Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.14 KB, 27 trang )

Mục lục
lời mở đầu
chơng I:cơ sở lý luận của vấn đề phân phối ở nớc ta hiện nay
1.1:Quan hệ phân phối lên thời kỳ quá độ ở Việt Nam
1.2:Phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.3:Vai trò của chính phủ trong phân phối thu nhập
ChơngII:thực trạng của quan hệ phân phối và các giải pháp
nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nớc ta hiện nay
2.1:Thực trạng quan hệ phân phối
2.2:Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nớc ta hiện nay
kết luận
trang
1
lời mở đầu
Nền kinh tế nớc ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần định hớng
XHCN, đang trong quá trình chuyển đổi. Trong nền kinh tế đó sự chi phối của
các quan hệ kinh tế (Quy luật kinh tế ) là một tất yếu Khách quan. Trong đó phân
phối đóng một vị trí hết sức quan trọng. Nhng do khả năng có hạn của sinh viên
năm thứ hai nên tôi chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề Phân Phối Thu nhập ở nớc ta
hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trờng Phân Phối thu nhập đóng vai trò quan trọng
trong quá trình Phát triển kinh tế. Nó nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với
tiêu dùng, thị trờng hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ với thị trờng yếu tố sản xuất, làm
cho sự vận động của nền kinh tế thị trờng diễn ra thông suốt.
Thực tiễn sau hơn 10 năm đổi mới. Nến kinh tế nớc ta đã có nhiều thay
đổi. Thực tế cho thấy muốn đem lại nhiều hiệu quả cho nền kinh tế thì chúng ta
càng phải nghiên cứu kĩ lỡng các vấn đề thuộc lĩnh vực phaan phối thu nhập nh:
tiền lơng, lợi nhuận, lợi tức, địa tô cho phù hợp với cơ chế thị trờng, cũng nh các
tác động của chúng đối với sự phát triển kinh tế của nớc ta hiện nay.
Chính vì những tầm quan trọng đó của phân phối nên tôi đã viết đề tài
Quan hệ phân phối ở n ớc ta hiện nay. Mặc dù đã cố gắng nhng không thể


tránh khỏi thiếu xót,. Tôi rất mong đợc thầy cô và các bạn góp ý. Cuối cùng tôi
xin chân thành cảm ơn Thầy giáo T.S. Trần Việt Tiến đã tận tình hớng dẫn, giúp
đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Hà Nội:ngày 29 tháng2năm 2003
SV:Phạm Văn Huận

2
chơng I: cơ sở lý luận của vấn đề phân phối ở
nớc ta hiện nay
1.1: Quan hệ phân phối trong thời kì quá độ nên Chủ Nghĩa Xã Hội
(CNXH) ở nớc ta:
1.1.1: Bản chất của vị trí và phân phối:
Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội
Quá trình tái sản xuất xã hội, theo nghĩa rộng, bao gồm 4 khâu: sản xuất,
phân phối,trao đổi và tiêu dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó sản xuất là khâu cơ bản đóng vai trò quyết định; các khâu khác phụ
thuộc vào sản xuất nhng chúng có quan hệ trở lại đối với sản xuất cũng nh anhr
hởng lẫn nhau. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, phân phối là trao đổi là các
khâu trung gian nối sản xuất và tiêu dùng, vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất, vừa
phục vụ tiêu dùng.
Phân phối bao gồm: phân phối cho tiêu dùng sản xuất ( sự phân phối t liệu
sản xuất, sức lao động của xã hội vào các ngành sản xuất ) là tiên đề, điều kiện và
là một yếu tố sản xuất, nó quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản
xuất.Phân phối thu nhập quốc dân hình thành thu nhậpcủa các tầng lớp dân c
trong xã hội.Phân phối thu nhập là kết qủa của sản xuất,do sản xuất quyết định
tuy là sản vật của sản xuất,xong sự phân phối có ảnh hởng không nhỏ đối với sản
xuất:có thể thúc đẩy hoặc kìm hẵm sự phát triển của sản xuất.Ph.Ăngghen
viết:Phân phối không chỉ đơn thuần là kết quả thụ động của sản xuất và trao
đổi:nó cũng là tác động trở lại của sản xuất đến trao đổi.Nó cũng liên quan mật
thiết với việc ổn định tình hình kinh tế-xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.

Nh vây phân phối là phân phối tổng sản phẩm xã hội và phân phối thu
nhập quốc dân và nó đợc thực hiện dới các hình thái;phân phối hiện vật và phân
phối dới hình thức giá trị(phân phối qua quan hệ tài chinh,quan hệ tín dụng..)
Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất.
C.Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi
quan hệ sản xuất:quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản
xuất ấy rằng chúng cấu thành mặt sau của quan hệ sản xuất ấy.Xét về quan hệ
3
ngời và ngời thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định.Vì vậy mỗi phơng thức
sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó.Quan hệ sản xuất
nh thế nào thì quan hệ phân phối nh thế ấy.Cơ sở của quan hệ phân phối là quan
hệ sở hữu về t liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau.Sự biến đổi
lịch sử của lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan
hệ phân phối.Quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu và do
đó đối với sản xuất:Có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu,và do đó đối với
sản xuất có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu,hoặc cũng có thể làm biến
dạng tính chất của quan hệ sở hữu.Các cơ quan phân phối vừa có tính đồng nhất
vừa có tính lịch sử.Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ,trong bất cứ xã hội nào ,sản
phẩm lao động cũng đợc phân chia một bộ phận cho tiêu dùng sản xuấ,một bộ
phận để dự trữ và một bộ phận cho tiêu dùng chung của xã hội và cho tiêu dùng
cá nhân.Tính lịch sử của quan hệ phân phối là mỗi xã hội có quan hệ phân phối
riêng phù hợp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội đó.Nghĩa là quan hệ
phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất,và cũng nh quan hệ sản xuất,quan hệ
phân phối cũng có tính chất lịch sự.CMác viết: quan hệ phân phối nhất định chỉ
là biểu hiện của một quan hệ sản xuất lịch sử nhất định. Do đó mỗi hình thái
phân phối đều biến đi cùng một lúc với phơng thức sản xuát nhất định tơng uứng
với hình thái phân phối ấy. Chỉ thay đổi đợc quan hệ phân phối khi đã cách mạng
hoá đợc quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy. Phân phối có tác động rất
lớn đối với sản xuất nên nhà nớc cách mạng cần sử dụng phân phối nh là một
công cụ để xây dựng chế độ mới, để phát triển kinh tế theo định hớng XHCN.

1.1.2: Các hình thức phân phối chủ yếu và cơ bản
Phân phối theo lao động
Tính tất yếu của việc phân phối theo lao động
Đối với nớc ta, trong bớc qua độ hiện nay, hình thức phân phối theo lao
động là hình thức phân phối căn bản,là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp
nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sơ hữu công hữu về t liệu sản
xuất.Trong thành phần kinh tế này,tất cả mọi ngời đều có quyền bình đẳng đôi
với t liệu sản xuất thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những ngời lao động với
nhau thông qua việc lấy lao động làm thớc đo.Đối với thành phần này phân phối
theo lao độnglà một sự tất yếu,bởi nhiều nguyên nhân:
4
Một là:Do dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về t liệu sản xuất mà chế độ
ngời bóc lột ngời bị xoá bỏ.Quyền làm chủ của ngời lao động về mặt kinh tế đợc
xác lập.Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật
chất của mỗi ngời.Chính vì những lý do đó mà phân phối theo lao động là phù
hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế này.
Hai là:Hiện tại ở nớc ta vẫn còn có sự khác biệt giữa các loại lao động nh
lao động trí óc,lao động chân tay,lao động phức tạp,lao động giản đơn...Do vậy
mà cùng một đơn vị thời gian,những lao động khác nhau đa lại những kết quả ít
nhiều,tốt xấu khác nhau.Do đó cần dựa vào kết quả lao động để phân phối.Mặt
khác trong xã hội nớc ta hiện nay vẫn còn những ngời muốn trút bỏ gánh nặng
cho ngời khác,trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp với tình
hình xã hội kể trên.
Ba là:trong điều kiện của nớc ta hiện nay,nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng
lạc hậu,nghèo nàn cha đạt đến mức độ có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu
cầu.Trong điều kiện lợng sản phẩm có hạn để phân phối công bằng cần phải dựa
vào kết quả lao động của từng ngời.Hơn nữa lao động cha trở thành nhu cầu tự
nhiên của con ngời,nó còn là phơng kế sinh nhaicủa mỗi ngời.Trong tình hình
đó phân phối theo lao động là phù hợp với điều kiện xã hội nớc ta.
Tóm lại phân phối theo lao động là phù hợp với chế độ công hữu về t liệu

sản xuất,sản xuất,phù hợp với trình độ phát triển kinh tế của đât nớc.Chính vì vậy
thực hiện phân phối theo lao động có tác dụng thúc đẩy sản xuất ngày càng phát
triển vì nó là hình thức phân phối cơ bản và chủ yếu của nớc ta hiện nay.
Yêu cầu và tác dụng của phân phối theo lao động.
Để thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao động,đòi hỏi việc trả
công lao động phải căn cứ vào số lợng và chất lợng lao động của mỗi ngời,phải
trả công bằng nhau cho các lao động ngang nhau,trả công khác nhau cho lao
động khác nhau không phân biệt nam,nữ,tuổi tác và dân tộc.
Tất nhiên nguyên tắc phân phối theo lao động gắn liền với yêu cầu đảm
bảo công ăn việc làm cho những ngời có năng lực lao động,và không thể thoát ly
yêu cầu đảm bảo cơ bản về đời sống vật chất,tinh thần của tất cả mọi ngời lao
động.Mặt khác phải giải quyết giữa nguyên tắc lợi ích vật chất với việc động viên
tinh thần,t tởng đối với lao động.Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt các yêu câu đó thì
5
việc phân phối theo lao động mới phát huy đầy đủ các tác dụng thúc đẩy xã hội
phát triển.
Để quán triệt yêu cầu của nguyên tác phân phối theo lao động,cần chống
hai sai lầm phổ biến:
Thứ nhất là chủ nghĩa bình quân tiểu t sản trong việc trả công lao động,vì
nó gạt bỏ hoàn toàn nguyên tắc lợi ích vật chất.Nó chẳng những không kích thích
lao động sản xuất mà còn khuyến khích t tởng chây lời lao động phát triển.
Thứ hai là khuynh hớng đòi mở rộng quá mức khoảng cách giữa các bậc l-
ơng,thang lơng một cách không có căn cứ kinh tế và đòi hỏi có sự u đãi đặc biệt
đối với một số ít ngời.
Thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao động sẽ có nhiều tác dụng to
lớn đối với xã hội và bản thân ngời lao động.
Một là :nó đáp ứng đợc những đòi hỏi cấp bách của sự công bằng xã hội
đang đặt ra ở nớc ta,nó kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích của ngời sản xuất và lợi ích
của từng cá nhân ngời lao động
Hai là:nó khuyến khích ngời lao động đi sâu vào nghề nghiệp chuyên

môn,làm cho đội ngũ những ngời lao động lành nghề ngày càng đông đảo.Điều
đó còn thúc đẩy lao động ra sức học tập văn hoá và kỹ thuật,góp phần làm cho sự
khác nhau giữa lao động trí óc và lao động chân tay bị xoá bỏ dần.
Ba là:tao điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng nguồn sức lao động đợc
ổn định trong cả nớc,đảm bảo cho sản xuất xã hội phát triển cân đối và có kế
hoạch
Bốn là:góp phần giáo dục về quan điểm,thái độ và kỷ luật lao động đối với
mỗi thành viên xã hội.Nó làm cho mỗi ngời lao động vì lợi ích vật chất của bản
thân mà quan tâm đến kết quả lao động của mình,từ đó mà ra sức đẩy mạnh sản
xuất.
Phân phôi theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác.
Nền kinh tế nớc ta đang trong bớc quá độ định hớng lên CNXH .Với cơ
cấu nền kinh tế nhiều thành phần,nên tất yếu có nhiều hình thức sở hữu về t liệu
sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình thức sản xuất kinh doanh khác nhau
Một đặc điểm khá rõ nét của nớc ta trong quá độ định hớng lên CNXH từ
một nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn,quá trình sản
6
xuất,tích tụ và tập trung vốn cha cao,một phần tơng đối lớn vốn sản xuất hiện nay
vẫn còn nằm rải rác,phân tán trong tay ngời lao động t hữu nhỏ,t sản nhỏ trong đó
có cả dới dạng t liệu sản xuất,vàng bạc ngoại hối và tiền mặt ...
Để có thể sử dụng đợc nguồn vốn đó cho sản xuất xã hội chúng ta không
thể sử dụng các chính sách áp đặt nh trng thu,trng mua hay đóng góp cổ phần một
cách bình quân.Vì tất cả các cách làm đó đều dẫn đến một kết quả chung là làm
suy yếu lực lợng sản xuất vốn có của xã hội.
Từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ơng (khoá VI),
ở nớc ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn nh một số đơn vị kinh tế quốc
doanh và tập thể đã huy động vốn của dân c dới các hình thức vay vốn, hùn vốn
và góp vốn cổ phần không hạn chế, với mức lãi hợp lý v.v....Cach làm nh vậy đã
có tác dụng đa đợc vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nguồn vôns tự

có. Nh vậy, mặc dù sở hữu vốn là t nhân, nhng việc sử dụng vốn đã mang tính xã
hội.
Thích ứng với điều kiện cụ thể của nớc ta trong bớc quá độ, xét trên mặt
lợi ích kinh tế, chính trị và nhiệm vụ phát triển đất nớc, cần tạo đủ điều kiện pháp
lý để các thành phần kinh tế, t nhân cá thể và tất cả mọi thành viên xã hội yên
tâm và mạnh dạn đầu t vốn vào sản xuất kinh doanh. Đại hội lần thứ VI của Đảng
nhấn mạnh: cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối
với các thành phần kinh tế. Những qui định có tính chất nguyên tắc phải trở thành
pháp luật để mọi thành viên xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu t vốn vào sản xuất
kinh doanh. Với quan điểm đổi mới đó, cần phải xem việc phân phối kết quả sản
xuất kinh doanh theo vốn va theo tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá trình
sản xuất xã hội dới hình thức lợi tức và lợi nhuận, là một hình thức phân phối
hợp pháp và đợc sự bảo hộ của pháp luật đối với những thu nhập hợp pháp đó.
Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quũy phúc lợi xã hội
Phân phối lao động và phân phôis theo tài sản và vốn đều là tất yếu khách
quan trong quá độ hiện nay ở nớc ta, vì các hình thức phân phối đó đều nhằm
mục đích thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển và tạo lập sự công bằng xã hội
giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhng trong điều kiện cụ thể ở nớc ta hiện nay,
ngoài những ngời có sức khoẻ đang làm việc và đợc trả công theo lao động,
7
những ngời có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để đợc nhận lợi tức
và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có nững ngời vì lẽ này lã khác, không thể tham
gia vào lao động đợc trả công của xã hội. Đời sống số đông ngời này là dogia
đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác, ngay mức sống của cán bộ, công nhân
viên chức Nhà nớc và những ngời làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế
cũng khoong phải dựa vào tiền công cá nhân, mà còn dựa một phần vào các quỹ
phúc lợi công cộng của Nhà nớc, của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã
hội khác.
Với đặc điểm đó, ở nớc ta hiện nay ngoài phân phối theo lao động, theo tài
sản và theo vốn thì xã hội còn áp dụng hình thức phân phối ngoài thù lao lao

động, thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo lao
động, nhng cũng cha phải là phân phối theo nhu cầu nh trong giai đoạn cao của
chủ nghĩa cộng sản mà C.Mác đã dự đoán. Đây là một hình thức phân phối quá
độ, nó phù hợp với xu hớng phát triển của xã hội.
Hình thức phân phối này là một sự bổ sung cần thiết và quan trọng đối với
nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp nhất với việc thoả mãn những
nhu cầu công cộng của xã hội. Nó có lợi trớc hết cho những gia đình mà thù lao
lao động tính theo đầu ngời tơng đối thấp. Nó chẳng những bảo đảm cho tất cả
mọi thành viên xã hội đều có mức sống bình thờng tối thiểu mà con có tác dụng
kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên
trong xã hội.
Bằng những tác dụng to lớn của hình thức phân phối này, nó khăng định
việc xây dựng các quỹ phúc lợi xã hội là làm việc rất cần thiết và ngày càng có ý
nghĩa to lớn.
Trong điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của nớc ta hiện nay, Đang ta
rất coi trọng việc mở rộng dần các sự ngiệp phúc lợi xã hội. Trong việc giải quyết
những vấn đề xã hội, Đại hội VII của Đảng nêu bật 2 quan điểm lớn:
Một là, coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển xã hội là vì con
ngời, do con ngời, đặt con ngời vào vị trí trung tâm của các chính sách và chơng
trình xã hội; khơi dậy môi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể và cả cộng
đồng côi trọng lợi ích cá nhân ngời lao động, xem đó là động lực trực tiếp để phát
triển kinh tế- xã hội.
8
Hai là, đảm bảo sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã
hội. Mục tiêu của chính sách xã hội. Mục tiêu của chính sách xã hội cvà chính
sách kinh tế là thống nhất, tất cả cì mội ngời. Phát triển kinh tế là điều kiện để
thực hiện chính sách xã hội, nhng chính sách xã hội lạ là sự cụ thể hoá mục đích
của các hoật động kinh tế.
Trong khi năng suất lao động xã hội còn thấp, nguồn thu ngân sách Nhà n-
ớc còn bị hạn chế, cần phải xã hội hoá việc giải quyết những vấn đề chính sách

xã hội, phải huy động mọi khả năng của Nhà nớc và nhân dân, trung ơng và từng
địa phơngcùng làm.
Hình thức phân phối ngoài thù lao lao động qua các quỹ phúc lợi xã hội là
một hình thức quá độ, nó có vai trò to lớn trong quá trình phát triển xã hội ở nớc
ta hiện nay.
1.2: Phân phối trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
1.2.1:Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân phối
thu nhập trong thời kì quá độ lên CNXH ở ViệtNam.
Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan từ đăc diểm kinh
tế- xã hội nớc ta, trong thời kì quá độ lên CNXH ở nớc ta tồn tại nhiều hình thức
phân phối thu nhập. Đó là vì:
Thứ nhất, nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình
thức sở hữu khác nhau.
Thứ hai, trong nền kinh tế nớc ta còn tồn ại nhiều phơng thức kinh doanh
khác nhau.
Nên kinh tế nớc ta là nền kinh tế thị trờng định hớng XHCH. Trong nền
kinh tế này, có nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế
tham gia.Mỗi thành phần kinh tế có phơng thức tổ chức sản xuất- kinh doanh
khac nhau. Ngay trong mỗi thời kỳ, kể cả thành phần kinh tế nhà nớc cũng có các
phơng thức kinh doanh khác nhau, do đó, kết quả và thu nhập là khác nhau.
Hơn nữa, trong điều kiện của nền kinh tế thị trờng, các chủ thể sản xuất,
kinh doanh tham gia vào nền kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu của cải, tiền
vốn, trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trờng, thậm chí khac nhau cả sự
may mắn... Do đó, khác nhau về thu nhập.
9
Vì vậy, không thể có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái lại
có nhiều hình thức khác nhau.
1.2.2:Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kì quá độ lên
CNXH
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định và Đại

hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định điều đó: Thực hiện nhiều hình
thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế chủ yêú,
đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản
xuất- kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa tren cơ
sở sở hữu công cộng về t liệu sản xuất (kinh tế nhà nớc) hoặc các hợp tác xã cổ
phần mà phần góp vốn của các thành viên bằng nhau (kinh tế hợp tác). Các thành
phần kinh tế này đều dựa trên chế độ công hữu XHCN về t liệu sản xuất ở các
trình độ khác nhau. Ngời lao động làm chủ ngững t liệu sản xuất, nên tất yếu
cũng làm chủ phân phối thu nhập. Vì vậy, phân phối phải là lợi ích của ngời lao
động.
Trong thời kì quá độ lên CNXH và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ
nghĩa cộng sản, tức là CNXH cũng cha thể thực hiện phân phối theo nhu cầu và
cũng không thể phân phối bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động.
Tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế
thuộc thành phần kinh tế dựa tren cơ sở công hữu về t liệu sản xuất là vì:
- Lực lợng sản xuất phát triển cha cao, cha đến mức có đủ sản phẩm để
phân phối theo nhu cầu. Vì phân phối do sản xuất quyết định, cho nên C.Mác đã
viết: Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát
triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định.
- Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi ngời có sự
cống hiến khác nhau, do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội
của mỗi ngời để phân phối.
- Lao động cha trở thành một nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phơng tiện
để kiếm sống, là nghĩa vụ và quyền lợi. Hơn nữa, còn những tàn d ý thức, t tởng
của xã hoịo cũ để lại, nh: coi khinh lao động, ngại lao động chân tay, chây lời,
thích làm ít hởng nhiều, so bì giữa cống hiến và hởng thụ...
10

×