Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Thống nhất đất nước về mặt nhà nước vì sao đảng chủ trương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước chỉ đạo của đảng để thống nhất nước nhà về mặt nhà nước kết quả, ý nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.22 KB, 24 trang )

CÁC ĐỀ TÀI BÀI TẬP NHĨM
Nhóm số 4 ; Lớp môn học: HIS1001-14
STT
1-NT
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Họ và tên
Ninh Trung Sơn
Phạm Diệu Khánh Linh
Hồ Khuê Dung
Nguyễn Hoàng Hà
Nguyễn Phan Minh Thư
Đàm Thị Hoài Thu
Hoàng Bùi Minh Ngọc
Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Hoàng Thị Trà My
Nguyễn Bá Hải Long

Mã sinh viên
22070896
22071006
22070941
22070834


22070926
22071032
22070846
22070750
22071085
22070517
Bài làm

Câu 1 : Thống nhất đất nước về mặt Nhà nước : vì sao Đảng chủ trương thống nhất nước
nhà về mặt Nhà nước ? Chỉ đạo của Đảng để thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước ? Kết
quả, ý nghĩa ?
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới: Tổ quốc hoàn
toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện bước quá độ này,
rất nhiều nhiệm vụ được Đảng đặt ra nhưng nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết nhất là lãnh đạo
thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước. Cụ thể là thống nhất hai chính quyền khác nhau ở
hai miền là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ở miền Bắc và Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam ở miền Nam. Hội nghị lần thứ 24 Ban
Chấp hành Trung Ương Đảng khóa III ( 8/1975 ) chủ trương: Hoàn thành thống nhất
nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền
Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thông nhất đất nước vừa là nguyện vọng thiết tha của nhân
dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch
sử dân tộc Việt Nam. cần xúc tiến việc thống nhất nước nhà một cách tích cực và khẩn
trương. Thơng nhất càng sớm thì càng mau chóng phát huy sức mạnh mới của đất nước,
kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu chia rẽ của các thế lực phản động trong nước và
trên thế giới.
Chỉ đạo của Đảng để thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước:
-


Ngày 27/10/1975, ủy ban Thường vụ Quổc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã họp phiên đặc biệt để bàn chủ trương, biện pháp thốhg nhất nước nhà về mặt


-

-

-

nhà nước. Hội nghị cử đoàn đại biểu miền Bắc gồm 25 thành viên do đồng chí
Trường Chinh làm trưởng đoàn để hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam.
Ngày 5 và 6/11/1975, tại Sài Gòn, ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng
miên Nam Việt Nam, ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân
chủ và hịa bình Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam, Hội đồng cố vấn Chính phủ và đại biểu các nhân sĩ, trí thức đã họp hội
nghị liên tịch và cử đoàn đại biểu miền Nam gồm 25 thành viên do đồng chí Phạm
Hùng dẫn đầu để hiệp thương với đoàn đại biểu miền Bắc.
Từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị của hai đồn đại
biểu Bắc - Nam đã họp tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng định: Nưốc Việt Nam, dân tộc
Việt Nam là một, nước nhà cần được sớm thống nhất về mặt nhà nưốc; tổ chức
tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam bầu ra Quốc hội chung cho cả nước vào
nửa đầu năm 1976 theo ngun tắc dân chủ, phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín.
Ngày 3/1/1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 228-CT/TW nêu rõ
tầm quan trọng của cuộc tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp ủy lãnh
đạo cuộc bầu cử.
Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nưốc Việt Nam
thống nhất được tiến hành.
Quốc hội khóa VI của nước Việt Nam thống nhất họp kỳ đầu tiên tại Hà Nội (từ

ngày 24/6 đến ngày 3/7/1976) đã bầu các cơ quan, thơng qua chính sách đối nội,
đối ngoại của nước Việt Nam thống nhất.
Kết quả của việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước :
-

Quyết định lấy tên nước là Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc kì - Cờ đỏ sao vàng; Quốc ca – Tiến quân ca; Quốc huy mang dòng chữ
“Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; Thủ đơ là Hà Nội, thành phố Sài
Gịn – Gia Định đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, bầu ban dự thảo Hiến pháp.
- Ở địa phương, Quốc hội quyết định tổ chức thành ba cấp chính quyền: cấp
tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, cấp huyện và tương đương, cấp xã
và tương đương. Ở mỗi cấp chính quyền có Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân.
 Thành công của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I đã hồn thành q trình thống
nhất đất nước về mặt Nhà nước.
Ý nghĩa của việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước :
-

Là yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam.


-

Thể hiện tinh thần yêu nước, đoàn kết toàn dân tộc, ý chí thống nhất Tổ quốc,
quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam độc lập và thống nhất của toàn thể nhân
dân ta.
Tạo điều kiện cho việc tiếp tục hồn thành thống nhất các lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của cách

mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước.
Tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện đất
nước, để cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo ra khả năng to lớn để bảo
vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ quốc tế.

Câu 2 : Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam được xác định ở thời kì trước Đổi mới –
các bước đổi mới bộ phận/ cục bộ ở Việt Nam (1979-1986)?

1. Hoàn cảnh chung
- Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỉ nguyên mới:
tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Rất nhiều
nhiệm vụ được Đảng đặt ra nhưng nhiệm vụ đầu tiên là thống nhất 2 chính quyền ở
2 miền Bắc Nam.
- Hội nghị lần thứ 24 BCH TW Đảng khóa III(8/1975) chủ trương miền B hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, miền N tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Cả 2 miền đều xây dựng chủ nghĩa xã hội => Thống nhất càng sớm thì càng mau
chóng phát huy sức mạnh mới của đất nước, kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu
chia rẽ của các thế lực phản động trong nước và trên thế giới.
- 27/10/1975 Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã họp bàn chủ trương, biện pháp thống nhất về mặt nhà nước.
- Ngày 5-6/11/1975,tại Sài Gòn họp hội nghị liên tịch và cử đoàn đại diện tiêu
biểu miền Nam do đồng chí Phạm hùng dẫn đầu.
- 15-21/11/1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị của hai đồn đại biểu BắcNam đã họp tại Sài Gịn.
- 3/1/1976, Bộ chính trị TW Đảng ra chỉ thị nêu rõ tầm quan trọng của cuộc
tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các ủy lãnh đạo cuộc bầu cử.
- 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống
nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri đã bầu ra 492 đại biểu. Thắng lợi việc bầu


cử đã thể hiện ý chí đồn kết tồn dân tộc quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng

của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- 24/6-3/7/1976, Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5 cánh, thủ đô là Hà Nội, Quốc ca
là bài Tiến quân ca, Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
- Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, cách mạng Việt
Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất, thực hiện
chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trước những yêu cầu mới của cách mạng,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã được triệu tập.
- Phân tích tình hình mọi mặt của đất nước, báo cáo đã nêu lên ba đặc điểm lớn:
- Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn
phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa.
- Hai là, cả nước hịa bình, độc lập và thống nhất đang tiến lên chủ nghĩa xã
hội với nhiều thuận lợi, song cũng cịn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh
và các tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Ba là, hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cách
mạng và phản cách mạng còn rất gay go và phức tạp.
 Trong 3 đặc điểm trên, đặc điểm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung,
hình thức, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
+ Nhiệm vụ cách mạng miền Bắc: do đã có 21 năm đi lên Chủ nghĩa xã hội từ
1954 nên trong giai đoạn này phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Góp phần cùng
cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
+ Nhiệm vụ cách mạng miền Nam: Do mới giải phóng, và trong suốt thời kì
Việt Nam Cộng hịa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nền kinh tế
miền Nam trong chừng mực phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa, nhưng về
cơ bản vẫn mang tính chất của kinh tế nơng nghiệp, sản xuất nhỏ và phân tán,



phát triển không cân đối, lệ thuộc vào viện trợ bên ngoài. Đại hội quyết định
miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội, góp phần cùng cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội.
- Kế hoạch 5 năm 1976-1980: Tháng 12 năm 1976, Đại hội tồn quốc lần thứ
IV của Đảng đã thơng qua kế hoạch 5 năm 1976-1980 với hai mục tiêu cơ bản là:
Xây dựng một bước cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, bước đầu hình thành cơ
cấu kinh tế mới trong cả nước trong đó quan trọng nhất là cơ cấu công - nông
nghiệp, và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
- Ý nghĩa: Đây là Đại hội đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam sau khi được thống nhất từ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam.
Kế hoạch 5 năm 1976-1980 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu trong khắc
phục một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai liên tiếp gây ra. Các tỉnh miền Nam
đã cơ bản hồn thành việc xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc.
Hạn chế: Đại hội lần thứ IV của Đảng còn một số hạn chế, chưa tổng kết
kinh nghiệm 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trong điều kiện vừa
xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá hoại thì hạch tốn mà phải
thực hành chính sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu tất cả đánh thắng giặc mỹ xâm
lược, chưa phát hiện những khuyết tật của mơ hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ
sau chiến tranh.
Nhận xét: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội tồn thắng của
sự nghiệp giải phóng dân tộc; là đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con
đường chủ nghĩa xã hội.
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982), bước phát triển
mới tư duy của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đã đánh giá tình hình kinh tế - xã hội sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại

hội IV và trên cơ sở đó đề ra một số chủ trương, chính sách quan trọng, có tính
đổi mới.


- Thứ nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng không chỉ khẳng
định lại những kết quả đạt được trong nhiều năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội lần thứ IV, mà còn chỉ ra những tồn tại, hạn chế sau: chưa thấy hết
những phức tạp của tình trạng rối ren về kinh tế sau nhiều năm chiến tranh
trường kỳ, những khó khăn, phức tạp và yếu kém trong quản lý kinh tế - xã
hội. Chúng ta không thể thấy trước đầy đủ sự phát triển phức tạp của các vấn
đề thế giới. Do đó đã chủ quan vội vàng đặt ra các chỉ tiêu quá cao cả về quy
mơ và tốc độ tích luỹ vốn và phát triển sản xuất. Đại hội cũng chỉ ra tư duy
bảo thủ, trì trệ, duy trì cơ chế kiểm sốt quan liêu quá lâu, bao cấp, chậm
thay đổi chính sách, chế độ đã bóp nghẹt sản xuất.
Đại hội cũng chỉ rõ, những tồn tại, sai sót trong quản lý, điều hành kinh tế là
nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm những khó khăn về kinh tế
- xã hội trong thời gian qua.
Việc vạch ra những khuyết điểm, sai lầm và nguyên nhân của những khuyết điểm
trên cũng thể hiện sự đổi mới về tư duy của Đảng.
- Thứ hai, Quốc hội lưu ý rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tuy đã
lâu và trải qua nhiều giai đoạn quá độ ngắn, nhưng chúng ta đang ở giai
đoạn đầu của quá độ, bao gồm 5 năm tính đến năm 1990 và kéo dài đến năm
1990, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. . Hội nghị vạch ra những vấn đề chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh trong giai đoạn đầu.
- Thứ ba, Đại hội đã xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước
ta trong thời kỳ mới. Đó là sự thành cơng của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ
nghĩa và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh kiên quyết bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Nêu rõ vị trí và mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược
đó.
- Thứ tư, Quốc hội phối hợp nội dung của giai đoạn đầu của cơng nghiệp

hóa. Người tập trung sức lực phát triển nơng nghiệp, coi nông nghiệp là
hàng đầu, đưa nông nghiệp tiến gần hơn đến sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng hàng loạt ngành hàng
tiêu dùng, công nghiệp nặng với cơ cấu nông - công nghiệp hợp lý. Đại hội
cũng ghi nhận rằng có thời điểm ở miền Nam cịn tồn tại 5 thành phần kinh
tế: quốc doanh, tập thể, công doanh, tư nhân và tư bản tư doanh.


Kết luận: Sau khi xem xét ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và chuyên gia về
các vấn đề kinh tế của nước ta, trên cơ sở đề cương về thực tiễn triển khai nghị
quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tháng 8-1986, Bộ Chính trị tuyên
bố: Một hội nghị về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế thuộc. Kết luận thể
hiện rõ quan điểm, chiến lược và chỉ đạo của Bộ Chính trị trong việc giải quyết ba
vấn đề lớn là cơ cấu kinh tế, đổi mới xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế.
Kết luận của Bộ Chính trị về các mặt kinh tế nêu trên là một sự đổi mới rất căn bản
trong tư duy kinh tế của đảng. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho việc chuẩn bị báo
cáo chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng sau này.

4. Các bước đổi mới bộ phận/cục bộ ở Việt Nam trong thời kì đổi mới 19791986
*Nhìn nhận chung: Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, sau khi đất nước thống
nhất, chúng ta có tâm thế chủ quan, vội vã tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong
một thời gian ngắn. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó có cơng tác điều hành kinh tế, những khiếm khuyết của mơ hình kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp ngày càng lộ rõ, đất nước dần rơi vào khủng hoảng kinh tế xã hội. Thực trạng này nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Để làm được
điều đó, trước tiên chúng ta phải thay đổi căn bản tư duy và hành vi. Từ đó, những
khám phá thử nghiệm và sự thay đổi của nhà nước nhằm kiểm soát khủng hoảng ra
đời, và những câu trả lời mới cho những thách thức ra đời.
*Các bước thay đổi cục bộ:
Mở đầu cho quá trình đổi mới từng phần là Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ương khóa IV (8-1979) họp bàn những vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội

và sản xuất hàng tiêu dùng. Có một sự đổi mới quan trọng trong tư duy tại hội nghị
này, phản ánh những nguyên tắc cơ bản sau:
- Trước hết, hội nghị phải đối mặt với những sự thật bộc lộ những khuyết
điểm, sai lầm của quản lý kinh tế: xây dựng kế hoạch tập trung quan liêu bao
cấp, gắn chặt giữa kế hoạch hóa và sử dụng thị trường, sử dụng hợp lý hóa


theo thành phần kinh tế, quan điểm bảo thủ, và xây dựng các kế hoạch cụ thể
bằng cách khắc phục tình trạng trì trệ. chính sách kinh tế.
- Thứ hai, hội nghị chủ trương các biện pháp phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Sản xuất nông nghiệp với các
biện pháp đảm bảo nghĩa vụ ổn định lương thực trong 5 năm, phần còn lại sẽ
được bán cho các bang để tự do lưu thông với giá thỏa thuận.
- Thứ ba, hội nghị xác định rõ: để phát triển sản xuất phải sử dụng thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, tập thể kể cả tư bản tư nhân, sử dụng mọi kỹ
năng lao động, trang bị vật chất kỹ thuật và trình độ quản lý.
- Thứ tư, trước cải cách ruộng đất ở miền Nam, chúng ta cần quán triệt
phương châm tích cực và kiên quyết. Bây giờ chúng ta phải nhấn mạnh
quyết tâm và phản kháng, đồng thời làm suy yếu các quan niệm về sự vội
vàng, chủ quan, mệnh lệnh và bất công. sản xuất và đời sống nhân dân.
Những đột phá đầu tiên trong đổi mới tư duy về cơ chế quản lý kinh tế của Đảng
(1979-1986):
Bước 1: Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (8-1979)
- Hội nghị đã bác bỏ nhiều yếu tố của hệ thống kinh tế tập trung, bao cấp.
- Nhận thức được sự cần thiết phải gắn quy hoạch với thị trường (mặc dù thị
trường vẫn được coi là thứ yếu và bổ trợ cho quy hoạch).
- Nhận thấy sự cần thiết phải kết hợp nhiều loại lợi ích và huy động vai trò
của tiểu thương, cá nhân, chủ nhỏ để mở rộng sản xuất.
Điều này đã đưa hội nghị đến giai đoạn quan trọng nhất của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu bao cấp: sở hữu cơng cộng và kế hoạch hóa trực tiếp.

Bước 2: Chỉ thị 100, Quyết định 25 CP, 26CP của Chính phủ (1981)
- Nội dung của các Chỉ thị, Nghị quyết trên nhằm giải phóng lực lượng sản
xuất và những điều chỉnh này đã tạo ra sự tương đồng giữa kinh tế kế hoạch
hóa cơng khai với kinh tế tư nhân và thị trường tự do. Đây là đặc điểm mà từ
sau Hội nghị Trung ương 6, sự “cộng sinh” và “xung đột” giữa hai loại cơ
chế kinh tế, hai loại thị trường là sự ra đời của thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. thời kỳ tăng trưởng nhanh là một đặc
điểm cơ bản.


Bước 3: Đại hội V của Đảng (1982)
- Trọng tâm: thiết lập hệ thống quản lý và quy hoạch phù hợp, cập nhật hệ
thống quản lý và quy hoạch hiện hành. Xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp.
- Về phương án kinh tế, kế hoạch phải quán triệt nguyên tắc hạch tốn xí
nghiệp xã hội chủ nghĩa.
- Để chấn chỉnh và phát huy vai trò của phân phối lưu thông, Quốc hội chủ
trương kết hợp chặt chẽ cả ba biện pháp hành chính: biện pháp kinh tế, biện
pháp hành chính và biện pháp giáo dục. Vì vậy, thay vì đề cao và tuyệt đối
hóa các biện pháp hành chính như trước đây, Chính phủ nhìn nhận vai trị
của các biện pháp kinh tế và các động lực kinh tế.
Bước 4: Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (6-1985)
- Chính sách xóa bỏ chế độ bao cấp, áp dụng chế độ đơn giá, chuyển sang
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thơng qua luật sản xuất hàng hóa.
- Liệt kê ba khía cạnh quan trọng của phương pháp: giá cả, tiền lương, tiền
tệ (giá - lương - tiền)
Kết luận: Giai đoạn từ năm 1979 đến cuối những năm 1980 là giai đoạn Đảng
Cộng sản lãnh đạo đổi mới từng bộ phận, riêng lẻ từng vùng, tiến lên đổi mới tồn
diện, đồng bộ. Trong q trình đó, tư duy mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta từng bước được hình thành và phát triển,
khắc phục dần lối tư duy cũ, mơ hình chủ nghĩa xã hội cũ khơng cịn phù hợp.

Thực tiễn chứng minh q trình tìm hiểu, tính đúng đắn của con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta, sự phù hợp về hình thức, thủ tục, cách làm và đem lại
niềm tin, sự phấn khởi cho những người đến thực tiễn.
Câu 3 : Khái quát cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam Tổ quốc (19751979). Tìm hiểu về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc năm 1979.
1. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam 1975-1979 ( Chiến tranh biên giới
Việt Nam – Campuchia )
Là cuộc xung đột quân sự giữa Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Campuchia Dân chủ. Cuộc chiến có nguyên nhân từ các hoạt động quân sự của


quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt
phá làng mạc Việt Nam trong những năm 1975–1978.
Việc đánh đổ Khmer Đỏ đã được thực hiện xong từ năm 1979, tuy nhiên tàn
quân Khmer Đỏ vẫn cịn tồn tại và đe dọa chính phủ mới tại Campuchia dẫn tới
việc Việt Nam đóng quân ở lại Campuchia trong suốt 10 năm tiếp theo.
KHÁI QUÁT
- Cuộc chiến tranh gồm 4 giai đoạn :
Giai đoạn 1: Từ giữa năm 1975 đến cuối năm 1978: Khmer Đỏ tổ chức nhiều
cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, phá hủy nhiều ngôi làng và giết hại hàng
ngàn thường dân Việt Nam. Phía Việt Nam chỉ tổ chức phịng ngự và cố đàm
phán tìm giải pháp hịa bình, nhưng Khmer Đỏ bác bỏ.
Giai đoạn 2: Từ tháng 12 năm 1978 đến tháng 5 năm 1979: Khmer Đỏ tổ chức
cuộc tấn công lớn nhất vào lãnh thổ Việt Nam với 19 sư đồn nhưng bị phía
Việt Nam bẻ gãy. Sau cuộc tấn cơng, Việt Nam thấy khơng có cơ hội để đàm
phán hịa bình nên đã tổ chức tấn cơng lớn vào Campuchia, lật đổ Khmer Đỏ
và lập nên chế độ mới do Heng Samrin đứng đầu. Tàn quân Khmer Đỏ chạy
sang ẩn náu bên kia biên giới Thái Lan.
Giai đoạn 3: Từ giữa năm 1979 đến cuối năm 1985: Khmer Đỏ với sự trợ giúp
về lương thực, vũ khí của Thái Lan, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tổ chức đánh du
kích và đe dọa sự tồn tại của chế độ Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Năm

1982, Việt Nam rút bớt quân khỏi Campuchia, ngay sau đó Khmer Đỏ hoạt
động mạnh trở lại và chiếm một số khu vực. Nhận thấy quân đội Cộng hòa
Nhân dân Campuchia còn rất yếu ớt nên không thể tự chống cự được, Việt
Nam buộc phải tiếp tục đóng quân tại Campuchia để bảo vệ chế độ Hun Sen
và truy quét Khmer Đỏ. Mùa khô 1984–1985, cuộc tấn công quyết định của
Việt Nam đã phá hủy các căn cứ chính của Khmer Đỏ, khiến Khmer Đỏ suy yếu
đi nhiều và khơng cịn đủ sức đe dọa chế độ mới của Campuchia.
Giai đoạn 4: Từ 1986 tới 1989: Sau chiến dịch mùa khô năm 1985, nhận thấy
chế độ Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã tự đứng vững được, từ năm 1986,
Việt Nam rút dần quân khỏi Campuchia và đến năm 1989 thì rút hết. Nhân
việc Việt Nam rút quân, các lực lượng tàn quân của Khmer Đỏ định tái hoạt
động, nhưng bị quân đội Hun Sen đánh bại. Khmer Đỏ dần tan rã, các lãnh
đạo bị bắt và bị đưa ra xét xử ở tòa án quốc tế.
Ý NGHĨA


- Đối với Việt Nam : Khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đồng thời thể
hiện tinh thần quốc tế cao cả giữa Đảng, Nhà nước, quân đội và
nhân dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia.
- Đối với nhân dân Campuchia : Xố bỏ hồn tồn chế độ diệt chủng Pơn Pốt, thành lập
chế độ Cộng hoà nhân dân Campuchia, bước kỉ nguyên độc lập tự
do, hồi sinh đất nước và xây dựng cuộc sống hồ bình, tươi đẹp.
- Đối với quốc tế : Thể hiện sức mạnh tinh thần đoàn kết quốc tế ; góp phần giữ vững
hồ bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
2 . Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 ( Chiến tranh biên giới Việt - Trung )
Là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi
Trung Quốc đưa qn tấn cơng Việt Nam trên tồn tuyến biên giới giữa 2
nước.
Chiến tranh biên giới Việt Trung năm 1979 bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng

kéo dài giữa hai quốc gia, kéo dài trong khoảng một tháng với thiệt hại về
người và tài sản cho cả hai phía.
TĨM TẮT
Rạng sáng ngày 17/2/1979, hơn 60 vạn quân Trung Quốc với 9 quân đoàn chủ
lực, 5 sư đoàn bộ binh độc lập và các trung đoàn địa phương, tổng cộng gồm 
32 sư đoàn bộ binh và bộ binh cơ giới, 2.558 khẩu pháo mặt đất, 550 xe tăng,
676 máy bay các loại, 2 sư đồn phịng khơng trong đó có nhiều dàn phóng hỏa
tiễn… đã bất ngờ mở cuộc tấn cơng xâm lược trên tồn tuyến biên giới phía Bắc
Việt Nam từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) dài hơn 1000
km, thuộc địa bàn 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam gồm: Quảng Ninh, Lạng
Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào
Cai, Yên Bái), Lai Châu (nay là Điện Biên và Lai Châu)…
Quân Trung Quốc đã bắn phá, tiêu hủy tất cả các cơ sở, kho tàng, nhà ở của ta ở
các thị xã, thị trấn và các làng bản, bắn giết vô cùng tàn bạo nhân dân ta, quân
Trung Quốc tiến sâu vào địa bàn các tỉnh Lạng Sơn, Lai Châu từ 10 -15 km,
tiến sâu vào đất Cao Bằng gần 50 km.
Trước sự tấn công bất ngờ của quan Trung Quốc, quân đội và nhân dân Việt
Nam, trực tiếp là dân quân, du kích và bộ đội địa phương ở 6 tỉnh biên giới phía
Bắc và tiếp đó là qn chủ lực được tăng cường, đã dũng cảm kiên cường chiến
đấu đánh bại quân Trung Quốc xâm lược, bảo vệ vững chắc từng tấc đất biên
giới thiêng liêng của Tổ quốc.


Ngày 18/3/1979, quân Trung Quốc bị thiệt hại nặng nề đã buộc phải rút quân về
nước. Tuy nhiên, tại một số điểm thuộc một số tỉnh ở khu vực biên giới, chiến
tranh vẫn còn tiếp diễn, đặc biệt ở mặt trận Vị Xuyên của tỉnh Hà Giang, những
trận đánh đẫm máu để giành giật từng điểm cao với những hy sinh vô cùng lớn
vẫn chưa chấm dứt, mà phải đến tháng 9/1989 chiến tranh mới thật sự kết thúc.
Ý NGHĨA
- Khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân dân Việt Nam quyết tâm vượt qua

mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc
 - Khẳng định về quyền tự vệ chính đáng của mình, kiên quyết đánh trả mọi cuộc
tiến cơng xâm phạm chủ quyền
- Khẳng định đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài
tình
Câu 4 :Tại sao Việt Nam phải tiến hành đổi mới? Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)?
 Lí do Việt Nam phải tiến hành đổi mới:
-

Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam được hồn
tồn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong niềm vui
chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước bắt tay vào khôi phục và
phát triển kinh tế, từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi cả nước.

+) Từ thời chiến chuyển sang thời bình, địi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy, thay đổi nội
dung và phương thức lãnh đạo cho phù hợp với tình hình mới. Nghị quyết Đại hội IV và
Đại hội V của Đảng đã đặt ra yêu cầu phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh, từng bước xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh. Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, đất nước vừa trải qua nhiều năm chiến
tranh, cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính mệnh lệnh đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi
người, việc đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với điều kiện mới
chưa được đặt ra một cách đúng mức. Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước, một mặt, tạo ra những thuận lợi vô cùng to lớn cho sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội; mặt khác, cũng tạo ra tâm lý chủ quan duy ý chí cản trở sự phát triển nhận
thức của Đảng. Trên nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề, tình trạng Đảng bao biện làm thay khá
nghiêm trọng, dẫn đến hệ thống chính trị bị xơ cứng, kém hiệu quả. Hoạt động của Nhà
nước và các đoàn thể quần chúng nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Tính độc lập, chủ



động của Nhà nước bị vi phạm, hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước bị hạn chế. Kinh tế
- xã hội thiếu năng động. Quyền làm chủ của Nhân dân không được coi trọng, phát huy
một cách thực chất.
-

-

Chiến tranh kết thúc, sự viện trợ của các nước anh em giảm dần và chuyển sang hợp
tác, trao đổi theo giá thị trường quốc tế. Các thế lực phản động quốc tế câu kết với
nhau chống phá quyết liệt cách mạng nước ta. Chiến tranh bùng nổ ở hai đầu biên
giới. Mỹ tiến hành cuộc bao vây, cấm vận nước ta ngày càng khắc nghiệt. Sau sự kiện
Campuchia, nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong quan hệ đối ngoại, vị thế đất nước
bị giảm sút trên trường quốc tế...
Do những sai lầm trong đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và quản lý kinh tế, tình
hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng khó khăn: tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp,
lạm phát phi mã, hiệu quả đầu tư hạn chế, đời sống nhân dân khơng được cải thiện,
thậm chí nhiều mặt cịn sa sút hơn... Đất nước dần lâm vào một cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng.

 Trước tình hình đó, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp từng bước tháo gỡ
khó khăn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IV về
phương hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương, tháo gỡ các
rào cản, làm cho sản xuất “bung ra”; Chỉ thị số 100-CT/TW (31-1-1981) của Ban
Bí thư khóa V về cải tiến cơng tác khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm lao
động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp...
 Tạo ra những bước đột phá nhất định, song vẫn không làm thay đổi được đáng kể
tình hình kinh tế - xã hội đất nước. Cuộc cải cách giá - lương - tiền năm 1985
không những khơng cải thiện được tình hình, mà cịn làm cho đời sống của Nhân

dân khó khăn hơn.

Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã được
triệu tập. Sau những ngày họp nội bộ (từ ngày 5 đến ngày 14-12-1986), từ ngày 15 đến
ngày 18-12-1986, Đại hội họp cơng khai. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đọc Diễn văn khai
mạc, đồng chí Trường Chinh đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, đồng chí Võ Văn Kiệt đọc Phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã
hội trong 5 năm 1986 - 1990.
 Nội dung cơ bản của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986):
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của đảng đã họp trong bối cảnh lịch sử đó. Nội dung cơ
bản của đại hội là: Đánh giá đúng thực trạng tình hình hiện nay của CMVN trên tất cả các
mặt thành tựu, tồn tại yếu kém, sai lầm, khuyết điểm và các nguyên nhân sâu xa của nó.
Từ đó, rút ra các bài học kinh nghiệm và hoạch định đường lối đổi mới công tác lãnh đạo
của đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học.


+) Đại hội đã tích cực chuẩn bị từ năm 1984 qua nhiều cấp, nhiều vịng. Dự thảo báo
cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương đảng sẽ đọc tại đại hội không những được
thảo luận trong các cơ sở đảng, mà còn được thảo luận rộng rãi trong giới trí thức, trong
các viện khoa học và được tổ chức thảo luận rộng rãi trong các tổ chức quần chúng nhân
dân.
Nội dung đại hội có những vấn đề nổi bật sau đây:
* Về đánh giá tình hình:
+) Trên tinh thần trách nhiệm cao và thái độ "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật". Đại hội đã nhận định: "5 năm qua là một đoạn đường đầy thử thách
đối với đảng và nhân dân ta. Cách mạng Việt Nam diễn ra trong bối cảnh quốc tế và
trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó khăn phức tạp. Nhân ta
đã đã anh dũng phấn đấu khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, đã đạt được những
thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế. Trong cả nước đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh khá, nhiều đơn vị

chiến đấu giỏi; Song tình hình kinh tế- xã hội và đời sống của nhân dân ta đang gặp nhiều
khó khăn gay gắt. Sản xuất tăng chậm, lưu thơng phân phối có nhiều rối ren, nền kinh tế
có nhiều mặt mất cân đối, hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm
trọng..."
+) Về nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém. Đại hội chỉ rõ: không đánh giá thấp
các nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan của các yếu kém nói trên là do
những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng và kéo dìa của sự lãnh đạo, quản lý của đảng
và nhà nước. Các khuyết điểm sai lầm ấy thể hiện cả trong chủ trương, chính sách lớn và
trong tổ chức chỉ đạo thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng dẫn đến sai lầm ấy là bệnh chủ
quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng
chủ quan, không tôn trọng quy luật khách quan, không chấp hành nghiêm chỉnh đường
lối và nguyên tắc của đảng. Đó là những biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản, vừa "tả"
khuynh, vừa hữu khuynh. Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực công tác tư
tưởng, tổ chức và cơng tác cán bộ củ đảng. Đó là ngun nhân của mọi nguyên nhân. Đại
hội xác định trách nhiệm đối với những sai lầm khuyết điểm đó trước hết thuộc về Ban
chấp hành Trung ương đảng và hội đồng bộ trưởng.
* Đại hội còn nêu lên 4 bài học kinh nghiệm lớn:
+) Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân
làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
+) Hai là, đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan.


+) Ba là, phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện
mới.
+) Bốn là, phải chăm lo xây dựng đảng trong sạch vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu
phát triển của giai đoạn lịch sử mới.
Bốn bài học kinh nghiệm trên có ý nghĩa rất lớn, nó khơng những là sự tổng kết kinh
nghiệm quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta qua mấy chục năm qua mà
còn là những định hướng rất cơ bản, mang tính quy luật cho đất nước ta xây dựng xã hội

chủ nghĩa trong các giai đoạn tiếp sau.
* Đại hội đã thông qua đường lối đổi mới:
+) Đại hội chủ trương đổi mới một cách tồn diện (cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, tổ chức...), trong đó đổi mới tư duy là cơ bản, đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới
với các hình thức và bước đi thích hợp. Đổi mới trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
+) Đại hội xác định: vấn đề quan trọng trước tiên là phải xác định lại mục tiêu cho sát
hợp với quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa.
+) Đại hội chỉ rõ: thời kỳ quá độ ở nước ta phải qua nhiều chặng đường. Trong đó,
chặng đường đầu tiên là một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn. Nhiệm vụ chủ yếu
của chặng đường đầu tiên là xây dựng những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cần thiết để
triển khai cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn
- Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại hội đã khẳng định:
"Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội ,tiếp tục xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo"
- Từ mục tiêu bao trùm đó, đại hội đã đề ra 5 mục tiêu cụ thể:
+) Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy;
+) Tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất;
+) Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới;
+) Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội
+) Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
- Để thực hiện mục tiêu nói trên, đại hội đã đề ra 1 hệ thống giải pháp: về bố trí cơ cấu
sản xuấ, cơ cấu đầu tư, về xây dựng và củng cố quan hệ sản xuấ mới, sử dụng cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế; về đổi mới cơ chế quản lý; về phát huy động lực của
khoa học-kỹ thuật; về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại...
Về phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đại hội chủ trương trước hết phải



xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới phù hợp với quy
luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế.
Trong hệ thống các giải pháp, đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức người, sức của
vào việc thực hiện 3 chương trình mục tiêu:
1- Chương trình lương thực, thực phẩm
2-Chương trình hàng tiêu dùng
3-Chương trình hàng xuất khẩu
Ba chương trình mục tiêu đó, chính là sự cụ thể hóa nội dung cơ bản của cơng nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta.
Tư tưởng chỉ đạo cốt lõi của đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có,
khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để
phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa.
Trong khi đặt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội lên hàng đầu, đại hội còn khẳng
định: toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta phải đề cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng
và an ninh, đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch, chủ động bảo vệ tổ
quốc trong mọi tình huống.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng đã bầu đồng chí Nguyên Văn Linh làm
tổng bí thư. Các đồng chí trường chinh, phạm văn đồng, Lê Đức Thọ được giao trách
nhiệm làm cố vấn cho ban chấp hành Trung ương đảng.
Câu 5 :Cơng cuộc Đổi mới tồn diện ở Việt Nam từ 1986-2021: chủ trương và thành tựu
trên các mặt: kinh tế- chính trị; văn hóa-xã hội; giáo dục-đào tạo; quốc phòng-an ninh;
quan hệ đối ngoại-hội nhập quốc tế…

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-121986. Dự Đại hội có 1129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng.
Đến dự Đại hội có 32 đồn đại biểu quốc tế.  - Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Uỷ viên Bộ
Chính trị đọc diễn văn khai mạc Đại hội.  - Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đọc Báo
cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.  - Đồng chí Võ Văn Kiệt - Uỷ viên Bộ

Chính trị đọc Báo cáo về phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội
trong 5 năm (1986-1990).  Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của
Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học. Đại hội nhận định: Năm năm qua là một
đoạn đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều
khó khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội thứ V đề ra, nhân
dân ta đã anh dũng phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ


quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Đại hội cũng nhận rõ: Tình hình kinh tế - xã hội đang có
những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân
phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được
thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao
động cịn nhiều khó khăn… Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng
quát do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định
đời sống nhân dân.  Về nguyên nhân dẫn đến tình hình trên, Đại hội nhấn mạnh trong
những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của
đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến nhiều sai lầm “trong việc xác định
mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
quản lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và
tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.  Từ
thực tiễn, Đại hội nêu lên những bài học quan trọng. Một là, trong tồn bộ hoạt động
của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo
quy luật khách quan là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải
biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn
là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền lãnh đạo

nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.  Trên cơ sở phân tích, đánh giá
tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết điểm, đổi mới tư lý luận trải
qua nhiều tìm tịi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới.  - Trước
hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông
nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ
tầng; cơ cấu kinh tế huyện).  - Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình
lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.  Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế.  Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa
trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích
hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi
nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công
cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây
dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội
chủ nghĩa.  Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa; thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự
túc. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách xã hội, kế hoạch hố dân số và giải quyết
việc làm cho người lao động. Chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và


tăng cường sức khoẻ của nhân dân. Trên lĩnh vực đối ngoại nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước ta là ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững
hồ bình ở Đơng Dương, góp phần tích cực giữ vững hồ bình ở Đông Nam Á và trên thế
giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác tồn diện với Liên Xơ và các nước trong
cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dự.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng

Nguy cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh

cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp,
lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi. 
Cách mạng khoa học và cơng nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng
nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế
giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. 
Bối cảnh quốc tế nói trên, có ảnh hưởng lớn đến công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. 
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều thành
tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện
một bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc
phịng, an ninh được củng cố. Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được nhiều
tiền đề cần thiết cho cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. 
Bên cạnh những thành tựu dạt được, nước ta cũng phải đối đầu với nhiều thách thức
như nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế, “diễn biến hồ bình”; tệ quan liêu, tham nhũng; nguy
cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Tình hình thế giới và thực tiễn công cuộc đổi mới đặt
ra cho Đảng ta những nhiệm vụ và bước đi mới. 
Trong hồn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam
diễn ra từ ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198
đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả nước. 
Sau bốn ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Đại hội đã thông qua những văn kiện
quan trọng sau đây: 
1. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII. 


2. Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000. 
3. Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi). 
4. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Các văn kiện nêu trên bao gồm những nội dung cơ bản sau: 
Báo cáo Chính trị đã đánh giá 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VII như sau: 
Về thành tựu, văn kiện khẳng định chúng ta đã giành được 5 thành tựu quan trọng: 

l. Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu
của kế hoạch 5 năm. 
2.Tạo được mọt số chuyển biến tích cực về mặt xã hội. 
3. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phịng, an ninh. 
4. Thực hiện có hiệu quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị. 
5. Phát triển mạnh mối quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực
vào đời sống cộng đồng quốc tế. 
Cùng với việc đánh giá đóng thành tựu, Đảng ta cũng chỉ rõ những khuyết điểm và yếu
kém: 
1. Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản
xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển. 
Nhà nước cịn thiếu chính sách để huy động có hiệu quả nguồn vốn trong dân. Sử dụng
nguồn lực còn phân tán, kém hiệu quả, chưa kiên quyết tập trung cho các chương trình,
dự án kinh tế - xã hội cấp thiết. 
2. Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Nạn tham
nhũng, bn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà


nước, đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực nhà
đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu... nghiên trọng kéo dài. Việc
làm đang là vấn đề gay gắt. Sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và
nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. 
3. Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa bng lỏng.
Chậm tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn. 
4. Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, các hoạt động khoa học và công nghệ, bảo vệ tài
nguyên và môi trường sinh thái, giáo dục, đào tạo, thơng tin, báo chí, xuất bản, văn
hố,văn nghệ chưa tốt. 
5. Hệ thống chính trị cịn nhiều nhược điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đại của Đảng,

hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đồn thể chính
trị, xã hội chưa nâng lên kịp với địi hỏi của tình hình. 
Đánh giá tổng quát sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội VII Báo cáo Chính trị khẳng định đất nước đã vượt qua một giai
đoạn thử thách gay go và đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. 
“Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII, đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn
thành về cơ bản. 
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững
chắc. 
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị những tiền đề cho
cơng nghiệp hố đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. 
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới, những xu thế chủ
yếu trong quan hệ quốc tế, nêu rõ những thời cơ và thách thức lớn, Đại hội định ra mục
tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020 của sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá đất nước là: tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và xây dựng nước ta thành



×