Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Giải pháp nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.12 KB, 69 trang )

Chuyên đề thực tập chuyên ngành
LỜI CẢM ƠN
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã nhận được sự
giúp đỡ cũng như hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng
dẫn, của các cán bộ, nhân viên cơ sở thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đỗ Đức Bình đã tận
tình hướng dẫn em trong chuyên đề này.
Em xin cảm ơn các cán bộ, nhân viên của Viện Kinh tế
chính trị thế giới đã tạo điều kiện giúp em hoàn thành đề tài.
Em xin cảm ơn các thầy cô giáo khoa Kinh tế và Kinh
doanh quốc tế nói riêng cũng như các thầy cô giáo của
trường Đại học Kinh tế quốc dân nói chung đã cung cấp cho
em cái nhìn tổng quát trên lĩnh vực kinh tế để em có
thể hoàn thành đề tài.
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của đề tài
Chống bán phá giá là một biện pháp đã được WTO thừa nhận để kiểm
soát hoạt động xuất nhập khẩu giữa các nền kinh tế trên thế giới. Hiện nay
Việt Nam đã và đang bị áp dụng thuế chống bán phá giá trên nhiều mặt hàng
xuất khẩu đi các nước trên thế giới, khi rào cản thuế quan và phi thuế quan
đang được giảm để tuân thủ với các quy định của tổ chức thương mại thế giới
WTO thì các vụ chống bán phá giá được sử dụng nhiều hơn nhằm bảo vệ các
ngành công nghiệp sản xuất trong nước.
Hiện nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại
thế giới WTO do vậy, việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam là
một công cụ hữu ích trong tương lai và cần được phát huy vai trò giúp Việt
Nam có thể kiểm soát lượng hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội địa mà
không trái với quy định của WTO
Chính vì vậy nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá tại


Việt Nam hiện nay là cần thiết và đây cũng chính là nội dung nghiên cứu của
chuyên đề thực tập “Giải pháp nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán
phá giá tại Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO”.
2. Đối tượng nghiên cứu
Chuyên đề tiến hành khảo sát và nghiên cứu những vấn đề tổng quan
chống bán phá giá và tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam
trong thời gian qua.
3. Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề sẽ nghiên cứu trong phạm vi thực trạng áp dụng thuế chống bán
phá giá tại Việt Nam từ 2000 đến nay.
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên để sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử là
chủ yếu. Ngoài ra, chuyên đề còn sử dụng một số phương pháp khác như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, mô hình hoá…
5. Mục đích nghiên cứu
Chuyên đề được tiến hành nghiên cứu nhằm tổng hợp những vấn đề
chung về bán phá giá và tình hình áp dụng thuế chống bán phá của Việt Nam.
Qua đó, chuyên đề đưa ra giải pháp nhằm đưa công cụ này trở thành công cụ
tích cực bảo hộ ngành sản xuất trong nước của Việt Nam.
6. Kết cấu chuyên đề
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng chữ cái
viết tắt…chuyên đề được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề tổng quan về bán phá giá và thuế chống bán phá giá
và tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới.
Chương 2: Thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá của
Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO.
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A

Chuyên đề thực tập chuyên ngành
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ TỔNG QUAN VỀ BÁN
PHÁ GIÁ VÀ TÌNH HÌNH ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG
BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Quan điểm về bán phá giá
1.1.1 Khái niệm
Bán phá giá thường được hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá
thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm cho những người
bán khác phải hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá của một mặt
hàng trên cùng một thị trường.
Tuy nhiên khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế hàm ý so
sánh về giá của một mặt hàng trên hai thị trường khác nhau: Thị trường nước
nhập khẩu và trị trường nước xuất khẩu. Nhìn chung , tất cả các nước cho rằng
bán phá giá xảy ra khi hàng hoá xuất khẩu đựơc bán sang một nước khác với
giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa . Mặc dù khái niệm bán phá giá đưa
ra khá đơn giản tuy nhiên khi xác định giá bán của một mặt hàng cho thị
trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu thì vô cùng phức tạp bởi vì khi đó
phải xác định mặt hàng đó được bán với giá bán buôn hay bán lẻ, tỷ giá hối
đoái , chi phí vận chuyển , thuế suất, thuế nhập….
1.1.2 Cơ sở kinh tế của việc bán phá giá
Trước khi tìm hiểu về tình hình điều tra và áp dụng thuế chống bán phá
giá trên thế giới thay đổi mạnh mẽ như thế nào trong gần một thập kỷ qua cần
nghiên cứu về cơ sở kinh tế của việc bán phá giá. Điều này có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định khi nào thì hành vi bán phá giá là hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, khi nào thì hành vi đó là bình thường về mặt kinh tế. Tìm
hiểu cơ sở kinh tế của việc bán phá giá cũng sẽ giúp ích trong việc phân tích ai
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
là người có lợi, ai là người bị thiệt khi chấp nhận hay không chấp nhận hành vi
đó.

1.1.2.1. Bán phá giá xảy ra do phân biệt giá quốc tế
Phân biệt giá quốc tế xảy ra khi thị trường bị phân biệt giá là thị trường
của các nước khác nhau. Song giá xuất khẩu thường cao hơn giá của thị trường
nội địa do nhà xuất khẩu phải chịu thêm nhiều chi phí xuất khẩu như vận
chuyển, bảo hiểm…Do đó, khi nhà sản xuất theo đuổi hành vi phân biệt giá
quốc tế, tức là giá bán trong nước khác giá xuất khẩu thì hành vi đó chỉ bị coi
là bán phá giá nếu giá xuất khẩu sản phẩm thấp hơn giá bán của sản phẩm đó ở
trong thị trường nội địa.
Tuy nhiên, xét về mặt kinh tế, bán phá giá cũng là một hiện tượng thông
thường. Một công ty được hưởng lợi thế độc quyền trên thị trường nội địa do
được bảo hộ bởi các rào cản thương mại tự nhiên và phi tự nhiên có thể bán
sản phẩm trong nước với mức giá khá cao. Nếu chi phí xuất khẩu hàng hóa
tương đối thấp, mức giá xuất khẩu do công ty đặt ra có thể sẽ thấp hơn nhiều
so với giá bán ở thị trường trong nước. Trong trường hợp này, công ty sẽ dễ bị
coi là bán phá giá.
Bản chất hành vi bán phá giá kể trên không phải là do công ty đặt giá
thấp ở thị trường xuất khẩu mà do công ty đã bán giá cao ở thị trường trong
nước. Chính sức mạnh độc quyền ở thị trường trong nước đã làm giảm lợi ích
của toàn xã hội. Nguyên tắc này vẫn đúng trong trường hợp công ty có sức
mạnh độc quyền ở cả hai thị trường. Khi đó, công ty sẽ đặt giá thấp hơn ở thị
trường có sức mạnh độc quyền yếu hơn.
Do đó, nếu bán phá giá xảy ra dưới hình thức phân biệt giá thì biện pháp
chống bán phá giá sẽ không mang lại lợi ích kinh tế gì vì ta cần chống lại sự
định giá cao tại thị trường nội địa chứ không phải loại bỏ mức giá thấp ở thị
trường xuất khẩu.
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
Tuy nhiên, trong trường hợp này có một số quan điểm ủng hộ việc áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá.
Quan điểm thứ nhất cho rằng việc bán phá giá sẽ làm giảm giá hàng hóa

tương tự tại thị trường nước nhập khẩu. Điều này làm giảm lợi nhuận và lương
của các chủ công ty và người lao động sản xuất mặt hàng cạnh tranh với hàng
nhập khẩu và đe dọa lợi ích tiềm năng trong tương lai của họ hoặc làm ảnh
hưởng đến mức sống của những đối tượng này.
Tuy nhiên, giá bán của hàng nhập khẩu thấp hơn giá bán của sản phẩm
nội địa rõ ràng đã đem lại lợi ích cho toàn xã hội nhiều hơn so với những thiệt
hại mà các nhà sản xuất sản phẩm cạnh tranh phải gánh chịu.
Trước khi có hàng nhập khẩu bán vào thị trường trong nước với giá thấp
hơn giá hiện hành, cung và cầu của mặt hàng đó ở thị trường trong nước cân
bằng ở điểm E, với giá p
1
và lượng tiêu thụ q
1
. Tuy nhiên, khi có nguồn hàng
nước ngoài bán với giá thấp hơn là p
2
, lượng tiêu thụ tăng lên q
2
, trong đó
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ còn q

2
, lượng hàng nhập khẩu
là q
2 -
q

2.


Từ hình 1 có thể thấy rằng thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một
lượng bằng diện tích hình thang ABFE, trong khi đó thặng dư của nhà sản xuất
trong nước giảm một lượng bằng diện tích hình thang ABCE. Về tổng thể,
toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CFE.
Trong trường hợp này, nếu muốn, chính phủ một nước có thể đánh thuế
để phân phối lại thu nhập nhằm bù đắp thiệt hại cho ngành sản xuất trong
nước, hay thậm chí sử dụng biện pháp tự vệ. Áp dụng thuế chống bán phá giá
trong trường hợp này không phải là giải pháp tối ưu.
Quan điểm thứ hai cho rằng áp dụng thuế chống bán phá giá là biện
pháp nhằm gây sức ép làm tăng tính cạnh tranh tại thị trường nước xuất khẩu
bằng cách xoá bỏ các rào cản thương mại - công cụ tạo thế độc quyền cho nhà
xuất khẩu. Hàng rào thương mại ở đây được hiểu là thuế nhập khẩu, hạn ngạch
nhập khẩu, v.v... chứ không phải những rào cản tự nhiên như chi phí vận tải.
Nếu xét nền kinh tế thế giới như một tổng thể thì việc dỡ bỏ các rào cản
thương mại trên cũng mang một ý nghĩa tích cực. Tuy nhiên, đây liệu có phải
là điều mà những nước nhập khẩu mong đợi không bởi vì biện pháp chống bán
phá giá trong trường hợp này chỉ góp phần tăng cạnh tranh tại thị trường nước
xuất khẩu.
Quan điểm thứ ba cho rằng việc bán phá giá có thể gây lãng phí nguồn
lực tại nước nhập khẩu do nước này cố gắng điều chỉnh để đạt được mức giá
thấp hơn. Tuy nhiên, lập luận này chỉ đúng khi hàng nhập khẩu bị bán phá giá
trong thời gian ngắn. Nếu việc bán phá giá mang tính lâu dài thì những điều
chỉnh về nguồn lực tại nước nhập khẩu là hoàn toàn hợp lý và không hề lãng
phí.
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
Ngay cả khi việc bán phá giá có tính chất tạm thời, việc áp dụng thuế
chống bán phá giá cũng không phải là giải pháp tối ưu trong một số trường
hợp. Giả sử như một công ty đang đặt giá tương đối ổn định ở thị trường trong

nước do thị trường này không chịu tác động nhiều của giá thế giới. Nhưng trên
thị trường thế giới, công ty lại điều chỉnh giá sản phẩm theo giá thị trường. Do
đó, khi giá thị trường thế giới xuống thấp, nhà xuất khẩu sẽ dễ dàng bị coi là
bán phá giá. Nếu ta áp dụng biện pháp chống bán phá giá nhằm tránh các chi
phí điều chỉnh việc gia nhập và rút khỏi ngành của các nhà sản xuất sản phẩm
tương tự tại nước nhập khẩu thì chính sách này chỉ có thể gạt nhà xuất khẩu ra
khỏi thị trường nước nhập khẩu chứ không hề làm tăng giá thế giới. Hơn nữa,
để thực hiện mục tiêu làm giảm các chi phí điều chỉnh không cần thiết do
thương mại gây ra, nước nhập khẩu hoàn toàn có thể sử dụng một số biện pháp
đối phó tạm thời khác ví dụ như biện pháp tự vệ.
Tóm lại việc sử dụng biện pháp chống bán phá giá như một công cụ để
tránh các thiệt hại tạm thời do hàng nhập khẩu gây ra không phải là biện pháp
tối ưu ngay cả khi hàng nhập khẩu bị coi là bán phá giá.
1.1.2.2. Bán phá giá xảy ra do giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất
Những người ủng hộ quan điểm bán phá giá là sự phân biệt giá thường
lập luận rằng bán phá giá do giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất cũng là
một hình thức phân biệt giá. Họ cho rằng các công ty không thể duy trì việc
bán hàng dưới chi phí nếu không bù lỗ cho phần hàng này bằng những phần
hàng bán trên chi phí trong thị trường khác, tức là công ty đó đang thực hiện
biện pháp phân biệt giá.
Tuy nhiên, lập luận trên chưa giải thích được tại sao giá xuất khẩu dưới
chi phí sản xuất lại bị coi là bán phá giá. Để tìm hiểu thêm về ý nghĩa kinh tế
của hành vi này, ta sẽ xem xét khái niệm “chi phí” bằng cách phân biệt “chi
phí trung bình” và “chi phí biên”. Chi phí trung bình là chi phí tính trên một
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
đơn vị sản phẩm đầu ra. Chi phí biên là chi phí tăng lên do sản xuất thêm một
đơn vị sản phẩm đầu ra.
Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại
chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một

phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi
phí biên là yếu tố quyết định trong việc định giá của một công ty trong ngắn
hạn khi phải chịu chi phí nhất định để thâm nhập thị trường. Điều này giải
thích tại sao một công ty vẫn chấp nhận bán hàng với mức giá thấp hơn chi phí
trung bình dù biết rằng đang bị lỗ. Thật vậy, có trường hợp nếu công ty không
tiếp tục sản xuất thì công ty có thể sẽ bị lỗ nhiều hơn do vẫn chịu chi phí cố
định.
Trước hết chúng ta hãy xem xét kỹ hơn tình huống giá xuất khẩu thấp
hơn chi phí trung bình. Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu trường hợp giá
xuất khẩu thấp hơn chi phí biên.
1.2.2.3. Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí trung bình
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
MC: Đường chi phí biên AVC: Đường chi phí biến đổi trung
bình
MR: Đường thu nhập biên ATC: Đường chi phí trung bình
Trong thời kỳ ngắn hạn, công ty tối đa hoá lợi nhuận của mình bằng
cách lựa chọn đầu ra q
*
mà tại đó chi phí biên của công ty bằng với giá cả P
của sản phẩm và bằng thu nhập biên MR. Lợi nhuận của công ty chính là hình
chữ nhật ABCD. Mức sản lượng q
1
thấp hơn q
*
hay mức sản lượng q
2
cao hơn
q
*

đều dẫn tới việc hạ thấp lợi nhuận. Vùng xám cho thấy mức giảm lợi nhuận
tương ứng với việc lựa chọn sản lượng q
1
và q
2
.
Các đường MR và MC cũng cắt nhau tại E, tương ứng với mức sản
lượng q
0.
Tuy nhiên ở mức sản lượng q
0
lợi nhuận chưa được tối đa hoá. Tăng
sản lượng vượt quá q
0
sẽ tăng được lợi nhuận vì chi phí biên vẫn thấp hơn thu
nhập biên. Do đó điều kiện để tối đa hoá lợi nhuận của một công ty là thu nhập
biên bằng chi phí biên ở điểm mà ở đó chi phí biên đang đi lên chứ không đi
xuống.
Trong ngắn hạn, khi thị trường suy thoái bất cứ công ty nào dù là cạnh
tranh hoàn hảo hay không hoàn hảo cũng có thể bán sản phẩm với giá thấp
hơn chi phí trung bình chỉ cần mức giá này cao hơn giao điểm của chi phí biên
và chi phí biến đổi trung bình. Hành vi này của nhà sản xuất chính là để bù
đắp chi phí cố định. Nhà sản xuất có thể hy vọng rằng sau một thời gian suy
giảm tạm thời, thị trường sẽ hồi phục và công ty có thể tăng giá; hoặc chỉ đơn
giản là nhà sản xuất đang cố gắng bán hàng nhằm giảm thiểu thua lỗ trước khi
rút khỏi thị trường.
Khi cả nhà sản xuất trong nước và nhà xuất khẩu đều bán phá giá dưới
chi phí trung bình do suy thoái của thị trường thì việc đánh thuế chống bán phá
giá đối với nhà xuất khẩu là không hợp lý. Trong trường hợp này, biện pháp
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A

Chuyên đề thực tập chuyên ngành
chống bán phá giá chỉ mang tính bảo hộ đơn thuần nhằm làm giảm tác động
bất lợi đối với công ty trong nước khi thị trường suy thoái.
Sự khác biệt về cơ cấu chi phí của các công ty trên thế giới có thể do
nhiều nguyên nhân. Ví dụ như việc các công ty của Mỹ thường đầu tư lớn vào
máy móc, thiết bị khiến cho tỷ lệ chi phí cố định của các công ty này trong
tổng chi phí thường cao hơn các nhà cạnh tranh khác ở nước ngoài. Do đó, các
công ty này sẽ dễ bị coi là bán phá giá trong thời gian cầu của thế giới giảm.
Hay như ở Nhật Bản, do tiền lương công nhân thường được coi là chi phí cố
định vì các công ty Nhật hiếm khi sa thải công nhân nên các công ty này có
thể sẽ tiếp tục sản xuất và xuất khẩu sang Mỹ ở mức giá mà công ty Mỹ cho là
quá thấp để duy trì hoạt động.
Nếu việc bán phá giá là do sự khác biệt về cơ cấu chi phí gây ra thì
nước nhập khẩu có thể điều chỉnh bằng các chính sách như đánh thuế sa thải
công nhân hay trợ cấp duy trì việc làm để làm thay đổi về cơ cấu chi phí của
công ty trong nước. Các chính sách này sẽ điều tiết hành vi của nhà sản xuất
trong nước và góp phần làm giảm gánh nặng thuế khoá cho người tiêu dùng do
không phải chịu thuế chống bán phá giá.
Tóm lại, đối với hành vi bán phá giá dưới chi phí trung bình, việc áp
dụng thuế chống bán phá giá có thể không phải là phương án tối ưu nhất.
1.1.2.4. Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí biên
Như trên đã phân tích, một công ty có thể bán hàng với giá thấp hơn chi
phí trung bình chỉ cần mức giá này cao hơn chi phí biên. Tuy nhiên trên thực
tế vẫn có những công ty bán hàng dưới chi phí biên. Nguyên nhân của hành vi
này có thể do các công ty đánh giá sai chi phí biên, hoặc chấp nhận hy sinh lợi
nhuận để đạt được một số mục tiêu khác như tối đa hoá doanh thu, độc chiếm
thị trường, tăng thị phần hay tiếp thị hàng hóa.
Một là, tính cứng nhắc và bất ổn trong ngắn hạn
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành

Khi bắt đầu xuất khẩu vào một thị trường, công ty thường phải đưa ra
quyết định sản xuất trước khi xác định được chính xác mức giá trên thị trường
bằng cách quyết định sản lượng sản xuất theo mức giá dự tính. Mức giá dự
tính của công ty là số bình quân gia quyền của tất cả các phương án giá cả có
thể có với xác suất của mỗi phương án được sử dụng như các trọng số. Nếu
giá bán thực tế thấp hơn nhiều so với giá bán mong đợi ban đầu thì công ty sẽ
phải bán hàng với mức giá thấp hơn chi phí biên định trước.
Khi công ty phát hiện ra đã xác định sai giá thị trường và do đó, xác
định sai chi phí biên, công ty khó có thể điều chỉnh sản lượng ngay lập tức.
Mức sản lượng chỉ có thể điều chỉnh sau một thời gian dài, khi công ty có thể
cải biến toàn bộ yếu tố đầu vào của nó, kể cả quy mô các nhà máy.
Do tính cứng nhắc trong ngắn hạn, một khi công ty đã ấn định sản lượng
sản xuất, có nghĩa là không thay đổi được toàn bộ các chi phí cố định thì việc
điều chỉnh chi phí biên ước tính ban đầu là hầu như không thể xảy ra. Ví dụ
như với một hãng hàng không đang duy trì một chuyến bay thường lệ nhưng
còn một số vé chưa bán được. Khi đó, chi phí biên tăng lên cho mỗi hành
khách tiếp theo có thể rất thấp, chẳng hạn bằng chi phí một suất ăn trên máy
bay. Chi phí biên trong trường hợp này gần như bằng không. Hay như một
công ty sản xuất đồ gốm sứ xuất khẩu. Công ty đã đầu tư máy móc, lò nung
cho việc sản xuất 5 vạn chiếc đĩa. Nếu trên thực tế, công ty mới chỉ có đơn đặt
hàng yêu cầu giao ngay 4,5 vạn chiếc đĩa thì chi phí biên tăng thêm cho mỗi
chiếc đĩa sản xuất tiếp theo là không đáng kể (chỉ tương ứng với một lượng
nhỏ chi phí đất sét và lao động) vì với công suất lò nung đã định trước, công ty
vẫn phải mất một lượng chi phí cố định đã đầu tư vào lò nung, chi phí cho
nguyên liệu để đốt lò… Do đó, trong ngắn hạn, hãng hàng không hay công ty
sản xuất đồ gốm sứ này có thể bán vé hoặc xuất khẩu số đĩa chưa bán được ở
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
bất cứ mức giá nào cũng được coi là có lợi vì mức giá nào trong trường hợp
này cũng lớn hơn chi phí biên.

Tóm lại, áp dụng thuế chống bán phá giá trong trường hợp công ty xác
định sai mức giá trên thị trường và chi phí biên là không hợp lý vì việc xác
định sai mức giá này chỉ phản ánh hiện tượng kinh tế đơn thuần là chi phí biên
trong ngắn hạn có thể cao hơn rất nhiều so với chi phí trung bình trong dài
hạn.
Hai là, tối đa hoá doanh thu
Ở những công ty lớn, chủ công ty thường thuê ban giám đốc điều hành.
Trong một thời gian nào đó, ban giám đốc có thể quan tâm đến mục tiêu tối đa
hoá doanh thu để nhằm khuyếch trương hay được khen thưởng mà xa rời mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty.
Nếu tình huống này xảy ra trong thị trường nội địa, chính phủ sẽ không
can thiệp vì đây là vấn đề của bản thân công ty. Tuy rằng hành vi này có thể
gây thiệt hại cho những người sản xuất sản phẩm cạnh tranh trên thị trường,
nhưng xét về tổng thể toàn xã hội sẽ được lợi do người tiêu dùng sẽ được lợi
nhiều hơn từ việc tối đa hoá doanh thu này.
Trên thị trường quốc tế, hành vi này bị coi là bán phá giá và phải chịu
thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, về phương diện kinh tế, tối đa hoá lợi
nhuận là mục tiêu sống còn của công ty nên công ty sẽ rất khó duy trì được
hành vi này trong dài hạn. Ban giám đốc cũ có thể bị thay thế. Vì vậy, với
nước nhập khẩu, biện pháp ứng phó tốt nhất trong trường hợp này là tận dụng
số hàng nhập khẩu rẻ này.
Ba là, thôn tính để độc chiếm thị trường
Một số công ty bán phá giá để cố gắng tối đa hoá doanh số nhằm thôn
tính, độc chiếm thị trường. Sau một thời gian dài chịu lỗ, công ty sẽ loại được
các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trường. Sau khi đạt được điều này,
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
công ty sẽ tăng giá lên cao nhằm thu lợi nhuận độc quyền. Có thể thấy rằng,
trong trường hợp này công ty đã hy sinh lợi nhuận ngắn hạn để tối đa hóa lợi
nhuận dài hạn.

Hành vi độc quyền của công ty rõ ràng sẽ gây thiệt hại lớn cho nước
nhập khẩu. Do đó, các nước nhập khẩu thường tỏ ra khá kiên quyết trong việc
đối phó với hành vi bán phá giá nhằm chiếm lĩnh thị trường này.
Tuy nhiên, áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu bị
bán phá giá kiểu này không phải là giải pháp tối ưu. Điều này xuất phát từ
nguyên nhân: (i) việc bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường là rất khó khăn vì
ngoài việc đẩy các công ty cạnh tranh khác ra khỏi thị trường, công ty còn
phải tìm cách ngăn cản sự quay trở lại của các đối thủ cạnh tranh khi giá bị
đẩy lên cao. (ii) trên phạm vi quốc tế, hiếm khi xảy ra hiện tượng một công ty
có thể độc quyền trên toàn bộ thị trường. Việc kiểm soát giá trên thị trường sẽ
do một số công ty lớn nắm giữ. Do đó, ngay cả khi nhà xuất khẩu thành công
trong việc loại bỏ tất cả các công ty nội địa thì họ vẫn phải dàn xếp với các
công ty quốc tế khác để thống nhất về việc định giá. (iii)nước nhập khẩu có
thể triệt tiêu sức mạnh độc quyền của công ty bằng cách đánh thuế đối với lợi
nhuận độc quyền sau khi công ty đã tăng giá chứ không cần phải đánh thuế
chống bán phá giá ngay trong giai đoạn đầu. Nếu không làm như vậy, nước
nhập khẩu sẽ phải chịu mất đi một lượng hàng nhập khẩu rẻ chỉ vì sợ bị thôn
tính thị trường.
Bốn là, cạnh tranh để giành thị phần
Một số công ty xuất khẩu hàng với mức giá thấp hơn chi phí biên nhằm
mục tiêu chiếm được thị phần cao hơn trên thị trường nhập khẩu. Tuy nhiên,
khác với trường hợp trên, công ty không có ý định thôn tính toàn bộ thị trường
mà chỉ cố gắng tăng thị phần của mình.
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
Theo lý thuyết, trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, một công ty
không thể bán được nhiều sản phẩm mà nó mong muốn tại mức giá thị trường.
Doanh số bán ra của công ty phụ thuộc vào giá của sản phẩm.
Trên thực tế, bên cạnh yếu tố giá còn có rất nhiều yếu tố chi phối doanh
thu của một công ty. Một trong số đó là hoạt động tiếp thị gồm quảng cáo,

thiết kế sản phẩm, bao gói, bán hàng. Khi bán hàng dưới mức chi phí biên để
cố gắng giới thiệu sản phẩm của mình, công ty đã tin tưởng rằng thị phần tăng
lên ở hiện tại sẽ làm giảm chi phí sản xuất hoặc tăng giá trong tương lai và do
đó, chi phí bỏ ra ngày hôm nay để tiến hành hoạt động tiếp thị sẽ được hoàn
lại bằng lợi nhuận trong tương lai. Đây là hành vi thường gặp của nhiều công
ty bởi vì sản phẩm nhập khẩu mới không dễ gì được chấp nhận ngay mà phải
được công nhận dần thông qua quá trình dùng thử. Do đó, nhà xuất khẩu phải
hạ giá thấp hơn chi phí biên nhằm khuyến khích khách hàng dùng thử với tin
tưởng rằng sau đó họ có thể tăng giá lên khi người tiêu dùng đã chấp nhận sản
phẩm. Điều này rất hữu ích với người tiêu dùng vì họ sẽ có cơ hội dùng một
loại sản phẩm tốt hơn. Kể cả khi công ty tăng giá sau này cho đúng với giá trị
của sản phẩm thì điều này cũng là hiện tượng bình thường.
Trong trường hợp này, hàng nhập khẩu bị bán phá giá sẽ chiếm chỗ một
số sản phẩm trong nước. Nhưng đây cũng chỉ là một quy luật kinh tế thông
thường vì trong các thị trường cạnh tranh khốc liệt, sản phẩm và quá trình xử
lý mới sẽ thay thế sản phẩm cũ.
Thứ hai, thông qua quá trình tiếp thị này, công ty cũng có thể hiểu rõ
hơn về sản phẩm của mình nhằm có những sửa đổi, cải tiến hợp lý. Điều này
đặc biệt đúng trong các ngành công nghiệp sử dụng công nghệ cao. Chi phí sẽ
có xu hướng giảm xuống khi công ty có nhiều kinh nghiệm hơn vì bốn lý do:
Một là, năng suất lao động sẽ tăng lên khi công nhân thạo việc hơn. Hai là,
qua thời gian, người quản lý biết hoạch định kế hoạch thời gian hữu hiệu hơn
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
cho quá trình sản xuất. Ba là, các kỹ sư đã có đủ kinh nghiệm để xử lý các
thiết kế. Bốn là, những người cung ứng vật tư có thể học được cách chế biến
hữu hiệu hơn những nguyên liệu mà công ty yêu cầu và do đó, chuyển một
phần lợi ích cho công ty dưới hình thức giá vật tư rẻ hơn.
Bằng cách học hỏi thông qua thực tế, công ty sẽ thu được lợi nhuận do
doanh số tăng thêm trong tương lai nên ở hiện tại nó sẵn lòng bán sản phẩm

với giá thấp hơn chi phí biên. Trong ngắn hạn, người tiêu dùng ở nước nhập
khẩu sẽ được lợi do mua được hàng ở mức giá thấp. Trong dài hạn, khả năng
này vẫn có thể diễn ra vì giá sẽ tiếp tục thấp do chi phí sản xuất giảm bởi công
ty có nhiều kinh nghiệm hơn. Thông qua quá trình “vừa học, vừa làm” này, rõ
ràng người tiêu dùng đã được lợi do nỗ lực của nhà xuất khẩu.
Vấn đề đặt ra ở đây là phản ứng của nhà sản xuất trong nước đối với
tình huống này. Các công ty trong nước cũng được hưởng lợi từ hành vi này
của các nhà xuất khẩu thông qua việc học hỏi như các đối thủ của mình và do
đó, giúp các công ty này cạnh tranh tốt hơn. Nếu không, họ sẽ bị các công ty
nước ngoài bỏ xa. Trong trường hợp các công ty trong nước không thể hoàn
thiện để thích ứng với quá trình điều chỉnh học hỏi này, sự rút lui của các công
ty đó sẽ mang lại lợi ích cho cả nước nhập khẩu và nền kinh tế thế giới nói
chung.
Tóm lại, trong nhiều trường hợp các công ty nước ngoài có thể xuất
khẩu hàng của mình sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và
thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải mọi trường hợp đều
có thể gán cho cái mác “bán phá giá” để áp dụng biện pháp ngăn cản. Trong
nhiều trường hợp, làm như vậy sẽ tạo ra sự bảo hộ không cần thiết cho ngành
sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng cũng như của toàn
xã hội.
1.1.3. Quy định của WTO về bán phá giá
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
Quy tắc chống bán phá giá mà hiện nay WTO dựa vào được quy định trong
điều 6 của Hiệp định GATT (Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại)
ban hành vào tháng 4/1979. Hiệp định xác định những ảnh hưởng tiêu cực của
bán phá giá đối với thương mại quốc tế. Thuế chống bán phá giá chỉ có thể sử
dụng để đối phó với những loại hình bán phá giá gây thiệt hại nghiêm trọng
cho một ngành công nghiệp nào đó, hoặc gây trở ngại nghiêm trọng cho việc
xây dựng một ngành công nghiệp. Nội dung chủ yếu của hiệp định như sau:

 Thiết lập nguyên tắc cơ bản về việc thu thuế chống bán phá giá. Chỉ có thể
áp dụng biện pháp đánh thuế chống bán phá giá sau khi tiến hành điều tra
theo quy định của điều 6 của Hiệp định GATT.
 Bản quy tắc còn làm rõ thế nào là bán phá giá. Việc bán phá giá có gây
thiệt hại nghiêm trọng cho các bên ký kết khác hay không và thiệt hại ở
mức độ nào. Định nghĩa bán phá giá là: giá xuất khẩu của một mặt hàng
thấp hơn giá của mặt hàng cùng loại mà các nước xuất khẩu cung ứng cho
người tiêu dùng của nước mình, tức thâm nhập vào thị trường một nước
khác với giá thấp hơn giá thông thường. Nếu một công ty xuất khẩu sản
phẩm với giá thấp hơn giá cả bình thường trong nước, thì sản phẩm đó đã
là "bán phá giá".
 Ở đây có khái niệm giá thông thường. WTO đưa ra 3 cách xác định giá
thông thường: một là giá tiêu thụ thông thường trong nước của nước xuất
khẩu hàng hoá; hai là giá xuất khẩu của nước xuất khẩu sang nước thứ ba;
ba là giá của các chi phí cấu thành. Thông thường, WTO xác định giá
thông thường theo cách thứ nhất, trong trường hợp không áp dụng được thì
mới áp dụng cách xác định thứ 2, thứ 3.
 Quy tắc đã định nghĩa chi tiết về "công nghiệp trong nước": đó là tổng thể
hoặc đa số các nhà sản xuất trong một nước có các sản phẩm cùng loại.
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
 Cam kết về giá cả là những đảm bảo tự nguyện của nhà xuất khẩu thay đổi
giá xuất khẩu hoặc giá bán phá giá để loại bỏ những ảnh hưởng gây thiệt
hại cho nước nhập khẩu. Nhưng sự đảm bảo này phải dựa trên những điều
tra của nước nhập khẩu, hơn nữa không được bắt buộc nước xuất khẩu đưa
ra đảm bảo, nhưng công tác điều tra vẫn có thể tiến hành.
 Kim ngạch của thuế chống bán phá giá không được vượt quá mức chênh
lệch do bán phá giá. Việc thu thuế chống bán phá giá hoặc các biện pháp
chống bán phá giá tạm thời khác chỉ áp dụng đối với hàng hoá đã được vận
chuyển vào lãnh thổ nước nhập khẩu. Khi thu thuế phải được tiến hành

bình đẳng không phân biệt đối xử, phải thu thuế từng kiện hàng nhập khẩu
qua điều tra thấy gây thiệt hại do bán phá giá.
 Những hành động chống bán phá giá đại diện cho nước thứ ba phải được
nước thứ ba đưa ra lời mời hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan.
Theo WTO, để xác định giá sản phẩm có bán phá giá hay không, cần tuân
thủ những quy tắc sau đây:
Thứ nhất: Lấy cơ sở giá bán hàng hoá cùng loại tại thị trường nội địa của nước
xuất khẩu. Khi không thể sử dụng giá này, phải sử dụng giá mà nước này xuất
khẩu sang nước thứ ba làm chuẩn, hoặc xác định bằng cách cộng giá thành sản
xuất với các chi phí hợp lý và lợi nhuận.
Hai là: Hàng chuyển khẩu thường được so với giá tương ứng của nước xuất
khẩu.
Ba là: Nếu không có giá xuất khẩu hoặc giá này bị cho là không đáng tin, thì
có thể lấy giá bán hàng nhập khẩu để xác định giá xuất khẩu.
Bốn là: Giá xuất khẩu và giá bán nội địa của nước xuất khẩu phải được so
sánh ở cùng một trình độ thương mại.
Trên thực tế, nhằm bảo hộ công nghiệp nội địa, có rất nhiều chính phủ
đều áp dụng các hành động nhằm vào bán phá giá. Cho đến nay, WTO chưa
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
đưa ra việc giải quyết vấn đề bán phá giá thông qua đàm phán mà vẫn căn cứ
theo điều 6 của GATT cho phép các nước hành động chống bán phá giá.
Nhưng chỉ khi việc bán phá giá làm tổn hại đến công nghiệp của nước nhập
khẩu thì các biện pháp chống bán phá giá mới được áp dụng.
Ngày nay, các nước nhập khẩu chống bán phá giá bằng cách thu thuế
nhập khẩu ngoại ngạch đối với sản phẩm cá biệt của nước xuất khẩu cá biệt,
khiến giá hàng nhập "xấp xỉ giá thông thường", hoặc loại bỏ sự tổn hại của
công nghiệp nội địa nước nhập khẩu. WTO đã sửa đổi một số điều trong Hiệp
định Chống bán phá giá, trong đó quy định các nước nhập khẩu phải kết thúc
các biện pháp chống bán phá giá và thời gian thực thi sau 5 năm. Khi nước

nhập khẩu xác định được biên độ của bán phá giá đặc biệt nhỏ (nhỏ hơn 2%
giá cả xuất khẩu của sản phẩm này) thì việc điều tra bán phá giá phải kết thúc.
Hiệp định cũng quy định các thành viên WTO phải thông báo kịp thời và chi
tiết với Uỷ ban các biện pháp chống bán phá giá về những hành động chống
bán phá giá tạm thời và cuối cùng, khi nảy sinh tranh chấp, khuyến khích các
thành viên thương lượng với nhau. Các thành viên cũng có thể sử dụng thủ tục
giải quyết tranh chấp của WTO.
1.2. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới
1.2.1. Tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế
giới
Năm 1995, vòng đàm phán Uruguay kết thúc với sự ra đời của WTO
và một số các hiệp định liên quan đến thương mại quốc tế, trong đó có Hiệp
định về chống bán phá giá của WTO. Đây chính là cơ sở pháp luật quốc tế mà
các nước thành viên WTO phải tuân theo khi thực thi và áp dụng các biện
pháp chống bán phá giá. WTO đã thành lập một Ủy ban về chống bán phá giá
(Anti-dumping Committee) để kiểm soát việc điều tra và áp dụng thuế chống
bán phá giá của các nước thành viên, kịp thời cung cấp những thông tin cần
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
thiết cho các nước thành viên. Các nước chưa là thành viên WTO cũng được
khuyến nghị nên thực hiện theo quy định của WTO, trong đó có quy định liên
quan đến chống bán phá giá.
Kể từ khi WTO ra đời, tính đến thời điểm cuối năm 2001, trên thế giới
đã có tất cả 2132 cuộc điều tra về chống bán phá giá và có tất cả là 1066 lần áp
dụng thuế chống bán phá giá (chiếm 50% tổng số cuộc điều tra). Điều này thể
hiện, không phải tất cả các cuộc điều tra về chống bán phá giá đều có kết luận
dẫn đến việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu thuế
chống bán phá giá thường là các sản phẩm dệt may, giầy dép, sắt thép, kim
loại và một số sản phẩm công nghiệp cơ khí, v.v…
Trên thực tế, các nước áp dụng thuế chống bán phá giá thường bị nước

xuất khẩu hàng hoá là đối tượng chịu thuế chống bán phá giá khởi kiện đến
WTO, cụ thể là Cơ quan Giải quyết Tranh chấp. Các vụ việc giải quyết tranh
chấp về việc chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi.
Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây ra
rất nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại chung trên thế
giới. Vì vậy, các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định việc áp dụng
thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào nước
mình.
Trong thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới, đã có
nhiều nước áp dụng biện pháp này trước khi WTO ra đời. Căn cứ thống kê từ
năm 1990, việc áp dụng thuế chống bán phá giá hiện nay luôn thể hiện sự tiến
bộ và xu hướng phát triển của các nước đang phát triển so với các nước phát
triển. Điều này được thể hiện bằng biểu đồ dưới đây:
Xu hướng điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
(Nguồn: Báo cáo của Ban Thư ký WTO và Ủy ban chống bán phá giá WT )
Một điểm cần quan tâm là không chỉ có các nước phát triển áp dụng
thuế chống bán phá giá đối với các nước đang phát triển và ngược lại. Các
nước phát triển còn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước phát
triển khác và điều này cũng xảy ra tương tự đối với các nước đang phát triển.
1.2.1.1 Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát
triển
Kể từ năm 1995 cho đến cuối năm 2001, có 12 nước phát triển đã tiến
hành 899 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 502 lần áp dụng thuế chống
bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá.
Cũng trong thời gian đó, hàng hoá xuất khẩu của 32 nước phát triển lại
là đối tượng của 745 cuộc điều tra chống bán phá giá và chịu 430 lần bị áp
dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu.
Trong số các nước phát triển, Hoa kỳ và EU luôn đi đầu trong việc áp

dụng thuế chống bán phá giá, nhưng cũng không tránh khỏi là đối tượng bị áp
dụng thuế chống bán phá giá từ các nước khác. Hoa kỳ đã tiến hành 255 cuộc
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
điều tra chống bán phá giá và có 169 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, tuy
nhiên chỉ 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. EU cũng gần tương đương
Hoa kỳ với 246 cuộc điều tra và có 153 lần áp dụng thuế chống bán phá giá và
cũng chỉ 18 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá.
Hàn quốc cũng 28 lần áp dụng thuế chống phá giá và 70 lần bị áp dụng
thuế chống bán phá giá. Nhật Bản thì tương đối đặc biệt khi chỉ áp dụng thuế
chống bán phá giá có 1 lần nhưng 60 lần bị áp dụng thuế chống bán phá
giá.
1.2.1.2 . Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước đang
phát triển
Trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, có 23 nước đang phát
triển đã tiến hành 946 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 564 lần áp dụng
thuế chống bán phá giá.
Cũng trong thời gian đó, hàng hóa xuất khẩu của 60 nước đang phát
triển là đối tượng của 1100 cuộc điều tra chống bán phá giá và 736 lần bị áp
dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu.
Ấn độ là nước đang phát triển đi đầu trong việc áp dụng thuế chống
bán phá giá, đã tiến hành 248 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 155 lần áp
dụng thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, Ấn độ chỉ là đối tượng 37 lần bị áp
dụng thuế chống bán phá giá. Achentina và Braxin cũng nhiều lần áp dụng
thuế chống phá giá tương ứng với 97 và 51 lần. Họ cũng là đối tượng tương
ứng 7 và 45 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá.
Trung quốc thì tương đối đặc biệt khi chưa áp dụng thuế chống bán phá
giá lần nào nhưng bị áp dụng thuế chống bán phá giá tới 178 lần. Đây có thể
được coi là quốc gia "đi đầu" trong việc bán phá giá hàng hóa sang các nước
khác. Tất nhiên, một lý do quan trọng gây bất lợi cho các nhà xuất khẩu của

Trung quốc là nhiều nước phát triển chưa coi nền kinh tế Trung quốc là kinh tế
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
thị trường, do đó dễ dẫn tới kết luận là hàng xuất khẩu bị bán phá giá, mặc dù
trên thực tế có thể không phải như vậy.
1.2.2 Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa kỳ
Chính sách chống phá giá của Hoa kỳ được thể hiện thông qua Luật
chống bán phá giá năm 1921. Kho bạc Nhà nước Hoa kỳ lúc đó được giao
nhiệm vụ điều tra các hành vi bán phá giá và ấn định mức thuế chống bán phá
giá. Tuy nhiên, nhiệm vụ này đã được chuyển giao cho Bộ Thương mại Hoa
kỳ đảm nhận sau khi Nghị viện Hoa kỳ thông qua một đạo luật mới về thực thi
hiệp định thương mại (Trade Agreement Act), trong đó có quy định liên quan
đến việc điều tra, áp dụng thuế chống phá giá vào năm 1979.
Sau khi WTO ra đời trên cơ sở kết quả đàm phán của vòng Uruguay vào
năm 1995, các quy định của Hoa kỳ về chống bán phá giá phải tuân thủ theo
Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Trên cơ sở đó, Hoa kỳ đã ban hành
Quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp vào năm 1997, trong đó
hướng dẫn tiến trình thực hiện về điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá.
Các cuộc điều tra phá giá hàng năm của Hoa kỳ ngày càng giảm từ khi
Hiệp định chống bán phá giá của WTO có hiệu lực vào năm 1995, từ cao nhất
là 84 cuộc điều tra trong năm 1992 còn 14 (1995), 21(1996) và 15(1997).
Theo con số thống kê chính thức từ Bộ Thương mại Hoa kỳ, đã có 72 cuộc
điều tra chống phá giá từ 1996 đến 1998. Trong năm 1998, sức ép của ngành
công nghiệp trong nước và cạnh tranh nước ngoài, đặc biệt là về sắt thép đã
làm số cuộc điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá tăng lên thành 36 cuộc,
gấp đôi so với hai năm trước gộp lại.
Việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa kỳ thường tập
trung vào mặt hàng chính là sắt thép. Trong số 72 cuộc điều tra chống phá giá
từ 1996 đến 1998 có đến 39 cuộc (chiếm 54%) về sản phầm sắt thép nhưng chỉ
chú trọng vào một số mặt hàng sắt thép quan trọng, mang tính chiến lược cao

SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A
Chuyên đề thực tập chuyên ngành
như thép carbon cán nóng và cán mỏng. Từ năm 1999, Hoa kỳ đang áp dụng
mức thuế chống phá giá khoảng 25% đến 67,5% đối với sản phẩm sắt thép cán
nóng nhập khẩu từ Nhật bản, và đối với Brazil là 50,7% đến 71%. Đối với
Liên bang Nga, Hoa kỳ thực hiện theo Chương trình hành động áp dụng cho
ngành sắt thép, thoả thuận theo các yêu cầu liên quan đến nhập khẩu sản phẩm
sắt thép và hạn chế chỉ nhập khẩu 16 mặt hàng sắt thép với số lượng nhất
định.
Tổng kết trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, Hoa kỳ đã
tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và 169 lần áp dụng thuế chống
bán phá giá, tuy nhiên chỉ là đối tượng chịu 57 lần bị áp dụng thuế chống bán
phá giá. Như vậy từ năm 1999 cho đến 2001, việc áp dụng thuế chống bán phá
giá của Hoa kỳ đã tăng lên khá nhanh.
1.2.3. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của EU
1.2.3.1 Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trong liên minh châu
Âu
Thị trường EU bao gồm thị trường 15 nước thành viên. Từ năm 1996 --
2000 EU đã tiến hành điều tra phá giá và trợ cấp trong các ngành sản xuất sau:
Sản phẩm 1996 1997 1998 1999 2000
Hóa chất 8 28 17
Hàng dệt 10 8 9 11
Gỗ và giấy 7
Điện tử 14 12 2
Cơ khí 1 5 1
Sắt thép 9 4 19 25 7
Kim loại khác 1 1 2
Sản phẩm khác 5 2 1 5 2
Tổng số 25 45 29 86 31
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A

Chuyên đề thực tập chuyên ngành
Số vụ điều tra phá giá 24 42 21 66 31
điều tra trợ cấp 1 3 8 20 0
Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá ở EU:
i) Hàng nhập khẩu bị bán với giá thấp hơn giá trị thông thường (phá giá);
ii) Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của EU bị thiệt hại về vật chất do hàng
nhập khẩu bị bán phá giá gây ra;
iii) Việc đánh thuế chống bán phá giá là cần thiết cho lợi ích của EU.
Không giống như qui định trong Hiệp định Chống bán phá giá của
WTO, điều kiện thứ ba tính đến cả lợi ích của người tiêu dùng và của ngành
sản xuất sử dụng hàng nhập khẩu làm nguyên liệu đầu vào. Tóm lại quyết định
đánh thuế chống bán phá giá của EU được dựa trên toàn bộ lợi ích của cả cộng
đồng.
* Cơ quan điều tra và thủ tục điều tra
Thủ tục điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá của EU được qui định ở
Qui chế 384/96 ngày 22/12/1995 của Hội đồng Bộ trưởng EU, sau đây gọi là
tắt là “Qui chế chống bán phá giá”.
- Các cơ quan chức năng bao gồm:
+ Ủy ban
Ủy ban châu Âu đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thi hành luật
chống bán phá giá của EU, là cơ quan có trách nhiệm nhận đơn đề nghị điều
tra phá giá, quyết định mở cuộc điều tra, tiến hành điều tra, áp dụng thuế
chống bán phá giá tạm thời, quyết định chấp nhận cam kết giá bởi các nhà
xuất khẩu nước ngoài và kiến nghị lên Hội đồng Bộ trưởng việc áp dụng thuế
chống bán phá giá chính thức. Ủy ban còn có quyền kiến nghị lên Hội đồng
Bộ trưởng phê chuẩn sửa đổi Qui chế chống bán phá giá và ban hành các luật
mới về thương mại. Trong nội bộ Ủy ban, việc thực thi luật chống bán phá giá
SV: Đoàn Văn Hưng Lớp: KTQT45A

×