửa, vật kiến
trúc
363,64 20,48 366,48 20,40 383,10 20,31 2,84 0,78 16,62 4,54
2. Máy móc thiết bị 1.287,79
72,52 1.293,25
71,97 1.338,66
70,99 5,46 0,42 45,41 3,51
3. Phương tiện vận tải
truyền dẫn
110,64 6,23 119,51 6,65 140,27 7,44 8,87 8,02 20,76 17,37
4. Thiết bị dụng cụ
quản lý
13,62 0,77 14,60 0,81 15,99 0,85 0,98 7,20 1,39 9,52
5. TSCĐ hữu hình
khác
0,11 0,01 2,99 0,17 7,78 0,41 2,88 2.618,18
4,79 160,20
(Nguồn: Phòng Kế toán- thống kê- tài chính của Công ty)
d, Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty nhưng năm gần đây .
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một trong những chỉ tiêu đánh giá
hoạt động của doanh nghiệp, nó cho biết doanh nghiệp đó hoạt động có hiệu quả
hay không, bởi kết quả SXKD phản ánh năng lực hoạt động của công ty, khả năng
phát triển của công ty trong tương lai. Biểu hiện của kết quả kinh doanh là chỉ tiêu
doanh thu và lợi nhuận. Nhìn chung, những năm gần đây, hoạt động SXKD của
CTCP xi măng Bỉm Sơn đã mang lại kết quả tốt, lợi nhuận tăng lên qua 3 năm
(2008- 2010), góp phần to lớn vào ngân sách Nhà nước, nâng cao đời sống cán bộ,
công nhân viên trong Công ty.
Tổng doanh thu của Công ty tăng qua các năm, cụ thể: năm 2008, tổng doanh
thu của Công ty đạt 1.556,89 tỷ đồng; Năm 2009 tăng 1.957,81 tỷ đồng, tức là tăng
400,92 tỷ đồng, tương ứng tăng 25,75%; Đến năm 2010 tiếp tục tăng và đạt
2.131,55 tỷ đồng, tức là tăng về tuyệt đối là 173,74 tỷ đồng, về tương đối tăng
8,87%.
Cùng với sự tăng lên của doanh thu thì chi phí của Công ty cũng không ngừng
tăng lên. Năm 2008 , tổng chi phí là 1.422,40 tỷ đồng, sang năm 2009 tăng 22,54%
hay tăng 320,65 tỷ đồng, năm 2010 tốc độ tăng của chi phí ít hơn, tăng 8,08% hay
tăng 140,85 tỷ đồng.
Qua 3 năm lợi nhuận sau thuế của Công ty biến động theo chiều hướng tăng
dần. So sánh năm 2009 và năm 2008, tăng từ 134,49 tỷ đồng lên 214,76 tỷ đồng, về
tuyệt đối tăng 80,27 tỷ đồng, tương ứng tăng về tương đối là 59,68%. Công ty cổ
phần xi măng Bỉm Sơn đã chuyển sang hoạt động kinh doanh theo hình thức công
ty cổ phần từ ngày 01/05/2006 do đó Công ty được miễn thuế thu nhập doanh
nghiệp trong nhưng năm hoạt động đầu tiên sau khi thực hiện cổ phần hóa nên lợi
nhuận sau thuế của Công ty tăng mạnh. Điều này thể hiện những thành tích đáng
ghi nhận của Công ty trong giai đoạn bước đầu cổ phần hoá.
Năm 2010, lợi nhuận sau thuế của Công ty tăng đạt 229,36 tỷ đồng, tức là
tăng 14,60 tỷ đồng, tương ứng tăng trên 6,80%. Năm 2010, Công ty không được
miễn thuế thu nhập nữa tuy vậy, Công ty luôn cố gắng tiết kiệm chi phí, giảm tỷ lệ
phế liệu, tăng doanh thu bán hàng và vẫn đảm bảo lợi nhuận sau thuế ngày càng
được nâng cao.
Trong điều kiện nền kinh tế khủng hoảng, Công ty vẫn duy trì và phát triển
tốt hoạt động SXKD đạt được những kết quả và hiệu quả kinh doanh đáng ghi
nhận, cho thấy năng lực của ban lãnh đạo cùng toàn thể công nhân viên trong Công
ty là đáng ghi nhận.
BẢNG 3: KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA
CÔNG TY QUA 3 NĂM (2008- 2010)
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
so sánh
2
009/2008
2010/2009
tuy
ệt
đối
%tăng,
giảm
tuy
ệt
đối
%tăng,
giảm
1. Tổng doanh
thu 1.556,89
1.957,81
2.131,55
400,92
25,75
173,74
8,87
2.Tổng chi phí 1.422,40
1.743,05
1.883,90
320,65
22,54
140,85
8,08
3.Lợi nhuận
trước thuế 134,49
214,76
247,65
80,27
59,68
32,89
15,31
4.Thuế TNDN 0
0
18,29
0
0
18,29
0
5.Lợi nhuận sau
thuế 134,49
214,76
229,36
80,27
59,68
14,60
6,80
(Nguồn: Phòng kế toán - thống kê - tài chính của Công ty)
e, Phân tích tài chính của công ty nhưng năm gần đây .
Vốn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp nên trong
quá trình SXKD doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến nguồn vốn và cơ cấu của
nguồn vốn để từ đó có các giải pháp và sử dụng vốn kinh doanh tốt đảm bảo đạt
hiệu quả kinh tế cao.
Qua bảng 4, ta thấy tình hình tài chính của Công ty qua 3 năm (2008-2010)
có sự biến động đáng kể, tổng vốn của Công ty không ngừng tăng lên, cụ thể: năm
2008 tổng vốn của Công ty là 2.082,02 tỷ đồng thì đến năm 2009 con số này tăng
lên đạt 3.485,78 tỷ đồng, tăng 67,42% hay tăng tương ứng là 1.403,76 tỷ đồng.
Sang đến năm 2010, tổng số vốn tiếp tục tăng so với năm 2009, tăng 41,15%
hay tăng 1.434,34 tỷ đồng. Để đánh giá một cách chính xác hơn về biến động tình
hình tài chính của Công ty chúng ta xem xét theo các chỉ tiêu sau:
Xét theo tính chất: gồm vốn cố định và vốn lưu động, trong cơ cấu nguồn
vốn của Công ty ta thấy rằng tỷ trọng VLĐ và VCĐ có sự thay đổi qua các năm,
biểu hiện là năm 2008 VLĐ của Công ty chiếm tỷ trọng 46,34% và VCĐ là
53,66%; Nhưng sang năm 2009 kết cấu VLĐ và VCĐ của Công ty đã có sự thay
đổi, trong đó VLĐ lại chiếm tỷ trọng lớn hơn VCĐ, thể hiện VLĐ chiếm tỷ trọng là
57,14% và VCĐ chiếm 42,86%, đã có sự chuyển dịch cơ cấu VLĐ và VCĐ.
Năm 2009 so với năm 2008 VLĐ và VCĐ của Công ty đều tăng, tuy nhiên
VLĐ tăng mạnh hơn, cụ thể VLĐ tăng 106,29% hay tăng 1.026,81 tỷ đồng, tức đạt
1.991,64 tỷ đồng; Còn VCĐ tăng 33,74% hay tăng 376,95 tỷ đồng, tức đạt 1.494,14
tỷ đồng; Năm 2009 có sự tăng nhanh của VLĐ như vậy là do Công ty mở rộng quy
mô sản xuất, số lượng sản phẩm sản xuất ra nhiều làm cho VLĐ tăng nhanh, và trong
năm này Công ty đã đầu tư mua thêm máy móc, thiết bị phụ vụ cho dây chuyền sản
xuất mới 2 triệu tấn/ năm để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu
thị trường, đồng thời Công ty cũng đầu tư mua thêm phượng tiện vận tải phục vụ việc
vận chuyển, nguyên vật liệu, hàng hoá nên số VCĐ cũng tăng đáng kể.
Sang năm 2010 VLĐ và VCĐ của Công ty tiếp tục tăng với tốc độ tăng cũng
khá mạnh, cụ thể là VCĐ tăng 44,83% hay tăng 669,86 tỷ đồng; VLĐ tăng 38,38%
hay tăng 764,48 tỷ đồng so với năm 2009. Có sự tăng lên của VCĐ là do Công ty đã
đầu tư mua thêm tài sản cố đinh, máy móc thiết bị để chuẩn bị cho việc đưa dây
chuyền sản xuất mới đi vào hoạt động. Đồng thời Công ty tiếp tục mở rộng thêm
quy mô sản xuất nên số VLĐ cũng tăng lên đáng kể.
Xét theo cơ cấu nguồn vốn: vốn của Công ty hình thành từ 2 nguồn: vốn chủ
sở hữu và nợ (nợ ngắn hạn và nợ dài hạn). Qua bảng số liệu ta thấy, nguồn vốn chủ
sở hữu của Công ty luôn chiếm tỷ trọng thấp hơn các khoản nợ, cụ thể: năm 2008,
nguồn vốn chủ sở hữu chiếm 47,84%, các khoản nợ chiếm 52,16%, sang năm 2009
cơ cấu nguồn vốn lại thay đổi mạnh, VCSH chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ 31,62%, các
khoản nợ chiếm 68,38%. Và đến năm 2010, cơ cấu VCSH lại tiếp tục giảm trong
tổng nguồn vốn của Công ty và các khoản nợ phải trả chiếm tới 74,89% trong tổng
nguồn vốn.
Nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ đều không ngừng tăng qua các năm.
Cụ thể, so với năm 2008 thì năm 2009, nguồn VCSH tăng 10,67% hay tăng tương
ứng là 106,29 tỷ đồng. Điều này cho thấy Công ty có khả năng tự tài trợ về mặt tài
chính và sẽ chủ động hơn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc tăng
nhanh của nguồn VCSH Công ty còn nhận thêm các khoản nợ, tăng 119,47% hay
tăng 1.297,47 tỷ đồng. Các khoản nợ ngắn hạn và dài hạn đều tăng, trong đó nợ dài
hạn tăng mạnh, tăng 153,85% hay tăng 1.193,62 tỷ đồng. Điều này chứng tỏ Công
ty đang chiếm dụng được một khoản nợ khá lớn. Đó là một điều tốt vì đã lợi dụng
được nguồn vốn bên ngoài trong thời gian dài để sản xuất kinh doanh, tạo lợi nhuận
cho Công ty và hình thành các chiến lược kinh doanh lâu dài. Tuy nhiên, cũng có
nghĩa là yêu cầu thanh toán của Công ty cũng tăng lên, thêm một gánh nặng trong
việc trả nợ, đồng thời cũng làm giảm uy tín của Công ty trên thương trường khi
khách hàng, bạn hàng, cơ quan chủ quản nhà nước nhìn vào kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh thấy khoản nợ rất lớn. Đây cũng là vấn đề lâu dài mà Công ty cần
giải quyết và có biện pháp khắc phục.
Năm 2010, nguồn VCSH và nợ tiếp tục tăng, tuy nhiên tăng nhẹ hơn, không
tăng đột biến như năm 2009. Thể hiện: VCSH tăng 10,46% hay tăng tương ứng
115,29 tỷ đồng, khoản nợ tăng 54,59% hay tăng 1.301,05 tỷ đồng so với năm 2008,
trong đó nợ ngắn hạn và dài hạn cũng tăng lên.
Qua phân tích, ta thấy nguồn vốn của Công ty qua 3 năm đều tăng lên, đặc
biệt là nguồn VCSH bổ sung một lượng khá lớn thể hiện khả năng tự chủ của Công
ty ngày càng được nâng lên. Bên cạnh đó, khả năng huy động vốn ngắn hạn và dài
hạn tăng mạnh nhằm đáp ứng việc mở rộng quy mô SXKD. Cụ thể, vốn bình quân
trên lao động năm 2008 là 0,855 tỷ đồng đến năm 2010 con số này đạt 2,116 tỷ
đồng, tức đã tăng 1,261 tỷ đồng so với năm 2008.
Tóm lại, để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được phát triển
cần phải có chính sách hiệu quả hơn để quản lý các khoản phải thu để tránh tình
trạng bị chiếm dụng vốn, các khoản phải trả tránh tình trạng nợ quá nhiều sẽ gặp
khó khăn trong việc trả nợ. Bên cạnh đó cần có chính sách để quản lý vốn bằng tiền
tốt hơn, để đảm bảo khả năng thanh toán tức thời của Công ty được tốt hơn trong
những thời điểm cần thiết. Mặt khác cũng cần có những biện pháp quản lý vốn cố
định như tài sản cố định, đầu tư trang bị máy móc thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.