Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Giải pháp để tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.78 KB, 97 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Lời mở đầu
Trải qua 55 năm xây dựng và phát triển, ngành ngân hàng đã góp phần to lớn
đưa đất nước Việt Nam phát triển theo đường lối của Đảng và Bác Hồ đã chọn. Từ
nguồn vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng, các ngân
hàng thương mại sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu
vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Có thể nói, ngân hàng thương mại là
chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, là mối liên kết giữa nền tài chính
quốc gia và tài chính quốc tế, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Bước vào quá trình toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần
đây đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đạt từ 8%
trở lên, đời sống nhân dân đang được cải thiện từng ngày, là nơi thu hút vốn đầu tư
của các tổ chức quốc tế. Hòa chung với sự biến đổi của cả nước, ngành ngân hàng
đang tự khẳng định vị thế của mình đối với công cuộc phát triển của đất nước. Sau
gần hai thập kỉ đổi mới, hệ thống ngân hàng nước ta đã tạo lập được những cơ sở
vững chắc để tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng, cống hiện vào sự nghiệp chung của
cả nước. Tuy nhiên, so với các ngân hàng trong khu vực và thế giới thì trình độ các
ngân hàng nước ta chỉ ở mức trung bình, hoạt động còn đơn điệu, công nghệ vẫn còn
lạc hậu, giao dịch thủ công, chưa đồng bộ, khó liên kết với các ngân hàng khác.
Để có thể tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại phải lựa chọn cho
mình con đường đi phù hợp nhất, từng bước khẳng định uy tín và thương hiệu, nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình. Phương pháp tốt nhất giải quyết vấn đề của mình
trong bối cảnh hiện nay là các ngân hàng thương mại phải tăng cường họat động huy
động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước, từ đó có thể
đảm bảo khả năng thanh tóan, phát triển các hoạt động đầu tư và cho vay, nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình.
Cùng với hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, chi nhánh NHNo & PTNT Hà
Nội được thành lập và hoạt động trong bối cảnh khó khăn về nhiều mặt, những ảnh
1
Chuyên đề tốt nghiệp
hưởng to lớn và nặng nề của cơ chế bao cấp để lại. Tuy vậy, trong gần 20 năm qua


chi nhánh NHNN&PTNN HN đã có nhiều cố gắng đặc biệt trong cơ chế thị trường,
phát triển vững chắc, góp phần tích cực vào xây dựng kinh tế Thủ đô cũng như sự
phát triển bền vững của NHNN&PTNN VN.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn huy động trong sự phát triển của
ngân hàng và tính cấp thiết của hoạt động huy động vốn trong thời điểm hiện nay, em
đã chọn đề tài nghiên cứu “Giải pháp để tăng cường huy động vốn tại
NHNN&PTNN Hà Nội”. Đề tài có kết cấu gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
Chương 3: Giải pháp để tăng cường huy động vốn tại chi nhánh ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài, em đã được sự giúp đỡ và chỉ
bảo tận tình của thầy giáo Tiến sỹ Hoàng Xuân Quế, các thầy cô trong khoa Tài chính
Ngân hàng, các cô chú, anh chị trong Chi nhánh NHNN&PTNN Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn !



CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính thực hiện chức năng kinh
doanh tiền tệ. Các NHTM có thể được tổ chức theo nhiều lọai hình khác nhau, chẳng
hạn ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng
liên doanh. Dù dưới bất kỳ hình thức nào, các NHTM luôn đặt lợi nhuận lên hàng
đầu. Để đạt được điều đó, công cụ duy nhất mà các ngân hàng phải có là vốn.

NHTM lấy tiền tệ làm đối tượng kinh doanh. Do đó, vốn của NHTM chủ yếu
phải là vốn bằng tiền. Để có thể hoạt động, ngân hàng phải có một số vốn nhất định
(vốn pháp định), tuy nhiên ngân hàng kinh doanh phần lớn dựa trên số vốn huy động.
Đó là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong qúa trình sản xuất,
phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực
hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng
vốn tiền tệ cho ngân hàng, để rồi ngân hàng phải trả lại cho họ một khỏan thu nhập.
Với số vốn huy động được, các NHTM tiến hành kế hoạch kinh doanh để trang trải
chi phí huy động và tích lũy, phục vụ sự phát triển lâu dài. Có nhiều hình thức sử
dụng vốn với các mức độ sinh lời và rủi ro khác nhau, tùy thuộc vào định hướng
cũng như cách thức thực hiện của từng đơn vị. Và như vậy, ngân hàng đã thực hiện
vai trò tập trung và phân phối lại vốn dứơi hình thức tiền tệ, chuyển vốn từ tay người
tiết kiệm sang những người đầu tư đang rất cần vốn để sản xuất, kinh doanh, làm
tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế
phát triển. Phần lợi nhuận thu về của các ngân hàng chính là phí dịch vụ ngân hàng,
chênh lệch giữa lãi suất tín dụng và lãi suất huy động hay chính là chênh lệch giữa
các khỏan thu và chi của ngân hàng trong một giai đọan nhất định.
Như vậy, nguồn vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập
hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh khác.
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Nguồn vốn đóng một vai trò vô cùng quan trọng, quyết định tới sự sống còn
của các NHTM, là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh; quyết định
quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng; quyết định năng
lực cạnh tranh và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên trường quốc tế. Cơ cấu nguồn
vốn của NHTM có thể được chia thành bốn nhóm cơ bản : Nguồn vốn chủ sở hữu,
nguồn vốn huy động, nguồn đi vay và các nguồn khác.
1.1.1.Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo

lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn
của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng.
Với chức năng bảo vệ, nguồn vốn này được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin đối
với khách hàng, duy trì khả năng thanh tóan trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ.
Nó còn là một căn cứ quyết định đến khả năng và khối lượng huy động của ngân
hàng, qua đó quyết định đến năng lực và thế phát triển của một NHTM.
 Nguồn vốn hình thành ban đầu
Một NHTM muốn bắt đầu hoạt động thì ngân hàng đó phải đáp ứng được yêu
cầu của NHNN về mức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có
để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác với vốn pháp định, vốn điều lệ
lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng
và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Khi ngân hàng bứơc vào hoạt
động thì nguồn vốn này được thể hiện dưới dạng văn phòng, trụ sở, trang thiết bị, dự
trữ…, và ngân hàng không được phép sử dụng vốn này chia lợi tức hay trích lập quỹ
phúc lợi khen thưởng.
Trong nền kinh tế thị trường, với sự gia tăng các lọai hình ngân hàng, vốn điều
lệ cũng được hình thành theo rất nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng từng
hình thức sở hữu. Đối với các ngân hàng tư nhân, đây là vốn sở hữu riêng của doanh
nghiệp và được hình thành sau một quá trình tích tụ, tập trung vốn. Ngược lại, các
4
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng quốc doanh được phép hoạt động trên cơ sở vốn ban đầu do Ngân sách
nhà nứơc cấp. Vốn điều lệ của các ngân hàng cổ phần do các cổ đông đóng góp dưới
hình thức mua cổ phiếu, còn đối với các ngân hàng liên doanh là sự góp vốn của các
ngân hàng trong và ngoài nước.
Theo Nghị định số 141/2006/NĐ- CP ban hành ngày 22 tháng 11 năm 2006
của Chính phủ quy định, mức vốn pháp định đối với NHTM Nhà nước, đầu tư là
3.000 tỷ đồng; các NHTM cổ phần, liên doanh, hợp tác, 100% vốn nước ngoài và
Quỹ tín dụng nhân dân TƯ là 1.000 tỷ (3.000 tỷ vào 2010). Vốn pháp định của chi
nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD…

 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng, vốn điều lện không phải luôn
giũ cố định mà vẫn được bổ sung và tăng dần theo các hình thức: ngân sách nhà nước
cấp thêm, huy động thêm từ các cổ đông, lợi nhuận tích lũy… tùy thuộc vào điều
kiện cụ thể.
 Cổ phần phát hành thêm, ngân sách nhà nước cấp thêm
Để mở rộng quy mô hoạt động, tăng cường khả năng chống đỡ rủi ro các
NHTM cổ phần có thể huy động thêm vốn bằng con đường phát hành thêm cổ phiếu
(có thể là cổ phiếu thường hoặc cổ phiếu ưu đãi), các NHTM thuộc sở hữu nhà nước
có thể xin cấp thêm vốn ngân sách, các ngân hàng tư nhân hay ngân hàng liên doanh
có thể cùng nhau góp thêm vốn.
 Lợi nhuận bổ sung
Khi ngân hàng hoạt động hiệu quả và có lãi, chủ ngân hàng có xu hướng gia
tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ
lện tích lũy tùy thuộc vào khả năng hoạt động cũng như chính sách gia tăng vốn chủ
của mỗi ngân hàng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy
từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
5
Chuyên đề tốt nghiệp
 Các quỹ
Ngòai nguồn vốn hình thành ban đầu, NHTM còn có các quỹ dự trữ, các quỹ
này được coi là nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng và hằng năm được bổ sung từ
lợi nhuận ròng của ngân hàng đó. Tùy theo quy định của từng quốc gia, các ngân
hàng phải thực hiện trích lập các quỹ khác nhau. Thông thường các NHTM phải lập
các quỹ:
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
Quỹ được trích lập theo tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng lợi nhuận ròng (có
mức giới hạn do pháp luật từng nước quy định). Tại Việt Nam, theo quy định, hàng
năm các NHTM được trích lập 5% lợi nhuận sau khi hoàn thành nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp để hình thành quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Mức tối đa của quỹ này

không vượt quá mức vốn điều lệ thực có của NHTM.
 Quỹ đầu tư phát triển
Quỹ đầu tư phát triển dùng để đầu tư mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh
đổi mới công nghệ, trang thiết bị của NHTM. Căn cứ vào nhu cầu đầu tư và khả năng
của quỹ, hội đồng quản trị của NHTM quyết định hình thức và biện pháp đầu tư theo
nguyên tăcc có hiệu quả, an toàn phát triển vốn. Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, hàng năm các NHTM được trích để hình thành quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ
tối đa không quá 50% lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và trừ đi các
khoản trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và bù khỏan lỗ của năm trước đối với
các khỏan lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp…..
 Quỹ dự phòng tài chính
Quỹ dự phòng tài chính được hình thành từ lợi nhuận hàng năm và được dùng
để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình
kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các cá nhân, tổ chức gây
ra tổn thất, của các tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập từ chi phí. Theo
6
Chuyên đề tốt nghiệp
quy định của pháp luật Việt Nam, quỹ này được trích bằng 10% lợi nhuận sau thuế
thu nhập doanh nghiệp và đã trừ đi các khoản phải trừ như trích quỹ đầu tư phát triển,
quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Số dư tối đa của quỹ này bằng 25% vốn điều lệ của
NHTM
Ngòai ra, các NHTM còn có thể trích lập các quỹ sau:
 Quỹ bảo tòan vốn
Khi nền kinh tế có lạm phát, quỹ này nhằm bảo toàn vốn bằng cách tăng quy
mô vốn tự có của ngân hàng. Khi nền kinh tế ổn định, các NHTM có thể không cần
lập quỹ này.
 Quỹ thặng dư vốn
Đối với các NHTM cổ phần trong đợt phát hành cổ phần mới, nếu thị giá của
cổ phiếu mà lớn hơn mệnh giá của cổ phiếu đó thì phần chênh lệch giữa thị giá và
mệnh giá được ngân hàng hạch toán vào quỹ thặng dư vốn.

 Quỹ đánh giá lại
Do giá trị thị trường của các tài sản đặc biệt mà ngân hàng nắm giữ như bất
động sản, chứng khoán… có xu hướng biến động mạnh trong từng thời kì khác nhau
nên quỹ này nhằm ghi chép phần chênh lệch do đánh giá lại giá trị của các tài sản và
nợ của ngân hàng. Dựa vào quỹ này, nhà quản lý ngân hàng có thể theo dõi và đánh
giá giá trị thị trường của nguồn vốn chủ sở hữu.
 Các quỹ khác
Các NHTM còn sử dụng lợi nhuận sau thuế để trích lập các quỹ khác như:
quỹ khen thưởng phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới,
quỹ trợ cấp mất việc làm… Các quỹ này không nhất thiết phải lập, tùy thuộc vào
chính sách của các NHTM trong từng thời kỳ. Khi chúng không được sử dụng, hoặc
sử dụng không hết sẽ bổ sung làm gia tăng vốn chủ.
7
Chuyên đề tốt nghiệp
 Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi thành
vốn cổ phần như trái phiếu có khả năng chuyển đổi có thể được coi là một bộ phận
của vốn chủ sở hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do một số đặc điểm như sử dụng
lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
Nguồn vốn này thực sự là một công cụ hữu hiệu đối với ngân hàng trong việc gia
tăng vốn chủ sở hữu mà lại không làm mất đi quyền kiểm soát của các cổ đông hiện
hữu.
Trong quá trình hoạt động của ngân hàng, nguồn vốn chủ sở hữu mặc dù được
tích lũy tăng lên đáng kể nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 10%) trong cơ cấu
vốn của các NHTM. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu là điều kiện ban đầu để thành lập
ngân hàng, là nguồn tài trợ chính cho xây dựng trụ sở ngân hàng, mua sắm thiết bị.
Đây là cơ sở để đánh giá thực lực và quy mô của một ngân hàng, tạo uy tín cho ngân
hàng và là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Bên cạnh đó, chức năng quan trọng
của vốn chủ sở hữu là chống đỡ rủi ro cho những người gửi tiền. Nguồn vốn chủ sở
hữu càng lớn, ngân hàng càng có nhiều khả năng chống đỡ rủi ro trong giai đoạn

ngân hàng gặp khó khăn. Hơn thế nữa, với vốn chủ sở hữu dồi dào, ngân hàng có thể
đa dạng hóa các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao khả năng thanh khoản. Nguồn vốn
chủ sở hữu thấp hạn chế các ngân hàng tiếp cận với các khách hàng có nhu cầu vay
lớn, hạn chế các ngân hàng mở rộng dịch vu, quy mô hoạt động và gây gánh nặng tài
chính cho các quốc gia khi phá sản. Áp lực của thị trường tài chính quốc tế, áp lực
của hạn chế rủi ro buộc nhiều NHTM phải tăng vốn chủ sở hữu thông qua quá trình
tự tích lũy, phát hành cổ phiếu mới, cổ phần hóa, sáp nhập, lành mạnh hóa tài chính
và hạn chế tổn thất. Như vậy một nguồn vốn chủ sở hữu dồi dào là tiền đề vững
mạnh để có thể mở ra nhiều cơ hội thành công và thế phát triển vững chắc cho các
NHTM.
Xét về dài hạn, vốn chủ sở hữu có liên quan đến khả năng thanh khoản của
8
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng. Do vậy, các cơ quan chức năng kiểm soát ngân hàng luôn quan tâm đến
mức tối thiểu của nguồn vốn này. Rất nhiều các chỉ tiêu hoạt động của ngân hàng bị
ràng buộc bởi vốn chủ sở hữu. Theo Hiệp Định Basel II, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài
sản điều chỉnh qua hệ số rủi ro tối thiểu là 8%. Pháp luật ngân hàng Việt Nam đã xây
dựng các chỉ tiêu an toàn đối với các NHTM dựa trên vốn chủ sở hữu.
- Theo điều 4 Quyết định 457/2002/QĐ- NHNN thì các “Tổ chức tín dụng, trù
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với
tổng tài sản “Có” có điều chỉnh rủi ro.
- Theo quy định của NHNN về quy mô huy động vốn, các tổ chức tín dụng
không được huy động quá 20 lần vốn tự có.
Có được mức vốn chủ sở hữu dồi dào và phù hợp là mục tiêu hàng đầu của
các NHTM trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Trong xu thế cạnh tranh
đó, đối với hoạt động của ngân hàng, các tỷ lệ an toàn ngày càng phải được chú trọng
vì nó là cơ sở để xác định các tiêu chuẩn cạnh tranh hợp lý trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng. Để nâng cao chất lượng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam với nhau
cũng như với các ngân hàng thế giới trước cơn bão của sự thâu tóm, sáp nhập, “cá
lớn nuốt cá bé” thì áp lực về nâng cao nguồn vốn chủ sở hữu thực sự là gay gắt, cấp

bách, cần thiết trong thời đại kinh tế bùng nổ và xu hướng hôi nhập toàn cầu hóa như
hiện nay.
1.1.2.Nguồn tiền gửi
Nguồn tiền gửi của NHTM là giá trị tiền tệ mà các NHTM huy động được từ
các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua nghiệp vụ tiền gửi, thanh
toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Bản chất của nguồn vốn này là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân
hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả
9
Chuyên đề tốt nghiệp
đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn (tiền gửi có kì hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút
vốn (tiền gửi không kì hạn). Tiền gửi đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt
động kinh doanh của NHTM.
Nguồn tiền gửi luôn biến động, nên ngân hàng không được phép sử dụng hết
số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng
thanh toán. Nguồn vốn huy động bao gồm tiền gửi và các nguồn huy động khác.
 Tiền gửi
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng 2004 – sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức
tín dụng 1997 quy định rằng “Tiền gửi là số tiền các tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức
tín dụng hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi
không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi
được hưởng lãi, không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền.”
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi
một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để
giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của
các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng,
chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 60-70%) trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia
tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng
ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác
nhau.

 Tiền gửi không kì hạn
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân gửi vào ngân
hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu
cầu chi trả của đối tượng gửi tiền đều được ngân hàng thực hiện. Với nội dung chi trả
như vậy và việc sử dụng séc để thanh toán nên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn còn
được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán hay tài khoản có thể phát séc. Các khoản thu
bằng tiền của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân đều có thể được nhập vào tiền
10
Chuyên đề tốt nghiệp
gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rấy thấp hoặc
bằng không, thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với
mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng. Thủ tục
mở rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán
trong phạm vi số dư. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài
khoản cho vay (thấu chi- chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một
số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài khoản tiền gửi thanh toán
để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
 Tiền gửi có kì hạn
Nhiều khỏan thu bằng tiền của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cá nhân sẽ được
chi trả sau một thời gian xác định. Vì thế trong một khoảng thời gian nhất định, các
tổ chức, cá nhân này có một khoản tiền nhàn rỗi muốn gửi vào ngân hàng nhằm mục
đích an toàn và gia tăng thu nhập. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt
động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi
tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Người gửi không được sử
dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền
gửi này. Họ chỉ được rút tiền vào thời điểm đáo hạn hoặc yêu cầu ngân hàng cho rút
trước hạn (trường hợp rút trước hạn, khách hàng có thể không được hưởng lãi hoặc
hưởng lãi suất khuyến khích). Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền
gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài
của kì hạn.

 Tiền gửi tiết kiệm
Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của một tầng lớp dân cư chưa sử
dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an
toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt để
tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Trên thực tế, trong nền kinh tế thị
trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai loại hình tiết kiệm: tiền gửi tiết
kiệm không kì hạn và tiền gửi tiết kiệm có kì hạn. Khoản tiền gửi tiết kiệm không kì
11
Chuyên đề tốt nghiệp
hạn là khoản tiền gửi tiết kiệm có thể rút ra bất kì lúc nào song không được sử dụng
các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn là
khoản tiền có sự thỏa thuận về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với
tiền gửi tiết kiệm không kì hạn. Hình thức tiền gửi này được ngân hàng đa dạng hóa
thành các kì hạn với các mức lãi suất tương ứng khác nhau, thỏa mãn tốt nhất yêu cầu
của mọi đối tượng khách hàng. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền gửi tiết kiệm, các
ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt
tại nhà, chấp nhận khách hàng gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, vàng, và khách hàng có
thể dùng sổ tiết kiệm đó để thế chấp vay vốn.
Tóm lại, nguồn tiền gửi là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của các
NHTM. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù phạm
vi sử dụng nguồn tiền gửi của các NHTM bị hạn chế so với vốn chủ sở hữu, song nếu
các ngân hàng sử dụng tốt số vốn này thì không những nguồn lợi của ngân hàng được
tăng mà còn tạo cho ngân hàng có được uy tín ngày càng cao. Qua đó, tạo cho ngân
hàng mở rộng được vốn và góp phần mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
1.1.3.Nguồn vốn đi vay
Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Tuy nhiên, khi các ngân
hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động thì các NHTM sẽ
đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình. Vốn đi vay là quan hệ vay vốn

giữa NHTM với ngân hàng nhà nước, hoặc giữa NHTM với nhau, với các tổ chức tín
dụng khác hoặc vay trên thị trường. Nguồn đi vay mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng nguồn vốn nhưng nó đảm bảo cho ngân hàng hoạt động liên tục, thông
suốt. Theo đối tượng vay, tiền vay được chia thành ba loại bao gồm vay các tổ chức
tín dụng và vay Ngân hàng Nhà nước và vay trên thị trường.
 Vay Ngân hàng Nhà nước (vay Ngân hàng Trung ương)
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Vay Ngân hàng Nhà nước là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách
trong chi trả khi NHTM thiếu hụt dự trữ, thiếu khả năng chi trả hoặc quá kẹt vốn.
Đây là nguồn cứu tinh sau cùng cho các NHTM để tránh vấp phải khủng hoảng tài
chính. Tuy nhiên, việc vay Ngân hàng nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào việc ngân
hàng Nhà nước đang thực hiện chính sách nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ. Khi Ngân
hàng Nhà nước đang hạ lãi suất chiết khấu, nới lỏng cung ứng tiền tệ nhằm kích thích
đầu tư thì các NHTM có thể có nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp. Ngược lại, khi
Ngân hàng Nhà nước muốn thắt chặt cung ứng tiền để chống lạm phát thì việc vay
mượn từ Ngân hàng Nhà nước là rất khó khăn và các NHTM phải cân nhắc kĩ chi phí
huy động, tránh thua lỗ.
Tùy theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay Ngân hàng Nhà
nước được chia thành các loại: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay
tái cấp vốn.
 Vốn vay ngắn hạn bổ sung
Vốn vay ngắn hạn bổ sung là hình thức các NHTM xin vay Ngân hàng Nhà
nước vốn bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức này, các NHTM chỉ được
vay khi còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.
 Vốn vay để thanh toán
Các NHTM vay Ngân hàng Nhà nước nhằm thực hiện công tác thanh toán
giữa các ngân hàng để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (Thời hạn vay loại
này thường ngắn).
 Tái cấp vốn

Ngân hàng Nhà nước cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá là các thương
phiếu. Các thương phiếu này phải là các thương phiếu có chất lượng, tức là phải thỏa
mãn những điều kiện: hợp pháp, hợp lệ, đảm bảo an toàn, thời gian đáo hạn ngắn,
khả năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng. Tái cấp vốn bao gồm hai
13
Chuyên đề tốt nghiệp
hình thức:
- Cho vay tái chiết khấu: Ngân hàng Nhà nước nhận các thương phiếu mà các
NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như trước đây các
NHTM đã làm. Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với các NHTM đã được
giới hạn trong mức cho phép (hạn mức tái chiết khấu) để thực hiện chính sách tiền tệ
của Nhà nước.
- Cho vay có đảm bảo: là hình thức các NHTM đem các thương phiếu đến
Ngân hàng Nhà nước để làm đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá các
chứng từ có giá làm đảm bảo, Ngân hàng Nhà nước sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định
tùy theo sự quản lý của Nhà nước.
 Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín
dụng khác trên thị trường liên ngân hàng do trong quá trình hoạt động, cũng có lúc
các NHTM thiếu hụt dự trữ hoặc thiếu tiền mặt, buộc phải vay mượn các tổ chức tín
dụng khác. Các tổ chức tín dụng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng
bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các
ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang
thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh toán. Như vậy
nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp
bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ
ngân hàng Nhà nước. Quan hệ vay mượn này diễn ra khá thường xuyên nhưng chỉ
trong một thời gian ngắn thường là dưới một tuần hoặc chỉ trong vài ngày do tính
chất của các khoản vay này là đáp ứng nhu cầu trước mắt, hoặc do các NHTM không
muốn lạm dụng hình thức vay mượn này. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân

hàng vay mượn chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân
hàng đại lí (hoặc thông qua Ngân hàng Nhà nước). Khoản vay có thể không cần đảm
bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Các chứng từ cho vay là
hợp đồng tín dụng, giấy nhận Nợ, giấy báo nợ…. Kết quả là dự trữ của ngân hàng
14
Chuyên đề tốt nghiệp
cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên.
Nguồn vốn đi vay tuy chỉ chiếm tỷ trong nhỏ, không phải là kênh cung cấp
vốn chính cho NHTM nhưng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nguồn vốn của
NHTM. Đây chính là phao cứu sinh cuối cùng đối với các ngân hàng, là yếu tố quan
trọng đảm bảo sự phát triển thông suốt và liên tục của các NHTM.
 Vay trên thị trường
Bên cạnh phương thức vay trên, các NHTM còn có thể vay trên thị trường tiền
tệ và thị trường vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu.
Thực chất các nghiệp vụ nàu là ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng việc phát hành
chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền gửi và kỳ phiếu là phiếu nợ ngắn hạn với
mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên
được ngân hàng phát hành từng đợt, tùy theo mục đích với sự chấp thuận của Ngân
hàng Nhà nước hoặc ủy ban chứng khóan nhà nước. Khả năng huy động vốn của thị
trường thông qua việc phát hành phiếu nợ phụ thuộc vào 3 yếu tố: một là, mức độ
chấp nhận của nhân dân; hai là, Ngân hàng Nhà nước có khuyến khích phát hành
phiếu nợ hay không; ba là, hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn vay được. Kênh huy
động vốn này thường không có tài sản đảm bảo. Các ngân hàng lớn, uy tín thì mức
độ ưa thích các phiếu nợ này của dân chúng cũng cao hơn. Trong khi đó, các ngân
hàng nhỏ thường vay gián tiếp thông qua các ngân hàng đaị lý hoặc nhờ sự bảo lãnh
của các ngân hàng lớn.
1.1.4.Các nguồn khác
Do quá trình hoạt động, thanh toán và cung cấp các dịch vụ, nguồn vốn của
NHTM còn bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và tiền khác.
 Nguồn ủy thác

Thông qua nghiệp vụ đại lý, thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho
vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân, thu hộ… các NHTM cũng
thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm
15
Chuyên đề tốt nghiệp
đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự
án đầu tư. Do việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc, nên ngân hàng có
thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh. Khi thực hiện các dịch vụ này,
mạng lưới các NHTM được sử dụng như là kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Do vậy,
vốn hình thành từ nguồn ủy thác thường không mấy chi phí.
 Nguồn trong thanh toán
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản
vốn gọi là vốn trong thanh toán: vốn trên tài khỏan mở thư tín dụng, tài khoản tiền
gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản tiền phong tỏa do ngân hàng chấp nhận
các hối phiếu thương mại… Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khỏan này
nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng nên tạm thời được coi là tiền nhàn rỗi.
 Tiền khác
Bao gồm các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán như lương chưa trả, thuế chưa
nộp…
Lịch sử phát triển của các ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều khủng hoảng
và hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và thế giới, gây tổn thất rất lớn
cho nền kinh tế và mất ổn định chính trị. Các nhà quản lý đã và đang không ngừng
cải tiến chính sách quản lí để hạn chế sự sụp đổ và mở đường cho sự phát triển cho
ngành ngân hàng. Một nội dung lớn trong chính sách quản lý này chính là chính sách
quản lý nguồn vốn của ngân hàng. Một nguồn vốn dồi dào, phù hợp là mục tiêu lớn
của các nhà quản lý ngân hàng, từ đó có thể phát triển hoạt động tín dung và các hoạt
động khác của ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như uy tín của ngân
hàng trong nền kinh tế.
1.2.Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Như đã trình bày ở trên, nguồn vốn huy động là nguồn vốn chính, chiếm tỷ

trọng lớn nhất và chủ yếu trong nguồn vốn của NHTM. Do đó, hoạt động huy động
16
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn là hoạt động chính và có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển của ngân
hàng. Một ngân hàng lớn và có uy tín là ngân hàng có nguồn vốn huy động dồi dào.
1.2.1.Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn
Vốn là những giá trị tiền tệ do doanh nghiệp tạo lập hoặc huy động được, là
biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính
được đầu tư vào các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại, trong
đó chủ yếu là bỏ vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì điều kiện
trước nhất là phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả
năng kinh doanh. Với đặc thù là kinh doanh chủ yếu dựa trên đồng vốn vay mượn
của người khác, nguồn vốn có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống còn của
NHTM
 Vốn là cơ sở để các NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh
doanh. Vốn là điều kiện bắt buộc đối với các NHTM để được phép hoạt động. Ngay
từ khi bước vào hoạt động, các ngân hàng cần vốn để mua đất đai, xây dựng cở sở
vật chất, mua sắm trang thiết bị, và những điều kiện làm việc khác. Và với đặc trưng
của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là
đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Do đó, khi tiến hành hoạt động kinh
doanh, ngân hàng không thể chỉ dựa vào nguồn vốn ban đầu, mà phải thực hiện
nghiệp vụ huy động vốn từ các nguồn khác nhau trên thị trường tiền tệ và thị trường
vốn. Quy mô hoạt động kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào nguồn tài chính của ngân
hàng. Những ngân hàng trường vốn sẽ có thế mạnh trong cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu
của khách hàng tốt hơn, và dễ dàng xâm nhập thị trường hơn. Vốn nhỏ sẽ khiến ngân
hàng dè dặt, không dám mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực mới hay lĩnh vực tiềm
ẩn nhiều rủi ro nhưng mang lại mức lợi nhuận cao. Ngoài nguồn vốn chủ sở hữu ban
đầu là điều kiện để ngân hàng được phép hoạt động, các ngân hàng phải thường

17
Chuyên đề tốt nghiệp
xuyên chăm lo, bổ sung cho nguồn vốn của mình bằng hoạt động huy động vốn trong
suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình.
 Vốn quyết định quy mô của ngân hàng trong hoạt động tín dụng và các
hoạt động khác
Vốn của ngân hàng có tính chất quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp quy
mô hoạt động tín dụng, đầu tư của ngân hàng, khả năng thanh tóan, chi trả cũng như
các họat động khác. Thông thường, so với các ngân hàng lớn, các ngân hàng nhỏ có
khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và đối tượng cho vay của
các ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi đó, các ngân hàng lớn dễ dang mở rộng
phạm vi cho vay, không chỉ trên địa bàn mình mà còn hướng ra khu vực và quốc tế.
Thêm vào đó, do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy
bén được với sự biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút vốn
đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Với nguồn vốn lớn, các ngân
hàng dễ dàng hơn trong việc chủ động quyết định kỳ hạn, lãi suất, thời hạn của các
khoản mục cho vay và đầu tư, phạm vi và khối lượng cũng được nhiều hơn. Vốn có
tầm quan trọng lớn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nền kinh tế nước ta đang
trên đà phát triển, hiện tại và tương lai nhu cầu vốn là rất lớn, nếu các ngân hàng
không dự đoán, điều chỉnh công tác huy động để duy trì nguồn vốn thì có thể bỏ qua
những cơ hội phát triển quý báu.
 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
Như đã trình bày ở trên, phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là nguồn tiền gửi
từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Đặc điểm của nguồn tiền này là hoàn trả khi có yêu
cầu, nên ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với nhu cầu rút tiền của khách hàng.
Vì thế năng lực thanh toán cao là yếu tố các ngân hàng cần phải đảm bảo và luôn
được chú trọng. Vốn khả dụng của ngân hàng càng cao thì khả năng thanh toánn chi
trả của ngân hàng càng lớn. Do đó, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của
ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng nói riêng.
18

Chuyên đề tốt nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt
động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường. Để được coi là có uy
tín trên thị trường, các ngân hàng phải đáp ứng tốt nhất, tức thời các yêu cầu của
khách hàng, trong đó có nhu cầu thanh toán. Nếu ngân hàng không thể thực hiện
ngay, sẽ mất lòng tin của khách hàng, nghiêm trọng hơn, phản ứng dây chuyền lan
truyền trong dân chúng có thể dẫn đến việc rút tiền đồng loạt, ngân hàng mất khả
năng thanh toán, phá sản và có thể gây ra khủng hoảng tài chính.
Vì vây, việc nâng cao hoạt động huy động vốn để tạo ra nguồn vốn lớn trong
ngân hàng đã gián tiếp nâng cao khả năng thanh toán cũng như uy tín của ngân hàng
trên thương trường.
 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, kinh doanh ngân hàng đang là một lĩnh
vực có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Vì thế việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi
ngân hàng đang là vấn đề cấp bách của các nhà quản lý ngân hàng. Trong lĩnh vực
này rất khó có thể tạo ra sự khác biệt về sản phẩm, dịch vụ hay lãi suất. Do đó, để có
thể thu hút khách hàng, ngân hàng phải có một tiềm lực tài chính mạnh và ổn định.
Tiềm lực tài chính mạnh được xây dựng dựa trên một nguồn vốn lớn. Khả năng vốn
lớn là điều kiện để các ngân hàng mở rộng quan hệ tín dụng với tất cả các tổ chức, cá
nhận trong nền kinh tế, vốn lớn tăng quyền chủ động của ngân hàng trong việc thỏa
thuận quy mô, kỳ hạn, thời hạn, thậm chí cả lãi suất. Có như vậy, các ngân hàng mới
có thể mở rộng kinh doanh, tăng thu lợi nhuận, bổ dung làm gia tăng nguồn vốn tự
có. Hơn thế nữa, quy mô vốn lớn sẽ giúp các ngân hàng đa dạng hóa danh mục đầu
tư, có thể góp vốn thành lập các công ty tài chính, mở rộng dịch vụ thuê mua, thành
lập các công ty chứng khoán… Một danh mục đa dạng như vậy sẽ làm tăng thu cho
ngân hàng, phân tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn và tăng sức cạnh
tranh của ngân hàng trên thương trường.
Vốn có vai trò quyết định trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh của
19
Chuyên đề tốt nghiệp

ngân hàng. Để có nguồn vốn lớn, các ngân hàng phải nâng cao hoạt động huy động
vốn của mình kể cả về số lượng lẫn chất lượng. Do đó, để có thể phát triển bền vững
và lâu dài, các ngân hàng phải tự xây dựng cho mình một chiến lược huy động vốn
khả thi, hiệu quả và lâu dài.
1.2.2.Các hình thức huy động vốn
Trong nền kinh tế mở cửa hội nhập hiện nay, để thu hút được nguồn vốn lớn,
các NHTM phải tìm cách đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tối đa nhu cầu và
thỏa mãn mọi mong muốn của khách hàng. Vì thế, theo các tiêu thức khác nhau có
thể phân các hình thức huy động vốn thành các loại khác nhau.
1.2.2.1.Theo đối tượng huy động
 Huy động vốn từ dân cư
Trong nền kinh tế phát triển, đời sống dân cư được nâng cao thì ngoài khỏan
tiền tiêu dùng, các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời nhàn rỗi.
Nhằm mục đích đảm bảo an toàn và sinh lời, họ có thể sử dụng các hình thức đầu tư
như mua vàng, ngoại tệ mạnh, bất động sản, cổ phiếu hay trái phiếu. Các hình thức
này mặc dù mang lại nguồn lợi nhuận cao nhưng lại tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn. Do đó,
trong đại bộ phận dân chúng thì đều chọn hình thức gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng
vừa được đảm bảo an toàn, vừa có thể thu được một khoản lợi tức nhất định. Tùy
thuộc vào nhu cầu sử dụng tiền mặt mà khách hàng có thể lựa chọn các hình thức gửi
tiền khác nhau với các kì hạn khác nhau. Tiền gửi có kỳ hạn mang giá trị cốt lõi là
sinh lời, trong khi đó tiền gửi thanh toán hay tiền gửi không kì hạn lại mang mục đích
phục vụ cho nhu cầu thanh tóan của khách hàng. Đặc tính của loại này là biến động
hơn rất nhiêu so với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn. Do đó, để thu hút nguồn vốn ổn định
trong xã hội, các ngân hàng thường quy đinh mức lãi suất tiền gửi có kì hạn cao hơn
tiền gửi không kỳ hạn.
Đối với nguồn tiền huy động từ dân cư, do nhu cầu sử dụng là khác nhau nên
20
Chuyên đề tốt nghiệp
các NHTM luôn tìm mọi cách để đa dạng hóa nguồn vốn huy động này bằng cách đa
dạng hóa các sản phẩm như rút ngắn kì hạn gửi tiền có thể theo ngày, theo tuần, theo

tháng, lãi suất bậc thang, rút gốc linh hoạt…
 Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng và các tổ
chức khác
Đây là khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng trong và
ngoài nứơc, các tổ chức xã hội khác như cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức
chính trị xã hội… Phần lớn mục đích của nguồn tiền gửi này là nhằm mục tiêu thanh
tóan, hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Bên cạnh đó, còn nhằm mục đích sinh lời đối
với khỏan tiền nhàn rỗi chưa cần sử dụng.
Đối với mục đích gửi tiền để hưởng các dịch vụ thanh tóan, ngân hàng thường
không trả lãi hoặc quy định một tỷ lệ lãi suất rất thấp và khách hàng khi hưởng các
dịch vụ này thì phải trả một khỏan phí dịch vụ nhất định. Do nhu cầu thanh tóan của
các doanh nghiệp là rất lớn nên hình thức huy động vốn này tạo nên một nguồn lớn
trong vốn của ngân hàng.
Đối với những khỏan tiền tạm thời nhàn rỗi và chưa cần dùng đến trong thanh
toán, khách hàng thường lựa chọn hình thức gửi tiết kiệm với mức lãi suất quy đinh
cao hơn nhưng không được hưởng các dịch vụ thanh toán. Khi có nhu cầu sử dụng,
các tổ chức phải cử người đại diện của mình đến ngân hàng để yêu cầu rút tiền.
1.2.2.2.Theo phương thức huy động
 Huy động tiền gửi
 Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và ngân
hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất
thấp hoặc không được trả lãi. Tùy theo mục đích gửi tiền mà người ta phân chia
thành tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy
21
Chuyên đề tốt nghiệp
- Tiền gửi thanh toán: đây là khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân gửi vào ngân hàng trước hết được sử dụng để tiến hành thanh tóan,
chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khỏan chi khác phát sinh trong quá
trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Khi sử dụng các tiện

ích thanh toán, chủ sở hữu tài khỏan phải trả cho ngân hàng một khỏan phí.
Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài
khoản: tài khỏan tiền gửi thanh tóan và tài khỏan vãng lai. Đối với tài khỏan tiền gửi
thanh tóan, việc rút tiền hay chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc
hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích thanh tóan và sử
dụng dễ dàng, thuận tiện đồng vốn khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư
nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng
nhu cầu tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định và trong một giới hạn nhất
định được gọi là hạn mức thấu chi.
- Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: đây là khoản tiền của doanh nghiệp, cá
nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng trong khi chưa có kế hoạch sử dụng cụ thể nhằm
mục đích đảm bảo an toàn tài sản và khi cần có thể sử dụng ngay, không mang tính
chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến ngân hàng rút ra để chi tiêu.
Hình thức gửi tiền này không được ngân hàng cho phép phát hành séc.
Nói chung, tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng phản ánh mối
quan hệ kinh tế, pháp lý giữa ngân hàng với người gửi tiền nên giữa ngân hàng với
người gửi tiền phải tuân thủ quy chế mở và sử dụng tài khoản tiền gửi do Thống đốc
NHNN ban hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đồng thời chủ
tài khoản phải làm thủ tục mở tài khoản và đăng kí mẫu chữ ký của chủ tài khoản đối
với khách hàng là cá nhân, mẫu chữ ký chủ tài khoản và kế toán trưởng, mẫu con dấu
đối với các khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức xã hội tại các ngân hàng mở tài
khoản. Ngân hàng được từ chối thanh toán nếu người gửi tiền vi phạm quy định quản
lý tài khoản thanh toán và chế độ chứng từ kế toán ngân hàng.
22
Chuyên đề tốt nghiệp
Đứng trên góc độ ngân hàng, tiền gửi không kì hạn một khoản nợ mà ngân
hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi
ngân hàng có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh
tóan hay giữa các tài khỏan của các doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất, tạo nên
tồn khoản. Khi đã đảm bảo khả năng thanh toán của mình, ngân hàng có thể sử dụng

tồn khoản vào làm vốn kinh doanh.
 Tiền gửi có kì hạn
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng về
thời gian rút tiền. Loại tiền gửi này của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân, có
nguồn gốc từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi.
Các NHTM nhận hai loại tiền gửi có kỳ hạn là tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi
báo rút (tức là khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền gửi có kì
hạn không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên
tài khoản vãng lai nên không thẻ phát séc. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các
khoản tiền gửi có thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết
kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn
khoản vào kinh doanh. Chính vì vây, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa lọai tiền
gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng
nhu cầu của mọi khách hàng.
 Tiền gửi tiết kiệm
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành theo quyết định số 1160/2004/QĐ-
NHNN của thống đốc ngân hàng Nhà nước đã quy định rõ “ Tiền gửi tiết kiệm là
khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên
thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và
được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”.
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử dụng cho tiêu
dùng. Do đó, họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an toàn và
hưởng lãi. Vì thế, tài khoản tiền gửi không thể phát séc hay thực hiện cácc khoản
thanh toán khác ngoại trừ người gửi tiền đề nghị trích tài khỏan tiền gửi tiết kiệm để
trả nợ vay hay chuyển sang một tài khoản khác của chính chủ tài khoản.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai loại
là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.

- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có
thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ
chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể
rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi
tiết kiệm.
Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn và quan trọng nhất trong tổng
nguồn vốn huy động, nhất là đối với các ngân hàng bán lẻ. Do đó, việc tăng cường
huy động nguồn tiền này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của
NHTM.
 Phát hành giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá là các công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn
trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sự dụng cho một mục đích nào
đó. Các giấy tờ có giá do NHTM phát hành bao gồm kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
tiền gửi.
Theo chuẩn mực kế toán số 16, các doanh nghiệp trong đó có NHTM phát
hành giấy tờ có giá theo ba phương thức là phát hành giấy tờ có giá ngang giá, phái
hành giấy tờ có giá chiết khấu và phát hành giấy tờ có giá phụ trội. Về trả lãi phát
hành giấy tờ có giá thường áp dụng ba hình thức trả lãi là trả lãi trước, trả lãi sau và
24
Chuyên đề tốt nghiệp
trả lãi định kỳ.
Trong hình thức huy động vốn này, ngân hàng phải trả lãi suất cao hơn so với
lãi suất tiền gửi huy động. Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi ngân hàng thiếu vốn
mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Như vậy, khi thực hiện huy động
vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về
khối lượng huy động. mức lãi suất và thời hạn, phương thức huy động. Vốn này chỉ
được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã huy động đủ khối lượng vốn
theo dự kiến, các ngân hàng sẽ ngừng việc huy động (bán) kỳ phiếu, trái phiếu, chứng
chỉ tiền gửi.

1.2.2.3.Theo thời gian huy động
 Ngắn hạn
Các khoản huy động có thời gian dưới 12 tháng được gọi là các khoản huy
động ngắn hạn. Tùy theo chiến lược phát triển cũng như mức độ đa dạng hóa các sản
phẩm tiền gửi của các NHTM mà có thể chia nhỏ các kỳ hạn theo ngày, tuần, tháng,
quý. Đối với khoản tiền gửi này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường cao. Theo quyết định
của thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ
chức tín dụng ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
loại tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng là 11% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt
buộc. Đây là nguồn tiền thường được khách hàng ưa chuộng nên chiếm tỷ trọng cao
trong tổng vốn huy động.
 Trung và dài hạn
Do ngân hàng chủ yếu là cho vay dài hạn nên để nâng cao khả năng thanh
khoản cũng như hạn chế rủi ro lãi suất, các NHTM thường huy động các nguồn tiền
trung hạn (từ 12 tháng đến dưới 60 tháng) và dài hạn (từ 60 tháng trở lên). Do kỳ hạn
dài nên lãi suất chi trả cho nguồn tiền này thường cao. Theo quyết định của thống đốc
ngân hàng Nhà nước về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng
ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có
25

×