Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo " Góp phần xây dựng luận cứ cho việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.18 KB, 8 trang )



góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
20 - Tạp chí luật học




PGS.TS. Lê Minh tâm *
1. Hiến pháp đợc coi là đạo luật gốc của
một nớc. Nhìn lại lịch sử hình thành và phát
triển của hiến pháp thì từ "hiến pháp" có
nguồn gốc La-tinh (constitutio), có nghĩa là
thiết lập (xác lập), cơ cấu. Trớc đây, ở La
M đ có các quy định đợc ban hành dới
hình thức constituo và đợc coi là nguồn
quan trọng nhất của pháp luật. Sau này, khi
bản hiến pháp hiện đại đầu tiên ra đời (1787)
thì chữ constitution trong tiếng Anh đ đợc
dùng với hàm nghĩa rộng hơn. Cùng với thời
gian, quan niệm hiến pháp là đạo luật gốc,
đạo luật nguồn đ trở nên chật hẹp vì cha
nói hết đợc ý nghĩa và vai trò của hiến
pháp. Các nhà chính trị học, triết học và luật
học bắt đầu đi tìm những cách biểu đạt mới
để nói về hiến pháp. Nhóm từ "luật cơ bản
của một nớc" đ đợc tìm ra và đợc sử
dụng để nói lên tính chất, vai trò và chức
năng x hội của hiến pháp với nghĩa hiến
pháp đợc coi là đạo luật khác thờng, có giá
trị pháp lí cao hơn và có tính quyết định đối


với các đạo luật khác và đối với hệ thống
pháp luật của nhà nớc nói chung. Tuy
nhiên, nhóm từ mới này cũng vẫn đợc dùng
kết hợp với từ "luật gốc" để diễn đạt cho đủ
nghĩa. Sự phát triển của x hội hiện đại đ
dẫn đến nhu cầu phải mở rộng nội dung của
hiến pháp và một lần nữa xung quanh khái
niệm hiến pháp lại có những câu hỏi mới
đợc đặt ra nh Hiến pháp có phải chỉ là đạo
luật cơ bản của một nớc? Hiến pháp có
những giá trị x hội nào và chức năng x hội
của hiến pháp là gì? Tình hình đó đ đòi
hỏi phải có sự nhận thức rõ hơn về khái niệm
hiến pháp. Trong chính trị học, luật học và
một số lĩnh vực khác đ xuất hiện những ý
kiến khác nhau. Theo chúng tôi, hiến pháp
cần đợc quan niệm là loại văn bản chính trị
- pháp lí đặc biệt. Tính chính trị và tính pháp
lí là hai mặt của thể thống nhất, phản ánh
tính chất của hiến pháp và quán xuyến toàn
bộ nội dung của hiến pháp. Khi nói về khái
niệm hiến pháp cần đề cập những vấn đề cơ
bản sau đây:
- Về tính chất, hiến pháp phản ánh tập
trung nhất bản chất của chế độ, trong đó có
chế độ nhà nớc; là văn bản duy nhất quy
định bản chất, nội dung và phơng thức tổ
chức quyền lực chính trị, trong đó có quyền
lực nhà nớc và bộ máy của quyền lực nhà
nớc với t cách là chỉnh thể và hiến pháp là

văn bản duy nhất quy định mối quan hệ giữa
nhà nớc và cá nhân với t cách là hai chủ
thể ở mức phổ quát nhất.
- Về nội dung, hiến pháp có nội dung bao
quát bao gồm ba loại nguyên tắc và quy định
hợp thành là các nguyên tắc và quy định
mang tính ghi nhận, phản ánh, tuyên bố; các
nguyên tắc và quy định để điều chỉnh các
* Trờng đại học luật Hà Nội


góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
Tạp chí luật học - 21

quan hệ cơ bản và các nguyên tắc, quy định
mang tính định hớng.
- Về vai trò, hiến pháp là văn bản tuyên
bố công khai thể chế chính trị x hội, chủ
quyền quốc gia, quyền lực nhân dân, là cơ sở
để xác lập và giải quyết mối quan hệ giữa
các lực lợng, các giai tầng x hội; là cơ sở
để giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại.
Về mặt pháp lí, hiến pháp là cơ sở để hình
thành nên hệ thống pháp luật của mỗi quốc
gia, vì vậy nó luôn giữ vai trò chủ đạo, tất cả
các văn bản pháp luật dới hiến pháp đều
không đợc trái với nó.
- Về chức năng, hiến pháp có ba chức
năng cơ bản là phản ánh, điều chỉnh và định
hớng. Với chức năng thứ nhất, hiến pháp

phản ánh (ghi nhận) những thành quả đạt
đợc của đất nớc trong giai đoạn lịch sử
nhất định; xác định tình hình chính trị, kinh
tế, văn hoá, x hội trong giai đoạn tồn tại của
hiến pháp. Với chức năng thứ hai, hiến pháp
quy định những nguyên tắc và quy định về tổ
chức bộ máy nhà nớc, về mối quan hệ giữa
nhà nớc với các tổ chức chính trị trong hệ
thống chính trị và về mối quan hệ giữa nhà
nớc với cá nhân với t cách là hai chủ thể
chung nhất và giữa nhà nớc với công dân.
Với chức năng thứ ba, hiến pháp xác định
những định hớng về chính sách đối nội và
đối ngoại, về những chủ trơng phát triển
kinh tế, văn hoá, x hội
Từ những điều nêu trên và thực tiễn đ
cho thấy, vợt lên trên tất cả các văn bản luật
thông thờng, hiến pháp có những giá trị to
lớn và thiêng liêng, vì vậy mỗi khi có sự sửa
đổi, bổ sung hiến pháp, dù chỉ là một số điều
cũng đều thu hút sự quan tâm của các cấp,
các ngành, các giới và các tầng lớp nhân dân.
2. Do hiến pháp có những đặc điểm đó
nên về mặt kĩ thuật pháp lí cũng có những
đặc thù riêng để bảo đảm cho hiến pháp có
nội dung vừa bao quát vừa cụ thể; vừa có tính
ổn định lâu dài lại vừa có tính linh hoạt để có
thể sửa đổi, bổ sung kịp thời khi cần thiết.
Những nguyên tắc, quy định phản ánh, ghi
nhận và định hớng thờng đòi hỏi phải có

các hình thức biểu hiện mang tính khái quát
hoá rất cao; còn đối với những nguyên tắc,
quy định điều chỉnh thì lại đòi hỏi phải có
tính cụ thể để có thể điều chỉnh ngay những
mối quan hệ cơ bản nhất và tạo cơ sở pháp lí
cho việc hình thành hệ thống văn bản pháp
luật dới hiến pháp một cách thống nhất,
đồng bộ. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung hiến
pháp là công việc phải làm kịp thời khi có
nhu cầu thực sự. Nhng việc sửa đổi cơ bản
hoặc xây dựng mới hiến pháp chỉ đợc đặt ra
vào những thời điểm có tính chất bớc ngoặt,
khi tình hình chính trị, kinh tế, x hội có
những biến đổi sâu sắc và toàn diện đòi hỏi
phải có sự sửa đổi, bổ sung những vấn đề
mang tính bản chất, có liên quan đến cả ba
loại các nguyên tắc và quy định nói trên của
hiến pháp.
Nhìn một cách toàn diện về nội dung của
Hiến pháp năm 1992 và những yêu cầu đặt ra
hiện nay, việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Hiến pháp năm 1992 mà trọng tâm là sửa
đổi một số điều có liên quan đến bộ máy nhà
nớc là rất cần thiết nhng cha đến mức
phải sửa đổi cơ bản. Tuy nhiên, ở đây cũng
cần quan niệm rõ hơn về sửa đổi cơ bản và
sửa đổi, bổ sung một số điều của hiến pháp.
Theo chúng tôi, có thể chỉ sửa rất ít điều
nhng nếu những điều đó có liên quan đến
những vấn đề bản chất thì cũng là sửa đổi cơ



góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
22 - Tạp chí luật học

bản và ngợc lại có thể sửa đổi nhiều điều
nhng cũng không phải là sửa đổi cơ bản. Vì
vậy, vấn đề đặt ra không phải là sửa đổi, bổ
sung bao nhiêu điều mà là sửa đổi, bổ sung
điều nào, vấn đề gì và có thực sự cần thiết
hay cha?
3. Nhìn tổng quan, trong số những điểm
mà Uỷ ban sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp năm 1992 đa ra để lấy ý kiến kì
này, trong đó có Lời nói đầu và 32 điều, có
thể rút ra mấy nhận xét sau:
- Ngoài phần bổ sung một đoạn vào Lời
nói đầu, có 7 điều dự kiến chỉ có sự sửa đổi
nhỏ về thuật ngữ: thay chữ viên chức thành
công chức (Điều 8, 9, 12), bổ sung thêm chữ
cán bộ thành cán bộ, công chức (Điều 56,
63, 96) hoặc thêm chữ công nhân thành công
nhân, cán bộ, công chức (Điều 10);
- Có 25 điều dự kiến có bổ sung sửa đổi
về nội dung có một số điều (11) đ đa một
số vấn đề theo quan điểm Nghị quyết Đại hội
Đảng IX (Điều 2, 3, 12, 15, 16, 19, 21, 24,
35, 36, 37) nhng dờng nh còn cha đợc
"gia công" để biến thành những quy định
mang tính đặc thù của hiến pháp.

- Những điều còn lại tập trung để sửa đổi,
bổ sung các quy định về bộ máy nhà nớc:
đối với Quốc hội có 4 điểm (Điều 84); đối
với Uỷ ban thờng vụ Quốc hội có 1 điểm
(Điều 91); đối với Chủ tịch nớc có 3 điểm
(Điều 103); đối với Chính phủ có 3 điểm
(Điều 112, 114 và 116); đối với toà án nhân
dân có 2 điểm (Điều 128 và 131) và đối với
viện kiểm sát nhân dân có 3 điểm (Điều
137, 138 và 140). Cảm nhận chung, các điểm
sửa đổi này đều xuất phát từ nhu cầu thực tế
và bức xúc đang đặt ra hiện nay. Tuy nhiên,
còn có nhiều vấn đề phải bàn thêm cho rõ để
góp phần xây dựng luận cứ cho việc xác định
đúng mức độ và cách thể hiện cho phù hợp.
Đồng thời, cũng có một số vấn đề đ chín
muồi đề nghị cần đợc xem xét thêm.
4. Đi vào các điều cụ thể của Dự án sửa
đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm
1992 xin đợc góp một số ý kiến sau:
4.1. Về Lời nói đầu: Từ năm 1986 đến
nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nớc
do Đảng khởi xớng và lnh đạo đ đạt đợc
những thành tựu rất quan trọng. Những quan
điểm, đờng lối đợc đề ra từ Đại hội lần thứ
VI là hết sức đúng đắn nhng qua các kì Đại
hội VII, VIII và nhất là Đại hội IX, những
quan điểm, đờng lối đó đ đợc bổ sung và
phát triển nhiều. Những biến đổi sâu sắc đó
cần đợc thể hiện ở mức khái quát cao trong

Lời nói đầu. Vì vậy, đề nghị sửa đoạn "Từ
năm 1986 đến nay nhiệm vụ mới" cho phù
hợp với tình hình hiện nay.
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng khẳng
định nhiều vấn đề lớn, trong đó có ba quan
điểm rất quan trọng cần đợc thể chế hoá
trong hiến pháp, đó là: Quan điểm đại đoàn
kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức; xây dựng Nhà
nớc pháp quyền x hội chủ nghĩa dới sự
lnh đạo của Đảng và xây dựng nền kinh tế
thị trờng định hớng x hội chủ nghĩa. Vì
vậy, đề nghị trong Lời nói đầu, bên cạnh việc
thể hiện quan điểm đại đoàn kết toàn dân
theo tinh thần Nghị quyết IX của Đảng
(nhng cần viết gọn hơn) thì cũng cần thể
hiện quan điểm về xây dựng Nhà nớc pháp
quyền XHCN dới sự lnh đạo của Đảng và
xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng
XHCN vì đây không chỉ là cách nói mới mà
là sự tổng kết, khẳng định và có tính định


góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
Tạp chí luật học - 23

hớng cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà
nớc và xây dựng nền kinh tế trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Đa
những vấn đề này vào Lời nói đầu thể hiện

một cách ngắn gọn và khái quát nhất sẽ là
phơng án phù hợp nhất để thể chế Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng mà không làm
thay đổi những điều đ đợc xây dựng khá
hoàn chỉnh của Hiến pháp năm 1992 (Điều
2, 12 và 15).
4.2. Về Chơng I - Nớc Cộng hoà x
hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính trị
4.2.1. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 xác
định bản chất của Nhà nớc ta và vấn đề này
đ đợc thể hiện một cách hoàn chỉnh cả về
nội dung và hình thức biểu đạt. Vì vậy, nếu
bổ sung cụm từ "pháp quyền x hội chủ
nghĩa" nh phơng án 2 thì có một số điểm
cần phải xem xét thêm. Đó là: Thứ nhất, cụm
từ này không làm rõ hơn bản chất của Nhà
nớc ta nhng lại đòi hỏi phải có sự giải
thích để hiểu cho rõ thế nào là nhà nớc pháp
quyền x hội chủ nghĩa. Thứ hai, nhà nớc
pháp quyền xét về nguồn gốc và thực tại là
vấn đề mang tính khách quan và phổ biến, vì
nhà nớc và pháp luật bao giờ cũng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Nhìn chung các
nhà nớc hiện đại, ở mức độ này hay mức độ
khác đều có tính pháp quyền; chỉ có vấn đề
là tính pháp quyền đợc thực thi nhiều hay ít,
mức độ tôn trọng pháp quyền cao hay thấp
mà thôi. Vì lí do này mà hầu nh trong hiến
pháp của các nớc không có các điều khoản
quy định về nhà nớc pháp quyền mà chỉ

thông qua các nguyên tắc và quy định cụ thể
của hiến pháp để thể hiện tinh thần pháp
quyền, để thực thi và bảo vệ pháp quyền. Thứ
ba, lí thuyết nhà nớc pháp quyền khá trừu
tợng và vấn đề đặt ra là tiếp thu các giá trị
nào của lí thuyết này để vận dụng, hình
thành đợc cơ sở khoa học và thực tiễn cho
việc xây dựng mô hình, cơ chế tổ chức và
hoạt động của nhà nớc pháp quyền XHCN
cho phù hợp với điều kiện của nớc ta - điều
mà chúng ta còn đang đặt ra để nghiên cứu
trong chơng trình khoa học cấp nhà nớc,
cha có kết luận. Tuy nhiên, đây là lần đầu
tiên quan điểm về xây dựng nhà nớc pháp
quyền x hội chủ nghĩa đợc ghi nhận chính
thức trong văn kiện Đại hội IX của Đảng, có
ý nghĩa rất quan trọng đối với việc định
hớng cho tổ chức và hoạt động của Nhà
nớc trong thời gian tới và cần phải đợc thể
hiện trong Hiến pháp. Nhng phơng án phù
hợp nhất là thể hiện trong Lời nói đầu của
Hiến pháp nh đ trình bày ở trên.
Đồng thời, để phù hợp với tinh thần Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng trong Điều 2 nên
sửa câu thứ 2 thành "Tất cả quyền lực nhà
nớc thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí
thức".
4.2.2. Điều 12 xác lập nguyên tắc pháp
chế và yêu cầu cần thiết để thực hiện nguyên

tắc này. Cách thể hiện cũng rất hay và nhất là
Điều này đ đợc đông đảo các tầng lớp
nhân dân đón nhận với tình cảm và ý thức
tốt. Việc đa thêm ý "Xây dựng nhà nớc
pháp quyền XHCN Việt Nam là trách nhiệm
của mọi cơ quan, tổ chức và công dân" vào
Điều 12 sẽ phá vỡ tính hoàn thiện của Điều
này, làm cho nó trở nên vừa thiếu lại vừa
thừa. Thiếu, vì nội dung của các đoạn 2 và 3
của Điều này không đủ để phản ánh nội dung
và yêu cầu của câu đợc bổ sung. Thừa, vì
câu này dờng nh bị tách ra khỏi nội dung


góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
24 - Tạp chí luật học

đ khá hoàn chỉnh của Điều 12 Hiến pháp
năm 1992. Vì vậy, cũng không nên đa câu
bổ sung này vào Điều 12. Việc đa vào Lời
nói đầu một câu về nhà nớc pháp quyền
XHCN nh trình bày ở 4.2.1. đ có ý nghĩa
định hớng, bổ sung gián tiếp cho nội dung
của Điều 12.
4.3. Về Chơng II - Chế độ kinh tế
4.3.1. Nhóm từ "nền kinh tế thị trờng
định hớng x hội chủ nghĩa" không nên bổ
sung vào Điều 15 mà nên thể hiện ở Lời nói
đầu thành một câu để thể hiện sự định hớng
phát triển cho nền kinh tế là hợp lí nhất. Trên

thực tế, các nớc có nền kinh tế thị trờng
phát triển đều không ghi nội dung này trong
các điều khoản cụ thể của hiến pháp. Tiếp
theo, cũng nên bỏ cụm từ "đan xen, hỗn hợp"
ra khỏi Điều 15 vì đó là điều tất yếu sẽ diễn
ra trong nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần. Đồng thời, để phù hợp với Điều 16 nói
về mục đích chính sách kinh tế thì Điều 15
nên viết lại cho gọn là "Chính sách kinh tế
của Nhà nớc là phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần với các hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu t nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể là nền tảng".
4.3.2. Đề nghị bỏ các chữ "của Nhà
nớc" tại dòng thứ nhất, "trên cơ sở" tại
dòng thứ hai, bỏ đoạn liệt kê các thành phần
kinh tế tại đoạn 1 và bỏ hẳn đoạn ba Điều 16,
vì: Thứ nhất, Điều 16 tiếp ngay sau Điều 15
nói về chính sách kinh tế của Nhà nớc nên
không cần nhắc lại các từ "của nhà nớc" mà
vẫn rõ nghĩa. Thứ hai, giải phóng mọi năng
lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các
thành phần kinh tế cũng là mục đích của
chính sách kinh tế. Thứ ba, Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng có kết luận về 6 thành phần
kinh tế, điều đó có ý nghĩa rất quan trọng.
Nhng điều đó không cần thiết phải thể hiện
trong Hiến pháp vì rất có thể trong thực tiễn

sẽ xuất hiện những thành phần khác nữa.
Tơng tự nh vậy, các loại thị trờng đợc
liệt kê trong đoạn ba cũng có thể là cha đầy
đủ và trong tơng lai có thể xuất hiện những
loại thị trờng mới.
Vì vậy, đề nghị nên viết gọn Điều 16 lại
nh sau: "Mục đích của chính sách kinh tế là
làm cho dân giàu, nớc mạnh, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần
của nhân dân, giải phóng mọi năng lực sản
xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành
phần kinh tế, bảo đảm cho các thành phần
kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh".
4.3.3. Tại Điều 19, việc thay nhóm từ
"kinh tế quốc doanh" bằng "kinh tế nhà
nớc" là hợp lí nhng đoạn "là lực lợng vật
chất quan trọng và là công cụ để Nhà nớc
định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế,
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân" thì không cần phải ghi, vì mệnh đề thứ
nhất đ nói rõ nội dung của chính sách đối
với kinh tế nhà nớc và vai trò của nó; còn
mệnh đề thứ hai này đợc dùng để giải thích
rõ hơn về ý nghĩa của kinh tế nhà nớc thì
không cần thiết, còn nếu để thông qua đó để
nói tới vị trí và vai trò của kinh tế tập thể thì
lại cha đầy đủ. Vì vậy, cùng với việc bỏ
mệnh đề thứ hai của đoạn 1 thì cũng cần bổ

sung một đoạn để ghi nhận vị trí, vai trò của
kinh tế tập thể nhằm bảo đảm vị trí tơng
xứng của kinh tế tập thể trong cơ cấu kinh tế


góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
Tạp chí luật học - 25

nhiều thành phần. Điều này còn có ý nghĩa
bảo đảm tính đồng bộ nếu xét đến mối quan
hệ quy định tại Điều 21.
4.3.4. Tại Điều 24, việc bổ sung đoạn
"chủ động hội nhập kinh tế quốc tế" là rất
cần thiết và chỉ cần bổ sung ý này thì Điều
24 đ thể hiện đợc chính sách kinh tế đối
ngoại một cách toàn diện, cô đọng và súc
tích.
4.4. Về Chơng III - Văn hoá, giáo dục,
khoa học, công nghệ
4.4.1. Nhất trí bổ sung nhóm từ "là sự
nghiệp của Nhà nớc và của toàn dân" ở
đoạn 1 Điều 35 nhng đoạn 2 đề nghị sửa là:
"Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dỡng nhân tài" để nói
rõ chính sách phát triển giáo dục và phù hợp
với chủ trơng đẩy mạnh x hội hoá giáo dục
hiện nay.
4.4.2. Với Điều 36, đề nghị viết gọn đoạn
bổ sung: "bảo đảm duy trì, củng cố kết quả
xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học,

thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở,
tiến tới phổ cập giáo dục trung học phổ
thông, trung học chuyên nghiệp gắn với yêu
cầu phát triển kinh tế-x hội của đất nớc và
từng địa phơng" thành "bảo đảm xoá mù
chữ và phổ cập tiểu học, tiến tới phổ cập
trung học cơ sở trên phạm vi toàn quốc" để
bảo đảm tính chặt chẽ và khả thi trong giai
đoạn hiện nay.
4.4.3. Đề nghị giữ lại đoạn hai Điều 59
"Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả
học phí" vì điều này có ý nghĩa chính trị - x
hội rất lớn, bỏ đoạn này sẽ có ảnh hởng
không thuận tới tâm lí x hội của đông đảo
các tầng lớp nhân dân.
4.5. Về Chơng VI - Quốc hội
4.5.1. Khoản 4 Điều 84 sửa nh vậy là
hợp lí. Khoản 5, nên viết gọn lại là: "Quyết
định chính sách dân tộc và tôn giáo của Nhà
nớc". Khoản 7 bổ sung quy định về bỏ
phiếu tín nhiệm đối với những ngời giữ
chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
theo quy định của pháp luật là hợp lí. Tuy
nhiên đây là vấn đề rất tế nhị, vì vậy đề nghị
nên có quy định bổ sung để làm rõ nội dung
và quy trình thực hiện quy định này. Đối với
quy định bổ sung khoản 13 Điều 84 - về phê
chuẩn điều ớc quốc tế do Chủ tịch nớc trực
tiếp kí kết với ngời đứng đầu nhà nớc khác
cũng là hợp lí, vì các điều ớc quốc tế liên

quan đến quyền, lợi ích của đất nớc và chủ
quyền quốc gia.
4.5.2. Việc sửa đổi khoản 8 Điều 91 và
quy định bổ sung vào đoạn cuối của Điều 92
là hợp lí.
4.6. Về Chơng VII - Chủ tịch nớc
Nhất trí với việc sửa đổi, bổ sung quy
định tại khoản 6 và khoản 9 Điều 103 nh
Dự án của Uỷ ban sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiến pháp năm 1992 đ đa ra, vì
những sửa đổi, bổ sung này phù hợp với yêu
cầu, vị trí và vai trò của Chủ tịch nớc trong
tình hình hiện nay.
4.7. Về Chơng VIII - Chính phủ
4.7.1. Việc bổ sung vào khoản 8 Điều
112 thẩm quyền của Chính phủ: "Đàm phán,
kí kết điều ớc quốc tế nhân danh Nhà nớc
Cộng hoà x hội chủ nghĩa Việt Nam, trừ
trờng hợp quy định tại khoản 10 Điều 103;
đàm phán, " là phù hợp. Thực tế cho thấy,
có nhiều trờng hợp các điều ớc quốc tế
phải đợc kí kết hoặc nhân danh nhà nớc
nhng ngời kí kết của bên đối tác không


góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
26 - Tạp chí luật học

phải là ngời đứng đầu nhà nớc. Vì vậy,
nếu chỉ quy định cho Chủ tịch nớc quyền kí

kết hoặc tham gia tất cả các điều ớc quốc tế
nhân danh Nhà nớc thì không bảo đảm
đợc tính linh hoạt trong việc xử lí các
trờng hợp đó.
4.7.2. Việc bỏ quy định về thẩm quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật của
thủ trởng cơ quan thuộc Chính phủ tại Điều
116 là một trong những điểm có tính cải
cách quan trọng, tạo điều kiện cho việc tổ
chức lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo
hớng tinh giản: Chính phủ chỉ bao gồm các
cơ quan quản lí nhà nớc theo ngành (lĩnh
vực) hoặc đa ngành, thực hiện đúng chức
năng quản lí nhà nớc của mình.
4.8. Về Chơng IX - Hội đồng nhân dân
và uỷ ban nhân dân
Việc bổ sung vào Điều 123 nội dung:
"Uỷ ban nhân dân gồm chủ tịch, các phó chủ
tịch và các uỷ viên. Chủ tịch uỷ ban nhân
dân là đại biểu hội đồng nhân dân. Trong
trờng hợp cần thiết, Thủ tớng Chính phủ
có thể điều động, bổ nhiệm chủ tịch uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ơng, chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên có
thể điều động, bổ nhiệm chủ tịch uỷ ban
nhân dân cấp dới trực tiếp; trong trờng
hợp bổ nhiệm, chủ tịch uỷ ban nhân dân
không nhất thiết là đại biểu hội đồng nhân
dân" là phù hợp, tạo ra cơ chế linh hoạt và
bảo đảm tính hiệu quả trong việc thực hiện

chức năng quản lí điều hành của hệ thống
hành chính nhà nớc. Tuy nhiên, cũng cần
có sự cụ thể hoá quy định này trong các văn
bản dới Hiến pháp để bảo đảm cơ chế kiểm
tra, giám sát của hội đồng nhân dân đối với
uỷ ban nhân dân nói chung và chủ tịch
UBND nói riêng.
4. 9. Về Chơng X - Toà án nhân dân và
viện kiểm sát nhân dân
4.9.1. Việc bổ sung một đoạn vào Điều
128 về nhiệm kì của chánh án Toà án nhân
dân tối cao là đúng, tạo cơ sở pháp lí cho
việc bảo đảm tính liên tục trong hoạt động
của chánh án Toà án nhân dân tối cao trong
giai đoạn chuyển tiếp.
4.9.2. Việc đề nghị bổ sung đoạn: "trừ
trờng hợp luật định việc xét xử do một thẩm
phán thực hiện" vào cuối Điều 131 cha phù
hợp với tình hình hiện nay.
4.9.3. Việc sửa đổi, bổ sung Điều 137 có
ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở cho việc tiếp
tục cải cách hệ thống cơ quan kiểm sát nói
riêng và bộ máy nhà nớc nói chung. Tuy
nhiên, cần làm rõ nội dung "kiểm sát các
hoạt động t pháp" là bao gồm những hoạt
động nào? đề nghị ghi rõ những nội dung
này là "kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử và
thi hành án". Đồng thời, cần có quy định bổ
sung về việc trao thẩm quyền kiểm sát chung
cho cơ quan thuộc Quốc hội vì không thể để

trống mảng quyền này trong hệ thống quyền
lực nhà nớc.
5. Ngoài những điểm nói trên, đề nghị
cần xem xét thêm một số vấn đề đ chín
muồi để sửa đổi, bổ sung vào Hiến pháp nh
quy định Nhà nớc là ngời đại diện của sở
hữu toàn dân (cần đợc bổ sung vào Điều
17); nguyên tắc quyền lực nhà nớc là thống
nhất đ đợc khẳng định rõ trong Nghị quyết
TƯ 8 Khoá VII (cần đợc bổ sung vào Điều
6); nguyên tắc doanh nghiệp đợc tự do kinh
doanh những ngành nghề mà pháp luật
không cấm ./.



gãp ý söa ®æi, bæ sung hiÕn ph¸p
T¹p chÝ luËt häc - 27


×