Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Ổn định kinh tế vĩ mô và hiệu quả của các chính sách quản lý tổng cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 103 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi
phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.
Tác giả luận văn

Đào Quốc Cƣờng


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành luận văn này, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
PGS.TS Phạm Thế Anh, người đã định hướng cho tác giả đề lựa chọn đề tài
nghiên cứu, đồng thời, nhiệt tình hướng dẫn, tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ, động viên
tác giả trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận văn. Tác giả xin gửi lời
cảm ơn đến Viện Đào tạo Sau đại học, Khoa Kinh tế học, quý Thầy, Cô nhà
trường đã quan tâm và giúp đỡ tác giả trong thời gian học tập và nghiên cứu vừa
qua.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Đào Quốc Cƣờng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ
TĨM TẮT LUẬN VĂN ................................................................................... I


LỜI GIỚI THIỆU........................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CÁC LÝ THUYẾT VỀ CHU KÌ .............................................. 5
KINH TẾ VÀ ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MƠ................................................... 5
1.1. CÁC LÝ THUYếT Về CHU KÌ KINH Tế (NGUYÊN NHÂN GÂY RA CHU KÌ
KINH Tế – BUSINESS CYCLE) ......................................................................... 5

1.1.1. Chu kì kinh tế ................................................................................. 5
1.1.2. Các lý thuyết về chu kì kinh tế....................................................... 10
1.1.3. Đánh giá ổn định kinh tế vĩ mơ ...................................................... 17
1.2. CHÍNH SÁCH ổN ĐịNH KINH Tế VĨ MÔ (STABILIZATION POLICY) .......... 18
1.2.1. Chính sách tài khóa và các cơng cụ của chính sách tài khóa ........... 19
1.2.2. Chính sách tiền tệ và các cơng cụ của chính sách tiền tệ................. 26
1.2.3. Đánh giá hiệu quả của chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và cảnh báo
bất ổn kinh tế vĩ mô ................................................................................ 36
1.3. TổNG QUAN TÀI LIệU............................................................................ 36
CHƢƠNG 2. BIẾN ĐỘNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 – 2016
....................................................................................................................... 40
2.1. TĂNG TRƢởNG KINH Tế VIệT NAM GIAI ĐOạN 2011 - 2016 ................... 40
2.2. LạM PHÁT ở VIệT NAM GIAI ĐOạN 2011 – 2016 .................................... 49
2.3. CHÍNH SÁCH ổN ĐịNH VĨ MÔ ở VIệT NAM GIAI ĐOạN 2011 – 2016 ........ 54
2.3.1. Chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2016 ................. 55


2.3.2. Chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2016 .................... 63
CHƢƠNG 3. MƠ HÌNH TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT VÀ MỨC ĐỘ ỔN
ĐỊNH CỦA TỔNG CẦU TỚI HIỆU QUẢ CỦA CÁC CHÍNH SÁCH ỔN
ĐỊNH KINH TẾ ........................................................................................... 72
3.1. MƠ HÌNH NGHIÊN CứU ......................................................................... 72
3.2. Số LIệU Sử DụNG ................................................................................... 74
3.3. ƢớC LƢợNG VÀ KếT QUả....................................................................... 75

3.4. KếT LUậN ............................................................................................. 78
CHƢƠNG 4. KẾT LUẬN CHUNG ............................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 82
PHỤ LỤC...................................................................................................... 84


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CSTK

Chính sách tài khóa

CSTT

Chính sách tiền tệ

IMF

Quỹ Tiền tệ Quốc tế

NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM

Ngân hàng thương mại

TCTD

Tổ chức tín dụng


USD

Đơla Mỹ

VNĐ

Việt Nam Đồng


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tăng trưởng và cấu trúc tăng trưởng theo ngành kinh tế .................. 41
Bảng 2.2: Tăng trưởng và cấu trúc tăng trưởng xét theo khu vực kinh tế .......... 42
Bảng 2.3: Năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2015 ................ 46
Bảng 2.4: Trung bình( ), độ lệch chuẩn( ) của lạm phát( ) và tăng trưởng( )
trong giai đoạn 2005 – 2015 (%) ..................................................................... 51
Bảng 2.5: Quyền số tính chỉ số hàng tiêu dùng (%) ......................................... 52
Bảng 2.6: Mục tiêu và thực hiện chính sách tiền tệ 2010 – 2015 ...................... 64
Bảng 2.7: Các bước điều chỉnh tỷ giá USD/VND qua hai giai đoạn ................. 68
Bảng 3.1: Kết quả ước lượng .......................................................................... 76


DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Chu kì kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2016. .................................. 6
Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2016 (%).. 40
Hình 2.2: Tỷ lệ VA/GO của các ngành cơng nghiệp ........................................ 45
giai đoạn 2010 – 2015 (%) .............................................................................. 45
Hình 2.3: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2011 – 2015 (%) ....................................... 50
Hình 2.4: Tỷ lệ lạm phát Việt Nam năm 2016 (%)........................................... 53
Hình 2.5: Đóng góp vào lạm phát của các nhóm mặt hàng năm 2016 (%) ........ 54

Hình 2.6: Một số chỉ tiêu vĩ mô và ngân sách nhà nước ................................... 56
giai đoạn 2010 – 2015 .................................................................................... 56
Hình 2.7: So sánh cơ cấu chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 – 2015 (%) .. 60
Hình 2.8: Chênh lệch dự toán – quyết toán ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 –
2014 (tỷ đồng) ................................................................................................ 62
Hình 2.9: Lượng tiền cơ sở và mức tăng trưởng cung tiền từ 2011 – 2015 ....... 70


i

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Chương 1: Các lý thuyết về chu kỳ kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Chu kỳ kinh tế hay chu kỳ kinh doanh được định nghĩa là dao động của các
hoạt động kinh tế trong nước trong một khoảng thời gian nhất định hay ở Việt
Nam chính là sự thay đổi, biến động của giá trị tổng sản phẩm nội địa – GDP.
GDP chính là một trong những thước đo, phản ánh lại các hoạt động kinh tế của
một nước. Được tính bằng tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ
cuối cùng được sản xuất trên lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kì nhất
định. GDP thường được các quốc gia đo bằng hai loại giá, một là GDP đo theo
giá hiện hành (còn gọi là GDP danh nghĩa) và GDP đo theo giá cố định (hay giá
so sánh và còn gọi là GDP thực tế), sự khác nhau giữa các loại GDP này nằm ở
giá cả. Ngoài ra, một số quốc gia tiên tiến hiện còn đưa thêm một dạng thước đo
nữa vào thống kê GDP là thước đo chain-weighted GDP.
Được tạo nên bởi những biến động khơng có quy luật, chưa có các chu kì
kinh tế nào mà hồn tồn trùng lặp hoặc có những biến động như nhau, điều này
khiến cho chu kì kinh tế rất khó để dự báo. Hiện nay vẫn chưa có công thức xác
định hay một phương pháp dự báo nào có thể đưa ra được các phán đốn chính
xác về thời gian, phương hướng xảy ra các biến động của chu kì kinh tế. Việc ở
trong thế bị động đối với các biến động này, khiến cho hầu hết các chủ thể trong
nền kinh tế vĩ mô, ở cả khu vực tư và khu vực cơng đều gặp nhiều khó khăn, hạn

chế, nhất là khi nền kinh tế rơi vào thời kì suy thối. Lúc này, khi nền kinh tế rơi
vào thời kì suy thối, tổng sản lượng sản xuất trong nước sẽ sụt giảm nhanh
chóng, nhiều người khơng có việc làm, tỷ lệ thất nghiệp trên cả nước tăng lên, tất
cả các thị trường từ thị trường hàng hóa, bất động sản, dịch vụ… cho đến thị
trường vốn, ngoại tệ… đều thu hẹp lại. Điều này nnh hưởng trực tiếp đến nền
kinh tế vĩ mô, xã hội theo chiều hướng xấu.


ii

Mỗi một trường phái kinh tế riêng đều có những cách nhận định và đối phó
riêng đối với chu kì kinh tế. Lý thuyết cổ điển mới được dẫn dắt bởi mơ hình
thơng tin khơng hồn hảo của Lucas (1973). Mơ hình khơng tin khơng hồn hảo
Lucas là một mơ hình thể hiện mối quan hệ giữa cung tiền, giá cả và những biến
động về sản lượng, được xét trong một nền kinh tế đơn giản cùng với giả thuyết
về kỳ vọng hợp lý. Mơ hình này cũng đưa ra một cách giải thích khác từ đường
cong Phillips trong mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát.
Về trường phái Keynes mới, một nghiên cứu năm 1988 của Ball, Mankiw và
Romer gọi tắt là BMR (1988) đã xây dựng một mơ hình hồi quy động theo
trường phái Keynes mới, trong mơ hình này thì các doanh nghiệp và cá thể hồn
tồn có thể kiểm sốt được giá cả sản phẩm của chính họ trên thị trường cạnh
tranh khơng hồn hảo, lý thuyết này được xây dựng nhằm thay thế cho lý thuyết
của Lucas. Chi phí điều chỉnh giá (hay cịn gọi là chi phí thực đơn) đã khiến cho
các doanh nghiệp và cá nhân tham gia thị trường chỉ có thể thực hiện việc thay
đổi giá bán của họ với những khoảng thời gian giãn cách nhất định chứ không
thể thực hiện điều này liên tục. Tốc độ điều chỉnh giá được xử lý nội sinh, tức là
nó sẽ phụ thuộc vào tần suất điều chỉnh giá của từng doanh nghiệp và cá nhân
riêng lẻ, tần suất sẽ được xác định dựa trên nguyên tắc tối đa hóa lợi nhận. Chính
khoảng thời gian giãn cách giữa các lần thay đổi giá sẽ làm cho các cú sốc tổng
cầu danh nghĩa sẽ có hiệu ứng thực đối với sản lượng. Một trong những dự đốn

chính của mơ hình này đó là tác động thực đến sản lượng của các cú sốc tổng cầu
sẽ phụ thuộc vào lạm phát trung bình, khi lạm phát trung bình lớn thì tác động
của các cú sốc tổng cầu sẽ nhỏ. Hiệu ứng này sẽ phụ thuộc vào khoảng thời gian
giãn cách giữa các lần thay đổi giá, lạm phát trung bình cao sẽ làm cho các
doanh nghiệp và cá nhân tham giá tren thị trường thực hiện việc điều chính giá
và tiền lương thường xuyên hơn và do vậy làm giảm đi hiệu quả của các cú sốc
cầu hay các chính sách kích cầu của chính phủ.


iii

Ngồi ra cịn có những trường phái kinh tế học khác, như trường phái kinh tế
học trong cung có các lý thuyết đi ngược lại so với trường phải Keynes, các nhà
kinh tế học này cho rằng giá cả trên thị trường là linh hoạt và giá cả sẽ dẫn dắt
nền kinh tế hoạt động tại mức sản lượng tiềm năng của nền kinh tế mà không cần
sự quản lý của chính phủ. Những tác động, can thiệp của chính phủ vào nhằm
giảm sự biến động của thị trường sẽ gây ra chu kỳ kinh tế và làm tồi tệ thêm chứ
khơng phải làm tình hình thị trường tốt lên. Hay như Lý thuyết tiền tệ: cho rằng
chu kì kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của chính sách tiền tệ và tín dụng.
Mơ hình gia tốc - số nhân: do Paul Samuelson đưa ra, mơ hình này cho rằng các
biến động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc
trong đầu tư tạo ra những dao động có tính chu kì của GDP. Lý thuyết chính trị:
quy cho các chính trị gia là ngun nhân gây ra chu kì kinh tế vì họ hướng các
chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử. Lý thuyết chu kì kinh doanh
cân bằng: phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận động của giá cả, tiền
lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc q ít dẫn đến các chu kì
của sản lượng và việc làm. Lý thuyết chu kì kinh doanh thực tế: lập luận rằng
những biến động tích cực hay tiêu cực về năng suất lao động trong một khu vực
có thể lan tỏa trong nền kinh tế và gây ra những dao động có tính chu kì. Tuy
vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, khơng có lý thuyết nào

tỏ ra đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi.
Phần tiếp theo của chương một đưa ra những lý thuyết về Chinh sách của
Chính phủ, gồm có Chính sách tài khóa và Chính sách tiền tệ.
Chính sách tài khóa (fical policy) là một hệ thống các chính sách của nhà
nước được các cơ quan lập pháp, hành pháp hoạch định và thực hiện với hai
cơng cụ chính là thu và chi ngân sách nhà nước cho các hàng hóa và dịch vụ
cơng cộng, cho thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước nhằm đạt được những mục
tiêu về phát triển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn nhất định. Chính sách tài
khố là một cơng cụ quan trọng giúp Nhà Nước thực hiện mục tiêu ổn định kinh


iv

tế vĩ mơ. Chính sách tài khố có thể ảnh hưởng tới tiết kiệm, đầu tư, tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn. Cịn trong ngắn hạn chính sách tài khố chủ yếu ảnh hưởng
tới tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Có thể thấy, hai cơng cụ chính của chính
sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và thu ngân sách nhà nước.
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mơ trong đó Ngân hàng Trung
ương thơng qua các cơng cụ của mình thực hiện việc kiểm sốt và điều tiết khối
lượng tiền trong lưu thơng nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị đồng tiền đồng thời
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm. Trong hệ thống
các công cụ điều tiết vĩ mơ của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong
những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thơng
tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mơ khác
như chính sách tài khố, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại. Đối
với Ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách
tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính
sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.

Chương 2: Biến động kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2016.

Phần này trình bày về bối cảnh kinh tế vĩ mô Việt Nam với các chỉ tiêu
chính được đề cập đến trong bài nghiên cứu đó là: tăng trưởng, lạm phát, chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Tăng trưởng giai đoạn 2010 – 2015 có xu hướng phục hồi nhưng cịn chậm,
vẫn có biểu hiện trì trệ đối với khu vực kinh tế trong nước Xét chung toàn nền
kinh tế, mặc dù đã có những dự báo tích cực cho năm 2015 nhưng tốc độ tăng
trưởng kinh tế vẫn chậm hơn so với mục tiêu đặt ra và chậm hơn nhiều so với
mức trung bình của giai đoạn 2006 – 2010. Từ năm 2014, tăng trưởng có xu
hướng nhanh hơn là do sự hỗ trợ của khu vực có vốn đầu tư nước ngồi. Trong
khi đó các ngành kinh tế đặc trưng nội địa và các ngành đóng góp cao vào tăng
trưởng kinh tế đều có xu hướng khơng tích cực, như: nông nghiệp, ngư nghiệp,


v

ngành công nghiệp chế biến chế tạo, ngành thương mại bán bn bán lẻ hàng
hóa đều có tốc độ tăng trưởng giảm dần, ngành xây dựng chỉ đạt 3,5% giai đoạn
2011 – 2015 so với 8,85% của giai đoạn 2006 – 2010. Chất lượng tăng trưởng
rất thấp so với yêu cầu chuyển đổi mơ hình tăng trưởng. Trong giai đoạn 2011 –
2015, đóng góp của việc cải tiến chất lượng của lao động, vốn và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực (TFP) vào tăng trưởng có cao hơn giai đoạn 2006 –
2010, nhưng đây không phải do sự phát triển vượt trội hơn của yếu tố TFP mà là
do yếu tố vốn có sự suy giảm về quy mơ ở mức cần thiết của nó để duy trì một
tốc độ tăng trưởng theo dự kiến. Trong cấu trúc tăng trưởng, yếu tố TFP chiếm
khoảng 25% là quá thấp so với mục tiêu đặt ra (30 – 32% giai đoạn 2011 – 2015)
và thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Các ngành sản phẩm có
giá trị gia tăng cao và sử dụng công nghệ hiện đại có tốc độ tăng trưởng giảm sút
hoặc có đóng góp vào tăng trưởng rất thấp. Tăng trưởng giai đoạn 2011 – 2015
vẫn chủ yếu dựa vào những ngành kinh tế mang tính truyền thống với trình độ
cơng nghệ khơng cao. Sang năm 2016 là năm mà tốc độ tăng trưởng của nền

kinh tế của Việt Nam có dấu hiệu suy giảm, theo thống kê của Tổng cục thống
kê thì tăng trưởng kinh tế nửa đầu năm 2016 chỉ đạt 5,55% so với cùng kỳ của
năm trước, tuy nửa cuối năm đạt mức tăng trưởng khá cao nhưng cả nền kinh tế
chung chỉ đạt mức 6,2% cả năm, con số này là thấp hơn so với con số 6,68%
tăng trưởng kinh tế của năm 2015. Tuy cũng không đạt được mục tiêu tăng
trưởng 6,7% theo như Chính phủ đặt ra nhưng cũng có thể coi đây là một kết quả
chấp nhận được. Trong khi nền kinh tế toàn cầu gặp nhiều bất lợi, các yếu tố nội
địa cũng không thuận lợi như mơi trường, thiên tai. Ngồi ra, mức tăng trưởng
này cũng vượt qua mức mà Ngân hàng Thế giới dự đoán là 6%.
Tỷ lệ lạm phát sau khi tăng cao và biến động mạnh trong giai đoạn 2005 –
2010, tuy nhiên đến giai đoạn 2011 – 2015 thì lạm phát kiềm chế ở mức thấp
(ngoại trừ năm 2011). Chu kỳ lạm phát ba năm (hai năm tăng, một năm giảm)
kéo dài trong giai đoạn trước đây dường như đã được xóa bỏ, gợi ý rằng chu kỳ


vi

lạm phát tăng cao có thể đã chấm dứt và Việt Nam có thể đi vào một thời kỳ có
mức tăng lạm phát ổn định hơn. Với mục tiêu điều hành các chính sách thận
trọng nhằm ổn định kinh tế vĩ mơ và hỗ trợ hệ thống doanh nghiệp thốt khỏi
tình trạng khó khăn, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước giai đoạn vừa
qua đã góp phần duy trì đà tăng trưởng kinh tế nhất định trong điều kiện vĩ mô
nhiều bất ổn. Dù chịu áp lực mở rộng tín dụng từ nhiều phía để thúc đẩy nền
kinh tế Việt Nam thoát khỏi suy thoái, Ngân hàng Nhà nước vẫn kiên trì định
hướng tăng trưởng tín dụng thận trọng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh
tế theo nguyên tắc bảo đảm chất lượng tín dụng, hạn chế phân bổ vốn vào khu
vực khơng khuyến khích có nguy cơ gây ra lạm phát cao và tăng trưởng thiếu
bền vững trong tương lai. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho các ngân hàng thương mại chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng
ưu tiên tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất

khẩu…; điều chỉnh giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với năm
nhóm lĩnh vực ưu tiên; kiểm sốt tỷ trọng dư nợ cho vay đối với các lĩnh vực
khơng khuyến khích. Nhờ vậy, tăng trưởng kinh tế tuy không phục hồi mạnh mẽ
nhưng đã được cải thiện dần qua thời gian. Diễn biến các chính sách ổn định
kinh tế vĩ mơ và lạm phát, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn vừa qua đã cho
thấy mục tiêu tăng trưởng không phải khi nào cũng có thể đánh đổi bằng mức
lạm phát cao. Bằng chứng là giai đoạn 2008 – 2010, tỷ lệ lạm phát cao song tốc
độ tăng trưởng kinh tế vẫn thường xuyên không đạt mục tiêu đề ra. Ngược lại
trong các năm 2014, 2015, sự ổn định giá cả do CSTT mang lại lại có tác động
lớn đối với ổn định kinh tế vĩ mơ, do đó, thúc đầy phục hồi kinh tế. Năm 2016
được coi là thành công trong việc kiểm soát lạm phát trong điều kiện giá một số
mặt hàng thiết yếu tăng trở lại nhưng vẫn tạo điều kiện để điều chỉnh giá

2016


vii

so với năm 2015 tăng 2,66%; CPI tháng 12 năm 2016 tăng 4,74% so tháng 12
năm 2015, thấp hơn so với mục tiêu 5% của Quốc hội đặt ra.

Chương 3. Mơ hình tác động của lạm phát và mức độ ổn định của tổng
cầu tới hiệu quả của các chính sách ổn định kinh tế
Ở phần này tôi sẽ sử dụng phương pháp thực nghiệm của BMR (1988) áp
dụng cho chuỗi thời gian để phân tích cho Việt Nam trong giai đoạn 2004Q1 –
2017Q1. Bài nghiên cứu này kế thừa những nghiên cứu trước của TS. Phạm Thế
Anh có sử dụng Phương pháp thực nghiệm của BMR (1998). Mơ hình lý thuyết
này có dạng:
Với đặc tính số liệu được thống
kê theo quý tại Việt Nam, bài nghiên cứu sẽ tính tốn lạm phát trung bình dựa

trên phương pháp trung bình trượt trong 5 quý và lạm phát trung bình sẽ là trung
bình của cả lạm phát trong quá khứ (2 quý trước), hiện tại và tương lai (2 quý
tiếp theo) để có thể phán ảnh được ảnh hưởng của lạm phát trong quá khứ và lạm
phát kì vọng. Biến độ lệch chuẩn của tổng cầu cũng sẽ được tính tốn tương tự
trong năm quý một lần. Lý thuyết của trường phái Keynes mới có thể được kiểm
định theo số liệu thực tế tại Việt Nam dựa vào việc khảo sát dấu và ý nghĩa
thống kê của các tham số ước lượng, các kiểm định sau hồi quy cũng được thực
hiện để đảm bảo tính hợp lý của mơ hình.
Trong bài, tôi sử dụng số liệu được cung cấp bởi Tổng cục Thống kê về
Tổng sản phẩm quốc nội Việt Nam, đó là GDP thực tế và GDP danh nghĩa. Các
chuỗi số liệu này lấy trên trang dữ liệu của Tổng cục Thống kê, từ thời điểm quý
1 năm 2004 và có tần suất theo quý.
Từ kết quả ước lượng cho thấy tham số

phản ánh tác động của sự tương

tác giữa tốc độ tăng trưởng của tổng cầu danh nghĩa với lạm phát trung bình có
giá trị

(< 0), giả thuyết

bị bác bỏ với mức ý nghĩa 1%

(Giá trị p = 0.0002). Kết quả từ mơ hình ước lượng đã cho thấy sự ủng hộ với lý


viii

thuyết của trường phái Keynes cho rằng: lạm phát cao sẽ khiến các doanh nghiệp
điều chỉnh giá và tiền lương thường xuyên hơn hay nói cách khác là khoảng thời

gian giữa các lần liều chỉnh giá của các doanh nghiệp sẽ ngắn hơn. Do vậy hiệu
quả của các cú sốc cầu đối với GDP thực tế của nền kinh tế sẽ giảm đi.
Tham số

phản ánh mối quan hệ giữa hiệu ứng thực của các cú sốc tổng

cầu với những biến động của tổng cầu có giá trị

, tuy nhiên lại

khơng có ý nghĩa về mặt thống kê (Giá trị p = 0.4403). Kết quả cho thấy rằng tại
Việt Nam thì việc tổng cầu danh nghĩa biến động mạnh hay yếu cũng khơng có
ảnh hưởng tới hiệu quả của các cú sốc cầu đối với GDP thực tế.
Ngoài ra, ta cũng xét các tham số

và tham số

thể hiện mối quan hệ phi

tuyến tính giữa hiệu quả của chính sách điều tiết tổng cầu với từng biến lạm phát
trung bình và biến động của tổng cầu. Giá trị

mang dấu dương đạt giá trị là

và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Giá trị
nhưng khơng có ý nghĩa thống kê. Như vậy, chỉ có lạm phát trung bình là có mối
quan hệ phi tuyến với hiệu quả của chính sách điều tiết tổng cầu, dạng mơ hình
của mối quan hệ này có hình chữ U. Điều này hàm ý rằng lạm phát trung bình có
tác động xấu đến hiệu quả của các cú sốc cầu, tuy nhiên tác động xấu này giảm
dần khi lạm phát trung bình tăng lên, tương tự đối với biến độ lệch chuẩn của

tổng cầu.
Ở mối quan hệ phi tuyến tính giữa lạm phát trung bình và GDP thực tế, hàm
bậc hai này có điểm cực tiểu đạt giá trị

là lớn hơn đáng kể so với giá

trị lạm phát trung bình của cả giai đoạn nghiên cứu 2004 – 2017(Q1) là
, ngồi ra hiện tại cũng chưa có lý thuyết kinh tế nào ủng hộ mối quan hệ
ngược chiều khi lạm phát tăng lại làm tăng hiệu quả của các cú sốc tổng cầu. Vì
vậy, mối quan hệ phi tuyến tính giữa lạm phát trung bình và GDP thực tế này
khơng phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay, kết quả này có
thể đến từ việc sử dụng CPI thay cho chỉ số điều chỉnh GDP.


ix

Biến giá dầu được đưa vào mơ hình đã chứng minh rằng giá dầu có ảnh
hưởng đến GDP thực tế khi tham số

đạt giá trị

và có ý nghĩa

thống kê ở mức ý nghĩa 1% (Giá trị p = 0.0004). Như vậy là giá dầu có tác động
dương đến mức GDP thực tế, hay nói cách khác khi giá dầu tăng lên sẽ kéo theo
tăng trưởng GDP. Điều này cũng phù hợp với tình trạng hiện tại, khi tăng trưởng
kinh tế còn phụ thuộc khá nhiều vào mức độ tăng trưởng của ngành cơng nghiệp
khai khống.

Chương 4: Kết luận chung.

Như vậy ở trong chương 3, lý thuyết và mơ hình nghiên cứu thực nghiệm
được phát triển bởi Lucas (1973) và BMR (1988) đã được tôi áp dụng đối với
trường hợp của Việt Nam trong giai đoạn 2004 – 2017(Q1). Các chuối số liệu
thời gian của Việt Nam được sử dụng để có thể xác định và tính tốn được sự
ảnh hưởng của lạm phát trung bình và sự biến động của tổng cầu khi xem xét
hiệu quả của các chính sách quản lý tổng cầu nhằm mục tiêu ổn định vĩ mơ.
Các kết quả từ mơ hình nghiên cứu cho thấy sự ủng hộ đối với lý thuyết của
Lucas (1973) và BMR (1988), phân tích thực nghiệm tại Việt Nam khá phù hợp
với những dự báo của lý thuyết cổ điển mới và lý thuyết Keynes mới. Kết luận
cuối từ mô hình cho thấy sự thay đổi của GDP thực tế đối với các cú sốc của
tổng cầu danh nghĩa sẽ ngược chiều với mức thay đổi của lạm phát trung bình
nhưng khơng phụ thuộc độ lệch chuẩn của các cú sống tổng cầu. Cụ thể, khi nền
kinh tế ở trong mơi trường có lạm phát cao thì hiệu quả của các chính sách ổn
định tổng cầu sẽ thấp đi, phần lớn sự gia tăng của tổng cầu danh nghĩa sẽ được
chuyển thành sự gia tăng của giá cả mà ít chuyển thành sự gia tăng của sản
lượng.


1

LỜI GIỚI THIỆU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, chính phủ thường xuyên sử dụng
các biến pháp kích thích tổng cầu như một cách để ổn định nền kinh tế. Điều này
là rất cần thiết bởi vì nó có thể làm giảm bớt đi sự biến động của chu kì kinh tế.
Các chính sách kinh tế có thể làm tăng sản lượng trong ngắn hạn nếu được sử
dụng đúng cách và vào thời điểm thích hợp. Trong ngắn hạn, trong nền kinh tế
vẫn tồn tại những điểm khiến cho các biến pháp kích cầu có thể tác động đến sản
lượng như sự chậm trễ trong việc điều chỉnh giá, cứng nhắc trong tiền lương hay
như sự khơng hồn hảo về thơng tin thị trường… Tuy nhiên, trong dài hạn thì

tăng trưởng kinh tế chỉ có thể được quyết định bởi năng lực sản xuất của nền
kinh tế chứ không phải bởi các cú sốc tổng cầu như vậy.
Trong số các biện pháp nhằm làm ổn định sự biến động của nền kinh tế,
chính sách tiền tệ với các cơng cụ lãi suất linh hoạt và nhanh chóng thường được
ưu tiên sử dụng hơn so với các biện pháp tài khóa. Khi tổng cầu gia tăng, thông
qua các biện pháp mở rộng tiền tệ hoặc tăng chi tiêu chính phủ, một mặt có thể
tạm thời làm tăng sản lượng, nhưng mặt khác có thể kéo theo những hiệu ứng
tiêu cực như lạm phát và thâm hụt ngân sách và ảnh hưởng đến tăng trưởng
trong tương lai. Lạm phát cao và thâm hụt ngân sách luôn là những vấn đề đối
với các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam trong việc nỗ lực đưa nền kinh
tế nước ta đi những bước vững chắc và ổn định. Do vậy, thay vì cố gắng thay đổi
sản lượng một cách lâu dài, các chính sách tiền tệ và tài khóa tốt phải là những
chính sách có vai trị trung hịa những biến động của tổng cầu, tức là: kích thích
tổng cầu trong thời kì suy giảm và kiềm chế tổng cầu trong thời kì tăng trưởng
quá nóng.
Hiện tại, mức tăng trưởng ở Việt Nam đang được duy trì trên 5% hàng năm
và chưa đạt được như các mục tiêu hàng năm và mục tiêu 5 năm đề ra. Bước


2

sang năm 2017, với hàng loạt các mục tiêu như giữ ổn định kinh tế vĩ mô, đạt
mức tăng trưởng cao, lạm phát thấp, cải thiện cơ cấu tăng trưởng cũng như hiệu
quả tăng trưởng, cải thiện môi trường kinh doanh… Do vậy, để đảm bảo cùng
lúc đạt các mục tiêu trên, Chính phủ rất cần thiết thực hiện các chính sách ổn
định vĩ mơ sao cho phù hợp nhất. Trước thực tế này, đề tài “Ổn định kinh tế vĩ
mơ và hiệu quả của các chính sách quản lý tổng cầu” đã được chọn làm đề tài
nghiên cứu.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Tổng hợp hệ thống lý luận và nghiên cứu thực tiễn về chủ đề: Ổn định
kinh tế vĩ mô.
Đánh giá được thực trạng biến động kinh tế Việt nam giai đoạn 2011 –
2016 qua các chỉ tiêu lạm phát, tăng trưởng và các chính sách ổn định kinh tế vĩ
mơ.
Áp dụng mơ hình nghiên cứu thực nghiệm với số liệu của Việt Nam để
tìm ra ảnh hưởng của các biến lạm phát trung bình và độ lệch chuẩn của tổng cầu
đối với hiệu quả của các chính sách quản lý tổng cầu.

3. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của các biến lạm phát trung bình và độ
lệch chuẩn của tổng cầu đối với hiệu quả của các chính sách quản lý tổng cầu.
Phạm vi nghiên cứu: Do những hạn chế về thời gian và kinh phí, do vậy
nghiên cứu này sẽ tập trung vào việc xác định những ảnh hưởng đến từ lạm phát
trung bình và độ lệch chuẩn của tổng cầu đối với hiệu quả của các chính sách
quản lý tổng cầu. Số liệu trong nghiên cứu được thu thập chủ yếu từ nguồn số
liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổng cục Thống kê, Ngân hàng Nhà nước từ quý 1
năm 2004 đến quý 1 năm 2017.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Quy trình thực hiện nghiên cứu
Quy trình này bao gồm các bước sau:


3

B1: Xác
định cơ sở
lý thuyết


B2: Xây
dựng mơ
hình

B3: Thu
thập số
liệu và
chạy mơ
hình

B4: Phân
tích kết
quả thực
nghiệm

B5: Kết
luận

4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập dữ liệu: Phương pháp để có được số liệu phục vụ
cho việc nghiên cứu. Bài nghiên cứu chủ yếu sử dụng số liệu thứ cấp từ thống kê
của các tổ chức trong và ngoài nước như Tổng cục thống kê, Ngân hàng Nhà
nước, Quỹ tiền tệ thế giới… Các số liệu được lấy trực tiếp từ hệ thống cơ sở dữ
liệu của các cơ quan, tổ chức.
Phương pháp phân tích: Là phương thức tính tốn dựa trên lý thuyết kinh
tế và các nghiên cứu đã có. Sau khi thu thập được các dữ liệu mong muốn, tác
giả xử lý thêm để có được số liệu phù hợp cho mơ hình. Ví dụ như: lấy trung
bình, độ lệch chuẩn, tính theo quyền số…
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Để có đầy đủ hơn các cơ sở lý thuyết và
thực trạng của nền kinh tế vĩ mô tại Việt nam. Tác giả có nghiên cứu các số liệu

và văn bản này từ nhiều nguồn khác nhau, từ sách kinh tế, các bài nghiên cứu
kinh tế cho đến bài báo kinh tế trên mạng.
Phương pháp định lượng: Là việc sử dụng các mơ hình từ lý thuyết tốn
kinh tế, các nghiên cứu trước đây có liên quan để có thể xây dựng được mơ hình
xác định ảnh hưởng của các biến lạm phát trung bình và độ lệch chuẩn của tổng
cầu đối với hiệu quả của các chính sách quản lý tổng cầu. Bài có sử dụng phần
mềm Eviews 8.1, Excel.

5. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Nghiên cứu đã làm giàu thêm hệ thống lý luận liên quan
đến ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam.


4

Ý nghĩa thực tiễn: Xác định ảnh hưởng của các biến lạm phát trung bình và
độ lệch chuẩn của tổng cầu đối với hiệu quả của các chính sách quản lý tổng cầu.

6. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 04 chương, đó là:
Chương 1: Các lý thuyết về chu kỳ kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
Chương này trình bày các lý thuyết liên quan đến chu kỳ kinh tế - nguyên nhân
chính gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô và các phương thức được sử dụng để giảm
thiểu thiệt hại từ ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế.
Chương 2: Biến động kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 – 2016. Chương
này nói về bối cảnh kinh tế vĩ mô Việt Nam trong 6 năm gần đây.
Chương 3. Mơ hình tác động của lạm phát và mức độ ổn định của tổng
cầu tới hiệu quả của các chính sách ổn định kinh tế. Ở chương này tác giả áp
dụng mơ hình được phát triển bởi BMR (1988) với số liệu của Việt Nam.
Chương 4: Kết luận chung. Tác giả cố gắng đưa ra các kết luận từ mơ hình

nghiên cứu và một số hàm ý chính sách.


5

CHƢƠNG 1. CÁC LÝ THUYẾT VỀ CHU KÌ
KINH TẾ VÀ ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ
1.1. Các lý thuyết về chu kì kinh tế (nguyên nhân gây ra chu kì kinh tế –
business cycle)
Từ những năm 70 của thế kỷ XIX, đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu đưa ra
các nghiên cứu về kinh tế vĩ mô, đặc biệt về vấn đề sự biến động của chu kì kinh
tế. Các nhà nghiên cứu kinh tế rất nỗ lực để giải thích các sự biến động này trong
ngắn hạn, dựa trên vai trò của các cú sốc cung hoặc cú sốc cầu.

1.1.1. Chu kì kinh tế
Được định nghĩa là dao động của các hoạt động kinh tế trong nước trong
một khoảng thời gian nhất định hay ở Việt Nam chính là sự thay đổi, biến động
của giá trị tổng sản phẩm nội địa – GDP. GDP chính là một trong những thước
đo, phản ánh lại các hoạt động kinh tế của một nước. Được tính bằng tổng giá trị
thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trên lãnh thổ
của một quốc gia trong một thời kì nhất định. GDP thường được các quốc gia đo
bằng hai loại giá, một là GDP đo theo giá hiện hành (còn gọi là GDP danh
nghĩa) và GDP đo theo giá cố định (hay giá so sánh và còn gọi là GDP thực tế),
sự khác nhau giữa các loại GDP này nằm ở giá cả. Ngoài ra, một số quốc gia tiên
tiến hiện còn đưa thêm một dạng thước đo nữa vào thống kê GDP là thước đo
chain – weighted GDP.
Một chu kì kinh tế có hai thời kì chính, đó là suy thối nền kinh tế và mở
rộng nền kinh tế. Nguyên nhân chính của sự biến động này là do các cú sốc nội
sinh cũng như ngoại sinh. Các nhà kinh tế thường đo lường một chu kì kinh tế
bằng cách nghiên cứu sự biến động tăng trưởng của GDP thực tế quay quanh xu

hướng dài hạn của nó. Nếu nền kinh tế khơng xảy ra các cú sốc có lợi hoặc các
cú sốc bất lợi, có thể như cú sốc xăng dầu, cú sốc tài chính, cú sốc hàng hóa, các
tiến bộ trong cơng nghệ, thảm họa môi trường, thiên tai… làm nền kinh tế tăng
trưởng có thể ở mức cao hơn hoặc mức thấp hơn so với xu hướng dài hạn thì


6

tăng trưởng kinh tế sẽ đi trùng với đường tăng trưởng dài hạn. Có nhiều phương
pháp thống kê được các nhà kinh tế học dùng trong việc chỉ ra đường tăng
trưởng dài hạn, trong đó có một phương pháp khá phổ biến là phương pháp lọc
Hodrick-Prescott, hoặc có thể thực hiện phương pháp hồi quy phi tuyến tinh theo
xu hướng thời gian. Hình 1.1 thể hiện chu kì kinh tế của Việt Nam trong giai
đoạn 2001-2016, đường tăng trưởng dài hạn được bóc tách dựa trên phương
pháp lọc Hodrick-prescott.
9

8

7

6

5

4

3
01


02

03

04

05

06

07

08

TREND_GROWTH

09

10

11

12

13

14

15


16

ACTUAL_GROWTH

Nguồn: Tính tốn của tác giả từ số liệu của GSO.

Hình 1.1: Chu kì kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2016.
Theo lý thuyết, khi tốc độ tăng trưởng thực tế (actual growth) nằm ở trên
đường tăng trưởng dài hạn (trend growth) thì đó chính là thời kì mở rộng, trong
thời kì mở rộng, nền kinh tế sẽ phát triển, thể hiện đầu tiên ở mức GDP thực tế
tăng, điều này cũng sẽ được chỉ ra bằng sự gia tăng của các chỉ số như việc làm,
giá trị sản xuất công nghiệp, giao thương và thu nhập cá nhân. Ngược lại thì
được gọi là thời kì suy thối, trong thời kì suy thối, nền kinh tế sẽ bị thu hẹp lại,
thể hiện bằng sự suy giảm GDP, và cũng được thể hiện bằng việc các chỉ số trên


7

giảm xuống. Ở tại một số quốc gia, có một số quy định đối với suy thoái kinh tế
là khi GDP thực có tốc độ tăng trưởng nhỏ hơn 0 (khơng) trong nửa năm liên tục
hay hai q, thì quốc gia mới được tính là trong thời kì suy thối kinh tế.
Những biến động tăng lên và giảm xuống của đường tăng trưởng kinh tế
xoay quanh đường tăng trưởng dài hạn được các nhà kinh tế gọi là những biến
động trong ngắn hạn. Các thời kì của một chu kì kinh tế được liên tục lặp lại, khi
nền kinh tế mở rộng đến một mức độ nào đó, sẽ xảy ra suy thoái kinh tế, tốc độ
tăng trưởng GDP giảm xuống, điểm giao này được gọi là đỉnh của chu kì kinh tế.
Và khi kết thúc thời kì suy thối kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế cùng
các chỉ số đo lường sẽ đổi chiều và tăng lên, GDP sẽ tăng và sẽ đạt giá trị cao
hơn so với thời điểm trước khi xảy ra suy thoái kinh tế, điểm giao này gọi là đáy
của chu kì kinh tế. Các điểm đỉnh và đáy của chu kì kinh tế thường có thể dễ

dàng nhận ra ở các điểm giao từ thời kì này sang thời kì khác với dấu hiệu là sự
thay đổi dấu của tốc động tăng trưởng GDP thực tế. Các nhà kinh tế học luôn
muốn tìm ra được cách nhận diện các dấu hiệu, biểu hiện của thời kì suy thối
kinh tế trước khi nó xảy ra, hạn chế tối thiểu các tác động xấu đến nền kinh tế vĩ
mơ, xã hội. Có thể chỉ ra một số đặc điểm chung và dễ nhận thấy của suy thối
như: cầu hàng hóa giảm, tiêu dùng trong nước chậm, dòng luân chuyển sản
phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất, thương mại bị gián đoạn làm tăng sản
phẩm lưu kho tại các doanh nghiệp. Điều này khiến cho các doanh nghiệp sản
xuất phải thắt chặt chi tiêu, giảm đầu tư phát triển và cắt giảm sản xuất. Tất cả
khiến cho tổng cung kinh tế vĩ mô đi xuống và tương ứng là sụt giảm GDP thực
tế. Điều này ảnh hưởng tiếp đến thị trường lao động, nhu cầu sử dụng lao động
giảm xuống. Đối với các lao động trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt là các lao
động thời vụ thì số ngày đi làm sẽ thấp đi, sau đó sẽ là các đợt cắt giảm nhân sự
của doanh nghiệp và số người thất nghiệp sẽ ngày càng nhiều thêm. Giá cả thị
trường sẽ ít có sự thay đổi, lạm phát chậm tăng lên, nguyên nhân đến từ giá cả
đầu vào của các doanh nghiệp sản xuất giảm xuống bởi suy giảm tổng cầu.


8

Riêng giá cả khu vực dịch vụ khó có thể giảm được nhưng cũng sẽ khơng tăng
cao trong thời kì này. Doanh thu sụt giảm và cả lợi nhuận của các doanh nghiệp
cũng giảm theo khiến các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán dè dặt hơn
trước, họ cảm nhận được thời kì suy thối kinh tế đang đến gần. Nền kinh tế
đang ở đằng sau của đỉnh chu kì, nhu cầu về vốn cũng thấp hơn so với trước làm
lãi suất giảm. Các dấu hiệu trên sẽ mang thay đổi theo hướng ngược lại khi nền
kinh tế ở chu kì mở rộng.
Trước đây, vào năm 1860, nhà kinh tế học người Pháp tên là Clement Juglar
là người đầu tiên chỉ ra rằng, một chu kì kinh tế kéo dài từ 07 đến 11 năm và sẽ
có sự thay đổi nếu có ảnh hưởng từ các yếu tố kinh tế vĩ mơ khác. Và một thời

gian ngắn sau đó, nhà kinh tế Joseph Schumpeter cũng đã đưa ra các lập luận
rằng, một chu kì kinh tế bao gồm bốn giai đoạn: mở rộng (expansion), khủng
hoảng (crisis), suy thoái (recession) và phục hồi (recovery). Tuy nhiên, ở nền
kinh tế ngày nay cùng với các quan điểm kinh tế học hiện đại, có quan điểm rằng
giai đoạn khủng hoảng là khi tồn bộ nền kinh tế gần như đóng băng, thất nghiệp
ở mọi nơi và khơng kiểm sốt được, các doanh nghiệp sản xuất lớn nhỏ đóng cửa
hàng loại… trở nên khó xảy ra hơn, nhờ những biện pháp quản lý, can thiệp của
chính phủ nhằm tối thiểu hóa hậu quả.
Các biện pháp quản lý, can thiệp, các chính sách mà chính phủ hay ngân
hàng trung ương sử dụng trong kinh tế vĩ mô để làm giảm đi các hậu quả của suy
thoái kinh tế hay làm giảm đi sự biến động của đường tăng trưởng thực tế quanh
đường tăng trưởng dài hạn, được gọi là các chính sách bình ổn.
Ảnh hưởng của chu kì kinh tế
Được tạo nên bởi những biến động khơng có quy luật, chưa có các chu kì
kinh tế nào mà hồn tồn trùng lặp hoặc có những biến động như nhau, điều này
khiến cho chu kì kinh tế rất khó để dự báo. Hiện nay vẫn chưa có cơng thức xác
định hay một phương pháp dự báo nào có thể đưa ra được các phán đốn chính
xác về thời gian, phương hướng xảy ra các biến động của chu kì kinh tế. Việc ở


9

trong thế bị động đối với các biến động này, khiến cho hầu hết các chủ thể trong
nền kinh tế vĩ mô, ở cả khu vực tư và khu vực cơng đều gặp nhiều khó khăn, hạn
chế, nhất là khi nền kinh tế rơi vào thời kì suy thối. Lúc này, khi nền kinh tế rơi
vào thời kì suy thối, tổng sản lượng sản xuất trong nước sẽ sụt giảm nhanh
chóng, nhiều người khơng có việc làm, tỷ lệ thất nghiệp trên cả nước tăng lên, tất
cả các thị trường từ thị trường hàng hóa, bất động sản, dịch vụ… cho đến thị
trường vốn, ngoại tệ… đều thu hẹp lại. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nền
kinh tế vĩ mô, xã hội theo chiều hướng xấu.

Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kì kinh tế
Chu kì kinh tế luôn là vấn đề hàng đầu của các nhà quản lý kinh tế, dù ở khu
vực công hay khu vực tư nhân thì việc chu kì kinh tế ln gây ra những khó
khăn trong cơng tác xây dựng, triển khai kế hoạch kinh doanh. Ngoài ra, những
biến động của chu kì kinh tế cũng bao gồm cả sự lên xuống theo chu kì của thất
nghiệp và giá cả. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội
phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kì là nhiệm
vụ được nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kì
giữa các trường phái kinh tế học vĩ mô không giống nhau, nên biện pháp chống
chu kì mà họ đề xuất cũng khác nhau. Biến động kinh tế xảy ra đã kéo theo sự
phát triển của hàng hoạt các lý thuyết nhằm giải thích và đưa ra khuyến nghị về
việc nên hay không nên thực hiện các chính sách bình ổn. Theo nghĩa rộng,
chúng ta có thể chia thành hai trường phái, kinh tế học trọng cung (supply-side)
và kinh tế học trọng cầu (demand-side).
Dự báo chu kì kinh tế
Các chuyên gia kinh tế đã tìm cách xây dựng và phát triển công cụ dự báo
những thay đổi trong nền kinh tế. Những mơ hình đơn giản nhất dựa trên số liệu
dễ thu thập như sản lượng một số tư liệu sản xuất quan trọng (thép, sắt...), khối
lượng hàng hóa vận chuyển... rồi cơng thức hóa số liệu thống kê để đưa ra chỉ số
có tính chất dự báo. Dần dần, với sự phát triển của công nghệ thông tin, người ta


×