Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.63 KB, 96 trang )

BỘ THƯƠNG MẠI
Vụ CSTM Đa biên
ĐỀ TÀI CẤP BỘ
Mã số: 2001-78-030
Cơ sở khoa học áp dụng thuế
chống bán phá giá đối với hàng
nhập khẩu ở Việt nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Cơ quan chủ trì: Vụ CSTM Đa biên . Bộ Thương mại
Chủ nhiệm Đề tài: Th.s Nguyễn Thanh Hưng
Hà nội, 8/2002
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi thực hiện chính sách .mở cửa. vào năm 1986 đến nay nhiều thay đổi to lớn về
chính sách thương mại đã diễn ra. Nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan tới thương mại
đã được ban hành như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật
Thương mại, Nghị định số 57/NĐ-CP, Quyết định số 46/QĐ-TTg, v.v. Kinh tế Việt Nam phát
triển khá nhanh và ổn định. Đồng thời chính sách thương mại đã khá tự do, nhiều hàng rào phi
thuế quan đối với hàng nhập khẩu được giảm đáng kể.
Về quan hệ kinh tế đối ngoại, từ năm 1995 đến nay Việt Nam đã tích cực tham gia quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
(ASEAN) và Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) năm 1995, Diễn đàn Hợp tác á - Âu
(ASEM) năm 1996, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á - Thái bình dương (APEC) năm 1998.
Tháng 7/2000, Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa kỳ đã được ký kết
và bắt đầu có hiệu lực từ 11/12/2001. Hiện nay Việt Nam đang tích cực đàm phán gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) và đang tiến hành xây dựng chính sách thương mại phù
hợp với qui định của WTO.
Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong hơn một
thập kỷ qua Việt Nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa. Trong khi một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có uy tín trên thị
trường thế giới, đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất khẩu của ta bị nước nhập khẩu điều
tra và áp dụng thuế chống bán phá giá.


Ngoài việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tự do hóa thương mại cũng có thể dẫn đến
một số tác động bất lợi. Vài năm trước đây nếu hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá
khó gây ra thiệt hại cho các nhà sản xuất mặt hàng cùng loại trong nước thì trong những năm
tới lại có thể gây ra những tổn thất lớn do khi đó hàng rào bảo hộ bằng các biện pháp hạn chế
định lượng có thể đã biến mất, đồng thời thuế suất thuế nhập khẩu bị giảm xuống. Vì vậy, đã
đến lúc chúng ta cần phải nghiên cứu và sớm áp dụng các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các
qui định của WTO, trong đó có thuế chống bán phá giá.
Thuế chống bán phá giá được áp dụng lần đầu tiên ở Canada vào năm 1904 và ngày
càng được phổ biến rộng rãi không những ở các nước phát triển như Mỹ, Canada, EU, úc mà
cả các nước đang phát triển như Brazil, Arhentina, Mexico, ấn độ, Malaysia. Đây là một công
cụ bảo vệ hiệu quả hàng hóa sản xuất trong nước khi phảI cạnh tranh với hàng nhập khẩu bị
bán phá giá.
Mặc dù Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998 cho phép áp dụng thuế bổ sung đối với hàng nhập
khẩu bị bán phá giá vào Việt Nam, Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 4/4/2001 cũng qui định việc xây dựng nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá trong
năm 2001 nhưng cho đến nay Việt Nam chưa áp dụng trường hợp thuế chống bán phá giá nào
do chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể việc điều tra phá giá và áp
dụng thuế chống bán phá giá.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ban soạn thảo Pháp lệnh về thuế chống
bán phá giá đã được thành lập ngày 2/2/2002. Pháp lệnh này đã được đăng ký vào Chương
trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội vào năm 2003. Để đáp ứng nhu cầu tăng cường
bảo hộ sản xuất trong nước và hỗ trợ việc xây dựng Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá, đề
tài .Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. được triển khai nghiên cứu trong vòng một năm với
các nội dung chính như sau:
Chương I giới thiệu khái niệm bán phá giá và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá
giá, vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất, phân tích lợi ích chung của
toàn xã hội khi áp dụng thuế chống bán phá giá. Một kết luận đáng lưu ý của Chương này là
thuế chống bán phá giá, mặc dù có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước nhưng lại có thể gây

thiệt hại cho lợi ích tổng thể toàn xã hội trong trường hợp lợi ích đem lại cho nhà sản xuất
không đủ bù đắp cho thiệt hại của người tiêu dùng mặt hàng bị đánh thuế chống bán phá giá.
Chương I cũng giới thiệu các điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương
mại quốc tế và thủ tục điều tra phá giá theo qui định của Hiệp định Chống bán phá giá của
WTO. Nguyên tắc đánh thuế chống bán phá giá rất đơn giản: giá trị thuế không được vượt quá
mức chênh lệch giữa giá trị thông thường (giá bán sản phẩm tương tự ở thị trường nước xuất
khẩu) và giá xuất khẩu. Nhưng trên thực tế để so sánh được hai giá trị này một cách chính xác
và công bằng thì cần phải qui định thủ tục điều tra và cách tính rất chi tiết. Ngoài ra để áp
dụng được thuế chống bán phá giá cần phảI có qui định chặt chẽ về cách đánh thuế, truy thu
thuế, hoàn thuế và khiếu nại. Hiệp định Chống bán phá giá của WTO đưa ra qui định về tất cả
các thủ tục đó và tất cả các nước thành viên WTO đều phải ban hành luật quốc gia về chống
bán phá giá phù hợp với Hiệp định này.
Chương II giới thiệu tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế
giới. Mặc dù thuế chống bán phá giá bắt đầu được áp dụng ở các nước phát triển như Hoa kỳ,
Canada nhưng ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển như Braxin, ấn độ,
Malaysia, v.v. Thực tiễn áp dụng loại thuế này ở một số nước thành viên WTO như Hoa kỳ,
Canada, EU và Thái lan cho thấy nguyên tắc điều tra phá giá của các nước này về cơ bản đều
phù hợp với qui định của WTO. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy điều tra phá giá và cách thu thuế
chống bán phá giá ở các nước này có một số khác biệt. Việc nghiên cứu những khác biệt này
rất có ích cho việc triển khai áp dụng thuế chống bán phá giá ở nước ta.
Chương III phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khả năng áp dụng thuế
chống bán phá giá của Việt Nam. Việc mở cửa thị trường dẫn đến nhu cầu bảo hộ sản xuất
trong nước bằng các công cụ mới ngày càng tăng, đặc biệt là công cụ thuế chống bán phá giá.
Nhưng áp dụng thuế chống bán phá giá là một vấn đề rất phức tạp. Để có thể triển khai áp
dụng được thuế chống bán phá giá trước hết cần phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
loại thuế này, sau đó cần tổ chức các cơ quan thực thi chống phá giá và đào tạo nguồn nhân
lực.
Sau khi nghiên cứu cơ sở khoa học và một số mô hình áp dụng thuế chống bán phá giá
điển hình ở một số nước trên thế giới, căn cứ vào điều kiện thực tế của Việt Nam, đề tài đưa
ra kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam, bao gồm những vấn đề sau:

- Ban hành Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá;
- Thành lập ủy ban liên Bộ để thực thi chống bán phá giá;
- Nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp.
Phụ lục 1 giới thiệu về các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã và đang bị điều tra/áp
dụng thuế chống bán phá giá trên thị trường quốc tế. Phụ lục 2 giới thiệu các mặt hàng nhập
khẩu vào Việt Nam có khả năng bị bán phá giá và cuối cùng Phụ lục 3 giới thiệu toàn văn
Hiệp định Chống bán phá giá của WTO.
Trong một năm qua nhóm nghiên cứu đề tài đã nỗ lực làm việc để có được kết quả
nghiên cứu này và hy vọng đề tài sẽ góp phần hỗ trợ cho việc xây dựng Pháp lệnh về thuế
chống bán phá giá ở Việt Nam. Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến các đồng
nghiệp ở Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan và
các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong quá trình
nghiên cứu đề tài này.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
I. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá
1. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá
- Bán phá giá: Trong ngôn ngữ tiếng Việt, .bán phá giá. thường được hiểu là hành động
bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm
cho những người bán hàng khác phải hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá
trên cùng một thị trường. Tuy nhiên, khái niệm bán phá giá trong thương mại quốc tế
hàm ý so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị trường nước nhập khẩu và thị
trường nước xuất khẩu, mặc dù giá bán ở thị trường tiêu thụ (nước nhập khẩu) có thể
không khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trường hợp giá bán cao hơn giá hiện hành.
Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng bán phá giá xảy ra khi hàng
hoá xuất khẩu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội
địa (của nước xuất khẩu). Nếu đọc lướt qua, định nghĩa này thật đơn giản, chỉ việc so
sánh giữa giá xuất khẩu với giá bán tại nội địa, nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa
tức là có sự bán phá giá. Tuy nhiên, sự việc lại không đơn giản chút nào khi một loạt
câu hỏi được đặt ra cần giải quyết khi so sánh giá để đảm bảo sự chính xác và công

bằng: giá nội địa là giá nào? Là giá bán buôn hay bán lẻ? Giá xuất khẩu là giá nào?
v.v...
- Thuế chống bán phá giá: là một sắc thuế mà nước nhập khẩu đánh vào một mặt hàng
nhập khẩu được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc bán phá giá
đó để tránh gây thiệt hại cho ngành sản xuất mặt hàng tương tự ở trong nước.
2. ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá
Tác động của việc bán phá giá được đánh giá một cách đơn giản theo hình dưới đây.
Trước khi có việc hàng của nước khác được bán vào thị trường một nước với giá thấp hơn giá
hiện hành, cung và cầu mặt hàng đó cân bằng ở điểm E, với giá P1 và lượng tiêu thụ Q1, hoàn
toàn là hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi có nguồn hàng nước ngoài bán với giá thấp
hơn là P2, lượng tiêu thụ tăng lên Q2, trong đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống
chỉ còn Q’2, lượng hàng nhập khẩu là Q2-Q’2.
Từ hình này cho thấy thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một lượng bằng diện
tích hình thang ABDE, trong khi đó thặng dư của nhà sản xuất trong nước giảm một lượng
bằng diên tích hình thang ABCE. Như vậy có thể thấy tác động của việc bán phá giá là: gây
thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về tổng
thể, toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CDE.
Xuất phát từ thành kiến cố hữu, việc "bán phá giá" thường được coi là có tác động tiêu
cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận của những người bán hàng khác hoặc gây thiệt hại
cho các nhà sản xuất cùng một mặt hàng của nước nhập khẩu, cho nên người ta thường tìm
biện pháp để chống lại hành động này. Tuy nhiên, cần phải có sự phân tích thấu đáo bản chất
của mọi trường hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá giá đều có hại
hay không để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng.
Có thể hình dung các trường hợp bán phá giá sau đây:
Thứ nhất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn
chi phí sản xuất;
Thứ hai, giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là thấp hơn giá thị trường
trong nước. Trong trường hợp này còn có thể xảy ra một số tình huống khác
nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay chi phí
"chi phí lề".

" Trường hợp thứ nhất: giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nhưng cao hơn chi phí
sản xuất. Trường hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc quyền hoặc gần như
độc quyền ở thị trường nội địa xuất phát từ điều kiện tự nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ
hàng rào thương mại, nhưng phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu. Trong trường hợp
này, vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn
định giá bán trong nước cao hơn, chừng nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó,
do phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán với giá đang tồn tại ở
thị trường đó. Như vậy đã xảy ra việc bán phá giá như định nghĩa ở trên. Nếu việc bán phá giá
này không làm giá ở thị trường nước nhập khẩu thay đổi (do cạnh tranh ở đây hoàn hảo), sẽ
không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có
biện pháp chống lại. Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong
thời gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu, sẽ gây tác động đến lợi ích của nước
nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ được lợi từ giá thấp, nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công
nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị giảm. Lợi ích cuối
cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại
của người sản xuất và công nhân hay không. Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập
khẩu bị thiệt hại cũng khó có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hóa
của hãng đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có thể lập luận rằng do điều kiện thị
trường của nước nhập khẩu là cạnh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị trường đó
và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nước nhập khẩu có thể áp dụng
các biện pháp được phép khác như tự vệ.
c Trường hợp thứ hai: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất. Trước hết, để hiểu được ý
nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn chi phí, cần phân biệt các loại chi phí. Thông
thường, chi phí sản xuất được phân biệt theo 2 loại: chi phí bình quân (average cost) và chi
phí lề (marginal cost). Chi phí bình quân được tính bằng tổng tất cả các chi phí một hãng phải
chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra. Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm
một đơn vị sản phẩm. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại
chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi
phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề là yếu tố quyết định
trong việc định giá của một hãng trong thời gian ngắn hạn khi phải chịu chi phí nhất định để

thâm nhập một thị trường. Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường giảm,
và các hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Nếu giá bán thấp hơn chi phí bình quân, hãng
đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ thuộc vào lượng sản xuất,
mức độ lỗ sẽ phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và vào mức chi phí lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn
chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán với hy vọng sau một thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi,
hoặc chỉ để giảm thiệt hại trước khi rút lui khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình
thường của các hãng đối với sự thay đổi của thị trường, kể cả các hãng nước ngoài và hãng
nội địa.Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập khẩu là bất hợp
lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng giữa hãng nội địa và hãng nước ngoài. Tuy nhiên,
một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các hãng nội địa giảm nhẹ thiệt hại
dưới hình thức các biện pháp tự vệ. Cũng có những trường hợp các hãng bán với giá thấp
hơn chi phí lề. Trong các trường hợp này không thể xem xét hành động của các hãng với mục
tiêu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận mà vì các mục tiêu khác.
- Chiếm lĩnh thị trường. Một hãng nước ngoài, với mục tiêu thiết lập vị thế độc quyền ở
thị trường nội địa, thực hiện chính sách bán sản phẩm của mình với giá thấp hơn chi
phí lề cho đến khi đẩy hết các đối thủ cạnh tranh khác ra khỏi thị trường mặt hàng đó.
Sau khi chiếm được thị trường, hãng đó lại nâng giá để khai thác lợi thế độc quyền của
mình. Ngoài tác động làm cho các nhà sản xuất trong nước bị phá sản, hành động này
còn làm giảm lợi ích của toàn xã hội như trong trường hợp độc quyền khác, và do vậy
cần có biện pháp ngăn cản.
- Cạnh tranh giành thị phần. Một trong những biện pháp marketing các hãng có thể sử
dụng để cạnh tranh nhằm tăng thị phần trên một thị trường là bán với giá thấp hơn chi
phí lề trong một thời gian ngắn với hy vọng lượng hàng bán tăng trong tương lai với
giá bình thường sẽ bù đắp phần lỗ.
- Tóm lại, có rất nhiều trường hợp các hãng nước ngoài có thể xuất khẩu hàng của mình
sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm chí thấp hơn cả chi phí
sản xuất, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp đều có thể gán cho cái tên "bán phá
giá" để áp dụng các biện pháp ngăn cản. Trong nhiều trường hợp làm như vậy chỉ tạo
ra một sự bảo hộ không cần thiết cho ngành sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của
người tiêu dùng cũng như của toàn xã hội.

3. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất
Biện pháp được phép sử dụng trong chống bán phá là thuế theo tỷ lệ phần trăm (ad-
valorem), do vậy tác động về mặt lợi ích đối với xã hội của biện pháp này cũng giống như tác
động của thuế nhập khẩu thông thường theo tỷ lệ phần trăm. Tác động đó được phân tích theo
phương pháp "cân bằng từng phần" như sau:
Khi một sắc thuế T được áp dụng, làm cho giá trong nước của sản phẩm tăng lên một
lượng bằng T. Do vậy, với các yếu tố về cầu của thị trường nội địa đối với sản phẩm đó không
đổi, lượng tiêu thụ giảm từ Q1 xuống Q’1, trong đó lượng hàng sản xuất trong nước tăng từ
Q2 lên Q’2, lượng hàng nhập khẩu giảm xuống chỉ còn bằng Q’1-Q’2. Như vậy có thể thấy rõ
tác động bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với sản xuất trong nước: làm tăng giá trong nước,
giảm tiêu thụ hàng nhập khẩu và tăng sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất trong nước được
hưởng lợi rõ ràng khi giá trị thặng dư của họ được gia tăng thêm một lượng bằng diện tích tứ
giác ACJG.
Tuy nhiên, cùng với việc các nhà sản xuất được hưởng lợi thì người tiêu dùng lại bị
thiệt hại: giá trị thặng dư của họ bị giảm một lượng bằng diện tích tứ giác ABHG. Nhà nước
cũng được hưởng lợi khi ngân sách thu vào từ thuế nhập khẩu tăng một lượng bằng diện tích
hình chữ nhật MNHJ. Thế nhưng, xét về tổng thể, toàn xã hội sẽ bị thiệt khi lợi ích mang lại
cho các nhà sản xuất trong nước và Nhà nước không thể bù đắp cho thiệt hại về lợi ích của
người tiêu dùng. Lượng thiệt hại của xã hội bằng diện tích tam giác CMJ cộng diện tích tam
giác NBH.
Ngoài tác động bảo hộ của thuế chống phá giá như phân tích trên đây, quá trình dẫn
đến việc áp dụng thuế chống phá giá cũng phần nào có tác động bảo hộ. Ví dụ, bản thân việc
bắt đầu quá trình điều tra chống phá giá có nghĩa là trong tương lai rất có thể thuế chống phá
giá sẽ được áp dụng, làm cho sản phẩm là đối tượng điều tra trở nên ít hấp dẫn hơn đối với các
nhà nhập khẩu, như vậy phần nào đã ngăn cản dòng hàng hoá nhập khẩu.
II. Giới thiệu Hiệp định Chống bán phá giá của WTO
Năm 1948 hệ thống thương mại đa biên được thiết lập với sự ra đời của Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Trải qua gần một nửa thế kỷ, những qui định
của GATT về thương mại đa biên, trong đó có qui định về chống bán phá giá (Điều VI) tỏ ra
chưa chặt chẽ. Cùng với sự ra đời của WTO, Hiệp định Chống bán phá giá đã có những qui

định chặt chẽ và chi tiết hơn nhiều so với Điều VI của GATT.
Theo Hiệp định này, nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá khi:
- Hàng nhập khẩu bị bán phá giá;
- Gây thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước; và
- Cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục.
Hiệp định Chống bán phá giá của WTO qui định rất chi tiết nguyên tắc xác định phá
giá, cách tính biên độ phá giá và thủ tục điều tra phá giá như sau:
1. Xác định việc bán phá giá
a. Định nghĩa phá giá
Một sản phẩm được coi là bị bán phá giá khi:
- giá xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện thương
mại thông thường ("giá trị thông thường")
- của sản phẩm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường nước xuất khẩu WTO không đề cập
đến trường hợp bán phá giá sản phẩm tương tự trong thị trường nội địa của một nước.
Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có các đặc tính gần giống với
sản phẩm là đối tượng điều tra.
Điều kiện thương mại thông thường: không có định nghĩa. Ví dụ: khi giá bán tại thị
trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá thành sản xuất thì có thể coi như là không nằm
trong điều kiện thương mại thông thường.
b. Nguyên tắc xác định phá giá:
- Biên độ phá giá (BĐPG) = giá trị thông thường (GTTT) - giá xuất khẩu (GXK) BĐPG >
0 ê có phá giá
- BĐPG có thể tính bằng trị giá tuyệt đối hoặc theo phần trăm theo công thức:
- BĐPG = (GTTT-GXK)/GXK
c. Tính biên độ phá giá
c Cách tính GTTT:
Trường hợp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do:
- SPTT không được bán nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông thường; hoặc
- có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt; hoặc

- số lượng bán ra không đáng kể (< 5% số lượng SPTT bán ở nước nhập khẩu) thì:
GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba ; hoặc
GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng, quản lý chung.)
+ lợi nhuận
Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị trường (giá bán hàng và
giá nguyên liệu đầu vào do chính phủ ấn định) thì các qui tắc trên không được áp dụng để xác
định GTTT.
đ Cách tính GXK:
GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu đầu tiên.
Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do:
- giao dịch xuất khẩu được thực hiện trong nội bộ công ty; hoặc
- theo một thỏa thuận đền bù nào đó thì:
GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một người mua độc lập ở nước
nhập khẩu.
n So sánh GTTT và GXK:
Để so sánh một cách công bằng GTTT và GXK, Hiệp định qui định nguyên tắc so sánh như
sau:
- So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại (cùng xuất xưởng/bán buôn/bán lẻ),
thường lấy giá ở khâu xuất xưởng;
- Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt.
Việc so sánh GTTT và GXK là cả một quá trình tính toán rất phức tạp, vì không phải bao giờ
cũng có sẵn mức giá xuất xưởng của GTTT và GXK mà chỉ có mức giá bán buôn hoặc bán lẻ
của SPTT ở thị trường nước xuất khẩu (GTTT+) và giá tính thuế hải quan, giá hợp đồng hoặc
giá bán buôn/bán lẻ SPTT của nhà nhập khẩu (GXK+) nên thường phải có một số điều chỉnh
để có thể so sánh GTTT và GXK một cách công bằng.
Điều chỉnh các chênh lệch trong:
- điều kiện bán hàng
- các loại thuế
- số lượng sản phẩm
- đặc tính vật lý của sản phẩm

- và những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc so sánh hai giá
Ví dụ: khi lấy giá bán SPTT cho một người mua độc lập ở nước nhập khẩu làm GXK+ thì
GXK sẽ được xác định bằng cách điều chỉnh như sau:
GXK = (GXK+) - (lợi nhuận) - (các loại thuế + chi phí phát sinh từ khâu nhập khẩu đến khâu
bán hàng)
Cách so sánh:
- Trung bình GTTT so với trung bình GXK; hoặc
- GTTT (từng giao dịch) so với GXK (từng giao dịch); hoặc
- Trung bình GTTT so với GXK (từng giao dịch)
(cách này chỉ được áp dụng khi GXK+ chênh lệch đáng kể giữa những người mua, các vùng
hoặc giữa các khoảng thời gian khác nhau)
Trường hợp SPTT được xuất khẩu sang nước nhập khẩu qua một nước trung gian (nước xuất
khẩu):
- Giá SPTT ở nước xuất khẩu (nước trung gian ) so với giá bán SPTT từ nước xuất khẩu
sang nước nhập khẩu.
Nếu SPTT chỉ đơn thuần được chở từ nước sản xuất qua nước xuất khẩu thì:
- Giá ở nước xuất xứ so với giá bán SPTT từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
2. Xác định thiệt hại
2 Định nghĩa thiệt hại:
- Thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại hiện tại); hoặc
- Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại tương lai);
hoặc
- Làm trì trệ sự phát triển một ngành sản xuất trong nước (không có qui định cụ thể)
Như vậy, để xác định thiệt hại cần xem xét các nhân tố sau:
(i) Khối lượng hàng nhập khẩu bị bán phá giá: có tăng một cách đáng kể không?
(ii) Tác động của hàng nhập khẩu đó lên giá SPTT: Giá của hàng nhập khẩu đó:
- có rẻ hơn giá SPTT sản xuất ở nước nhập khẩu nhiều không?
- có làm sụt giá hoặc kìm giá SPTT ở thị trường nước nhập khẩu không?
Khi sản phẩm thuộc diện điều tra được nhập khẩu từ nhiều nước: đánh giá gộp tác động nếu
BĐPG >= 2% GXK và khối lượng hàng nhập khẩu từ mỗi nước >= 3% khối lượng nhập khẩu

SPTT Việc khảo sát tác động của hàng nhập khẩu bị bán phá giá đối với một ngành sản xuất
trong nước phải xem xét tất cả các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến ngành sản xuất đó,
gồm những yếu tố sau:
- Năng suất
- Thị phần
- Biên độ phá giá
- Giá nội địa ở nước nhập khẩu
- Suy giảm thực tế và nguy cơ suy giảm doanh số bán hàng
- Số lượng hàng tồn kho
- Sản lượng
- Tình trạng thất nghiệp
- Lương
- Tác động tiêu cực đến luồng tiền
- Huy động năng lực
- Lợi nhuận
- Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư
- Đầu tư
- Khả năng huy động vốn
- Tốc độ tăng trưởng
Khi xác định mối liên hệ giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại cho một ngành sản
xuất trong nước: cần tính đến những yếu tố khác (ngoài việc bán phá giá), nếu các yếu tố này
gây thiệt hại cho ngành sản xuất đó thì không được quy thiệt hại của ngành sản xuất đó do
hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra.
h Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước
Để xác định nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước cần xem xét:
- Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu trong tương lai;
- Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến khả năng tăng nhập khẩu;
- Tình hình hàng nhập khẩu làm sụt giá SPTT ở nước nhập khẩu;
- Số lượng tồn kho SPTT ở nước nhập khẩu
3. Ngành sản xuất trong nước

Ngành sản xuất trong nước là toàn bộ các nhà sản xuất trong nước sản xuất ra SPTT hoặc
một số nhà sản xuất có sản lượng chiếm đa số tổng sản lượng trong nước Có thể xuất hiện một
số trường hợp đặc thù dẫn tới việc xác định cụ thể ngành sản xuất trong nước sau:
- Nhà sản xuất và nhà xuất khẩu/nhập khẩu có liên quan với nhau: ngành sản xuất trong nước
là các nhà sản xuất còn lại.
- Lãnh thổ nước nhập khẩu bị chia thành nhiều thị trường riêng: các nhà sản xuất ở mỗi thị
trường có thể coi là một ngành sản xuất riêng nếu:
+ bán toàn bộ hoặc phần lớn sản phẩm liên quan ra thị trường đó; và
+ nhu cầu của thị trường đó đối với SPTT nhập khẩu từ nước khác là không đáng kể.
4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành điều tra chống phá giá
Việc điều tra nhằm xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của một sản phẩm bị bán phá giá
sẽ được tiến hành khi:
- có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong
nước đề nghị điều tra phá giá; hoặc
- không có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất
trong nước nhưng cơ quan điều tra có đầy đủ bằng chứng về việc bán phá giá, thiệt hại và mối
liên hệ giữa hai yếu tố này. Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau:
- Tên người nộp đơn, số lượng và giá trị của sản phẩm tương tự do người nộp đơn sản xuất
trong nước. Nếu đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất trong nước thì đơn phải nêu danh
sách tất cả các nhà sản xuất sản phẩm tương tự trong nước và số lượng,
giá trị của các sản phẩm tương tự do các nhà sản xuất này sản xuất;
- Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, xuất xứ hàng hóa, tên nhà xuất khẩu hoặc nhà
sản xuất nước ngoài;
- Giá sản phẩm liên quan khi tiêu thụ ở thị trường trong nước sản xuất hoặc nước xuất khẩu,
hoặc giá mà sản phẩm liên quan được bán cho người mua độc lập đầu tiên ở nước nhập khẩu;
- Số lượng nhập khẩu của sản phẩm đang bị nghi ngờ phá giá, ảnh hưởng của việc nhập khẩu
này lên giá sản phẩm tương tự ở thị trường nước nhập khẩu và ảnh hưởng đối với ngành sản
xuất trong nước. Cơ quan điều tra sẽ xác minh tính chính xác và đầy đủ của các bằng chứng
nêu trong đơn để xác định xem đã có đủ lý do hợp lệ để tiến hành điều tra chưa. Cơ quan điều
tra sẽ không tiến hành điều tra phá giá trừ khi xác định được rằng đơn xin điều tra được nộp

bởi ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước của sản
phẩm tương tự, nghĩa là:
(i) sản lượng sản xuất sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp
đơn phải lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất trong nước phản đối đơn; và
(ii) sản lượng của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải chiếm ít nhất 25%
tổng sản lượng sản phẩm tương tự của ngành sản xuất trong nước.
Cuộc điều tra phá giá sẽ bị chấm dứt ngay lập tức nếu cơ quan điều tra xác định được rằng:
i) biên độ phá giá nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu; hoặc
ii) số lượng nhập khẩu hàng bị nghi ngờ bán phá giá từ một nước nhỏ hơn 3% tổng nhập
khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu, trừ trường hợp từng nước xuất khẩu có lượng
hàng nhập khẩu dưới 3%, nhưng lượng hàng nhập khẩu của tất cả các nước xuất khẩu chiếm
trên 7% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu.
Thủ tục hải quan vẫn được tiến hành trong khi điều tra phá giá. Trừ trường hợp đặc biệt, một
cuộc điều tra phá giá sẽ được tiến hành trong vòng 1 năm, và trong bất kỳ trường hợp nào
cũng không được quá 18 tháng.
5. Thu thập thông tin
Cơ quan điều tra sẽ gửi thông báo cho tất cả các bên có quan tâm đến cuộc điều tra phá giá đề
nghị cung cấp bằng văn bản mọi bằng chứng liên quan đến cuộc điều tra. Thời hạn trả lời câu
hỏi điều tra là 30 ngày và có thể được gia hạn thêm 30 ngày hoặc lâu hơn nếu cần thiết. Ngay
khi bắt đầu điều tra, cơ quan điều tra sẽ gửi nguyên văn đơn đề nghị điều tra cho các nhà xuất
khẩu và cơ quan liên quan ở nước xuất khẩu và các bên quan tâm khi có yêu cầu.
Trong suốt quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ tạo đầy đủ điều kiện cho các bên quan tâm
bảo vệ quyền lợi của mình, gặp các bên có quyền lợi đối nghịch để trao đổi quan điểm và đưa
ra thỏa thuận. Các bên quan tâm có quyền trình bày các thông tin khác bằng miệng, nhưng sẽ
chỉ được cơ quan điều tra lưu ý tới khi được soạn lại bằng
văn bản và gửi cho các bên quan tâm khác.
Bất kỳ thông tin nào có tính bí mật (chẳng hạn, bị đối thủ cạnh tranh lợi dụng hoặc gây tác hại
cho người cung cấp thông tin) hoặc được các bên cung cấp một cách bí mật sẽ không được tiết
lộ nếu không được bên cung cấp cho phép. Cơ quan điều tra có thể tiến hành điều tra ở nước
ngoài nếu cần thiết để thẩm định các thông tin cung cấp hoặc để tìm hiểu thêm chi tiết với

điều kiện được sự đồng ý của các công ty liên quan và thông báo cho đại diện chính phủ nước
này và nước này không phản đối.
Cơ quan điều tra sẽ tính biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sản
phẩm đang bị điều tra. Trường hợp không tính được biên độ phá giá riêng do số nhà xuất
khẩu, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm liên quan quá lớn thì cơ quan điều tra
có thể giới hạn diện điều tra tới một số nhà sản xuất, xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc giới hạn ở
một số loại sản phẩm nhất định bằng cách sử dụng mẫu thống kê, hoặc giới hạn ở tỷ lệ phần
trăm lớn nhất của khối lượng hàng xuất khẩu từ nước liên quan.
Việc chọn các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm để điều tra giới
hạn sẽ được tiến hành trên cơ sở tham khảo ý kiến và có sự đồng ý của các nhà sản xuất, nhà
xuất khẩu, nhà nhập khẩu có liên quan.
Trong trường hợp cơ quan điều tra giới hạn diện điều tra như nêu trên, họ vẫn có thể tính biên
độ phá giá riêng cho các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất mà ban đầu không được đưa vào
diện điều tra nhưng đã cung cấp thông tin đúng thời hạn.
Cơ quan điều tra sẽ tạo điều kiện cho người tiêu dùng sản phẩm đang điều tra hoặc tổ chức đại
diện người tiêu dùng cung cấp thông tin liên quan đến cuộc điều tra nếu sản phẩm được bán lẻ
rộng rãi.
6. áp dụng biện pháp tạm thời
Biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dưới các hình thức:
- Thuế; hoặc
- Đặt cọc khoản tiền tương đương với khoản thuế chống bán phá giá dự kiến; hoặc
- Cho thông quan nhưng bảo lưu quyền đánh thuế và nêu rõ mức thuế nhập khẩu
thông thường và mức thuế chống bán phá giá dự kiến sẽ áp dụng.
Trên thực tế, biện pháp tạm thời hay được áp dụng nhất là đặt cọc. Điều kiện áp dụng biện
pháp tạm thời:
i) cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo đúng thủ tục, gửi thông báo và tạo điều kiện cho các
bên quan tâm cung cấp thông tin và trình bày ý kiến;
ii) có kết luận sơ bộ về việc xảy ra bán phá giá và dẫn đến thiệt hại cho ngành sản xuất trong
nước; và
iii) cơ quan điều tra kết luận rằng biện pháp tạm thời là cần thiết để ngăn chặn thiệt hại trong

quá trình điều tra.
Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60 ngày sau khi bắt đầu điều tra và sẽ được
duy trì càng ngắn càng tốt, không được quá 4 tháng hoặc trong trường hợp cần thiết thì cũng
không được quá 6 tháng. Trường hợp cơ quan điều tra xác định được rằng khoản thuế thấp
hơn biên độ phá giá đã đủ để khắc phục thiệt hại thì thời hạn áp dụng biện pháp tạm thời có
thể là 6 tháng hoặc 9 tháng.
7. Cam kết giá
Việc điều tra có thể ngừng hoặc kết thúc mà không cần áp dụng biện pháp tạm thời hoặc thuế
chống bán phá giá nếu một nhà xuất khẩu tự nguyện cam kết tăng giá lên hoặc ngừng xuất
khẩu phá giá vào khu vực thị trường đang điều tra và được cơ quan điều tra nhất trí rằng biện
pháp này sẽ khắc phục được thiệt hại. Mức giá tăng không nhất thiết phải lớn hơn mà thường
là nhỏ hơn biên độ phá giá nếu như đã đủ để khắc phục thiệt hại cho ngành sản xuất trong
nước.
Cơ quan điều tra sẽ không chấp nhận cho các nhà xuất khẩu cam kết giá nếu
thấy việc cam kết không khả thi, chẳng hạn như khi số lượng nhà xuất khẩu thực tế quá lớn.
Trong trường hợp này, cơ quan điều tra sẽ giải thích rõ lý do không chấp nhận cam kết giá với
các nhà xuất khẩu.
Nếu cơ quan điều tra chấp nhận việc cam kết giá thì cuộc điều tra phá giá và thiệt hại vẫn có
thể được hoàn tất nếu nhà xuất khẩu muốn như vậy và cơ quan điều tra đồng ý. Trong trường
hợp này, nếu điều tra đi đến kết luận là không có phá giá hoặc không gây thiệt hại thì việc cam
kết giá sẽ đương nhiên chấm dứt, trừ khi kết luận trên được rút ra trong bối cảnh đã cam kết
giá rồi. Trường hợp này, cam kết giá sẽ được duy trì trong thời hạn hợp lý.
Cơ quan điều tra có thể đề nghị nhà xuất khẩu cam kết giá nhưng nhà xuất khẩu không bắt
buộc phải cam kết.
Các cơ quan hữu quan của nước nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ nhà xuất khẩu nào đã chấp
nhận cam kết giá cung cấp thông tin định kỳ về việc thực hiện cam kết giá.Trường hợp nhà
xuất khẩu vi phạm cam kết giá, cơ quan điều tra có thể lập tức áp dụng biện pháp tạm thời trên
cơ sở các thông tin mà họ có (best information).
8. áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá
Việc quyết định có đánh thuế chống bán phá giá hay không và đánh thuế tương đương hay

nhỏ hơn biên độ phá giá sẽ do cơ quan điều tra của nước nhập khẩu quyết định. Đối với một
sản phẩm bị bán phá giá, cơ quan chức năng sẽ xác định biên độ phá giá riêng cho từng nhà
xuất khẩu/sản xuất. Thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng cho từng trường hợp, trên cơ
sở không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn được coi là gây thiệt hại,
trừ trường hợp đã cam kết giá.
Trị giá thuế chống bán phá giá áp dụng sẽ không được vượt quá biên độ phá giá.
Có 2 hình thức thu thuế chống bán phá giá:
Kiểu tính thuế hồi tố (kiểu của Hoa Kỳ): việc tính mức thuế được căn cứ vào số liệu của thời
điểm trước khi điều tra (6 tháng - 1 năm). Sau khi điều tra, cơ quan chức năng bắt đầu áp dụng
một mức thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu
cầu đánh giá lại mức thuế (do giá xuất khẩu tăng lên) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác
định lại số tiền thuế phải nộp trong vòng tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được
yêu cầu. Sau đó mức thuế mới sẽ được áp dụng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong
vòng 90 ngày sau khi xác định lại mức thuế cuối cùng phải nộp.
Kiểu tính thuế ấn định (kiểu của EU): cơ quan điều tra lấy số liệu của thời điểm trước khi
điều tra để tính biên độ phá giá và ấn định biên độ này cho cả quá trình áp dụng thuế chống
bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu đề nghị hoàn thuế với
phần trị giá cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến
hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận
được đề nghị hoàn thuế kèm theo đầy đủ bằng chứng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong
vòng 90 ngày kể từ khi ra quyết định hoàn thuế.
Thu thuế với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra:
Trường hợp số nhà xuất khẩu/sản xuất sản phẩm bán phá giá quá lớn, không tính riêng biên độ
phá giá được thì cơ quan chức năng sẽ giới hạn việc điều tra ở một số nhà xuất khẩu/sản
xuất nhất định trên cơ sở trao đổi với các nhà xuất khẩu/sản xuất liên quan.
Mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra không được vượt
quá bình quân gia quyền BĐPG của các nhà xuất khẩu có điều tra. Sau mỗi đợt rà soát, hàng
nhập khẩu thuộc diện không điều tra sẽ được hoàn lại khoản thuế bằng:
Bình quân gia quyền BĐPG (cũ) - bình quân gia quyền BĐPG (mới)
Khi có yêu cầu từ các nhà xuất khẩu không điều tra, cơ quan chức năng sẽ tính lại mức thuế

bằng:
Bình quân gia quyền GTTT (nhà XK có điều tra) - giá xuất khẩu (nhà XK không điều tra)
Phải loại trừ các biên độ bằng không và biên độ tối thiểu (2%) khi tính bình quân gia quyền
BĐPG. Hàng nhập khẩu mới, nghĩa là:
- chưa được xuất khẩu sang nước nhập khẩu trong giai đoạn điều tra
- nhập khẩu từ nguồn không liên quan đến các nhà xuất khẩu đang bị đánh thuế chống bán phá
giá sẽ được cơ quan chức năng rà soát để xác định BĐPG riêng và không bị đánh thuế chống
bán phá giá trong thời gian tiến hành rà soát. Tuy nhiên, hàng nhập khẩu này có thể bị truy thu
thuế kể từ ngày bắt đầu rà soát nếu cơ quan chức năng xác định được là có bán phá giá.
9. Truy thu thuế
Các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng với sản phẩm được đưa ra
bán sau thời điểm quyết định áp dụng biện pháp tạm thời (60 ngày sau khi điều tra) hoặc
quyết định đánh thuế chống bán phá giá (1 năm – 18 tháng sau khi điều tra) có hiệu lực.
Có thể truy thu thuế trong các trường hợp sau:
(1) quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào thiệt hại vật chất; hoặc
(2) quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào nguy cơ gây thiệt hại và thiệt
hại thực tế đã có thể xảy ra nếu không áp dụng biện pháp tạm thời Trong các trường hợp này
có thể truy thu thuế kể từ ngày bắt đầu áp dụng biện pháp tạm thời.
(3) có thể truy thu thuế đến tận 90 ngày trước khi áp dụng biện pháp tạm thời nếu cơ quan
chức năng xác định được:
(i) có cả một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã hoặc lẽ ra phải nhận
thức được rằng nhà xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại; và
(ii) thiệt hại bị gây ra bởi khối lượng rất lớn hàng nhập khẩu trong thời gian ngắn trước khi áp
dụng biện pháp tạm thời (trường hợp này nhà nhập khẩu được phép trình bày ý kiến). Tuy
nhiên, không được truy thu thuế với sản phẩm được nhập khẩu trước ngày
bắt đầu điều tra. Phải hoàn thuế trong những trường hợp sau:
1) Nếu mức thuế cuối cùng xác định được thấp hơn mức thuế tạm thời đã thu thì phải hoàn lại
khoản chênh lệch cho nhà nhập khẩu, nếu cao hơn thì không được thu thêm.
2) Nếu kết luận điều tra cuối cùng khẳng định việc bán phá giá sẽ có thể dẫn đến thiệt hại
hoặc làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước thì thuế chống bán phá giá chỉ

được đánh từ ngày ra kết luận điều tra cuối cùng và phải hoàn lại số tiền đặt cọc đã thu khi áp
dụng biện pháp tạm thời.
3) Nếu kết luận cuối cùng là không đánh thuế chống bán phá giá thì khoản tiền đặt cọc khi áp
dụng biện pháp tạm thời sẽ được hoàn trả.
10. Rà soát
Sau khi áp dụng thuế chống bán phá giá một thời gian, cơ quan chức năng sẽ tự tiến hành rà
soát việc tiếp tục đánh thuế hoặc theo đề nghị của bất kỳ bên liên quan nào về vấn đề:
- có cần tiếp tục đánh thuế không; hoặc
- nếu ngừng đánh thuế hoặc thay đổi mức thuế thì có dẫn đến thiệt hại không.Cơ quan chức
năng sẽ quyết định ngừng đánh thuế nếu, sau khi rà soát, xác định được rằng không cần thiết
tiếp tục đánh thuế nữa.
Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng tối đa trong 5 năm. Trước khi hết
thời hạn trên, cơ quan chức năng sẽ tự tiến hành rà soát hoặc theo đề nghị của đại diện ngành
sản xuất trong nước. Nếu như sau khi rà soát (thường trong vòng 12 tháng), cơ quan chức
năng xác định được là việc ngừng đánh thuế có thể dẫn đến thiệt hại thì có thể tiếp tục đánh
thuế.
11. Thông báo công khai và giải thích các kết luận
Khi cơ quan điều tra thấy rằng đã có đầy đủ bằng chứng để tiến hành điều tra phá giá thì họ sẽ
gửi thông báo cho nước hoặc các nước có sản phẩm bị điều tra và các bên có quan tâm khác.
Thông báo này gồm những thông tin sau:
- tên (các) nước xuất khẩu sản phẩm liên quan;
- ngày bắt đầu điều tra;
- căn cứ về hành vi phá giá ở trong đơn xin điều tra;
- tóm tắt các yếu tố được coi là cơ sở xác định thiệt hại;
- địa chỉ liên hệ để liên lạc với đại diện của các bên;
- thời hạn đưa ra quan điểm cho các bên.
Cơ quan điều tra phải gửi thông báo trong các trường hợp sau:
- kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về việc có xảy ra phá giá hay không;
- nhà xuất khẩu chấp nhận cam kết giá và khi chấm dứt cam kết giá;
- áp dụng biện pháp tạm thời ;

- kết luận về cuộc điều tra và áp dụng, chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá.
Mỗi một thông báo như nêu trên phải được soạn dưới dạng một báo cáo riêng, trong đó nêu
đầy đủ các thông tin và kết luận về mọi khía cạnh cả về mặt pháp lý và mặt thực tế. Thông báo
về việc áp dụng biện pháp tạm thời và biện pháp cuối cùng (thuế chống bán phá giá) phải giải
thích rõ kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về phá giá và thiệt hại và phải bao gồm những
thông tin như sau:
- tên (các) nhà cung cấp sản phẩm hoặc trường hợp không có thông tin thì phảI nêu tên nước
cung cấp sản phẩm đó;
- mô tả sản phẩm;
- biên độ phá giá, giải thích phương pháp so sánh giá xuất khẩu với giá trị thông thường;
- chứng minh thiệt hại;
- lý do chính dẫn đến kết luận sơ bộ, lý do chấp nhận hoặc phản đối các kiến nghị của các nhà
xuất khẩu và nhập khẩu.
12. Cơ chế khiếu kiện độc lập
Tất cả những thành viên WTO mà luật pháp quốc gia có qui định về biện pháp chống bán phá
giá phải đảm bảo một cơ chế hành chính, trọng tài hoặc tòa án độc lập với cơ quan điều tra
nhằm rà soát lại các quyết định hành chính liên quan đến việc ra kết luận cuối cùng về việc có
áp dụng thuế chống bán phá giá hay không và việc điều chỉnh thời hạn áp dụng thuế chống
bán phá giá.
13. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba
Một nước thứ ba có thể nộp đơn đề nghị điều tra chống bán phá giá ở nước khác. Đơn này
phải nêu các thông tin về giá để chứng minh rằng hàng nhập khẩu bị bán phá giá và gây thiệt
hại cho ngành sản xuất trong nước liên quan ở nước thứ ba.
Chính phủ nước thứ ba phải tạo mọi điều kiện cho cơ quan điều tra của nước nhập khẩu
điều tra các thông tin cần thiết.
Khi xử lý đơn của nước thứ ba, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu sẽ xem xét tác động của
việc bán phá giá nêu trong đơn tới toàn bộ ngành sản xuất liên quan của nước thứ ba, nghĩa là
không chỉ đánh giá thiệt hại do tác động của việc bán phá giá đối với xuất khẩu của ngành đó
sang nước nhập khẩu hay thậm chí đối với toàn bộ xuất khẩu của ngành đó. Việc quyết định
có tiến hành điều tra hay không sẽ do nước nhập khẩu quyết định.

14. Thành viên đang phát triển
Các thành viên phát triển của WTO sẽ lưu ý đến tình hình riêng của thành viên đang phát triển
khi xem xét áp dụng thuế chống bán phá giá.
15. ủy ban chống bán phá giá
ủy ban chống bán phá giá bao gồm đại diện các thành viên WTO được thành lập nhằm thực
hiện các nghĩa vụ qui định trong Hiệp định này và tạo điều kiện cho các thành viên trao đổi
với nhau về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện Hiệp định Chống bán phá giá. ủy ban này
họp ít nhất 2 lần mỗi năm, Ban Thư ký WTO sẽ thực hiện chức năng thư ký cho ủy ban này.
Các thành viên WTO phải thông báo cho ủy ban chống bán phá giá:
- ngay lập tức khi họ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời hay lâu dài;
- nửa năm một lần (theo mẫu qui định) về các biện pháp chống bán phá giá mà họ áp dụng
trong vòng 6 tháng trước đấy. Các thành viên có thể tham khảo thông báo này tại Ban Thư ký
WTO;
- cơ quan nào ở nước mình có thẩm quyền điều tra phá giá, luật qui định thủ tục điều tra phá
giá của nước mình.
16. Trao đổi và giải quyết tranh chấp
Các qui định trong Biên bản về Giải quyết Tranh chấp (DSU) của WTO sẽ được áp dụng cho
việc trao đổi và giải quyết tranh chấp liên quan đến Hiệp định chống bán phá giá của WTO,
trừ khi có qui định khác đi.
17. Điều khoản cuối cùng
Các thành viên WTO chỉ được áp dụng biện pháp đối phó với hàng xuất khẩu bị bán phá giá
từ các nước thành viên khác theo qui định của GATT 1994 và được diễn giải bởi Hiệp định
này. Các Thành viên cũng phải đảm bảo luật, các qui định và các thủ tục hành chính về chống
bán phá giá của mình phù hợp với Hiệp định này.
III. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Ngày nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế là việc gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tự do hoá thương mại và liên kết kinh tế đang là trào
lưu nổi bật thì hội nhập kinh tế quốc tế không những ngày càng trở thành một xu thế khách
quan mà còn đóng vai trò là một công cụ hữu hiệu để phát triển nhanh và bền vững nếu được
nắm bắt và vận dụng một cách tích cực. Xu hướng chung hiện nay của các quốc gia và các tổ

chức kinh tế-tài chính-thương mại quốc tế là tăng cường mở cửa, bang giao kinh tế thông qua
đàm phán cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cản trở thương mại, các hình
thức cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại, mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng
hóa, thương mại dịch vụ, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh để tạo thuận lợi cho thương
mại, v.v.
Phù hợp với tiến trình đổi mới và đứng trước những đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế và
kinh tế trong nước, Đại hội Đảng lần thứ VII đã chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ đối ngoại, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới của
nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) đã quyết định .đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới.. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII (29/12/1997) đã nêu
nguyên tắc hội nhập quốc tế của ta là .tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường
quốc tế. và nhấn mạnh nhiệm vụ .chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật
pháp, và nhất là các sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu
vực và quốc tế..
Tháng 4/2001, Đại hội Đảng IX đã tiếp tục khẳng định đường lối hội nhập và phát triển kinh
tế phù hợp xu thế toàn cầu hoá với mục tiêu: .Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc, bảo vệ môi trường.. Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị tháng 11/2001 về hội nhập kinh
tế quốc tế cũng đưa ra mục tiêu: .Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường,
tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa..
Với chủ trương, đường lối hội nhập của Đảng và Nhà nước nói trên, sau khi khai thông quan
hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF, WB năm 1992, ngày 25/7/1995, Việt
Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và
ký Nghị định thư tham gia Hiệp định CEPT/AFTA, từ 1/1/1996 đã bắt đầu thi hành nghĩa vụ
thành viên AFTA. Việt Nam cũng là một trong số 25 thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp tác á -
Âu (ASEM) vào tháng 3/1996, và tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình
dương (APEC) từ tháng 11/1998.
Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa kỳ được ký kết vào ngày13/7/2000, tiếp đó từ ngày

11/12/2001 có hiệu lực đã đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của nước ta.
Hiện nay, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Kể từ khi chính thức nộp đơn xin gia nhập WTO ngày 4/1/1995, ta đã chủ động và
khẩn trương tiến hành những bước đi cần thiết để triển khai quá trình đàm phán gia nhập Tổ
chức này. Cho tới nay, Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO đã tổ chức thành công
5 phiên họp với nội dung chính là làm rõ cơ chế, chính sách kinh tế-thương mại, cơ bản kết
thúc giai đoạn minh bạch hóa để bắt đầu bước sang giai đoạn mới quan trọng - đàm phán thực
chất về mở cửa thị trường.
Cắt giảm thuế quan là một trong những nội dung quan trọng nhất của mở cửa thị trường hàng
hóa. Tuy nhiên, việc mở cửa thị trường thông qua các cam kết giảm thuế sẽ không có ý nghĩa
nếu như các hàng rào phi thuế quan vẫn được áp dụng. Một mặt hàng được cam kết giảm thuế
từ 100% xuống thậm chí 0% vẫn không thể kinh doanh được nếu áp đặt một lệnh cấm nhập
khẩu. Chính vì thế, loại bỏ hàng rào phi thuế quan luôn là yêu cầu đồng hành với cắt giảm
thuế quan trong mọi hình thức đàm phán mở cửa thị trường hàng hoá một cách thực chất.
1. Cam kết trong ASEAN
Hiệp định CEPT quy định rằng các biện pháp hạn chế định lượng (cấm, hạn ngạch, giấy phép
nhập khẩu) phải được dỡ bỏ ngay khi thuế suất của một mặt hàng thuộc diện CEPT được giảm
xuống thấp hơn hoặc bằng 20%. Các hàng rào phi thuế khác sẽ phải loại bỏ dần trong vòng 5
năm tiếp theo, nhưng không muộn hơn 1/1/2006.
2. Cam kết trong APEC
APEC yêu cầu các thành viên phải tuân thủ nghiêm túc những quy định của WTO, giảm dần
các biện pháp phi thuế quan và đảm bảo rằng các biện pháp phi thuế quan phải luôn được
công bố rõ ràng.
3. Cam kết với IMF/World Bank
Việt nam đã cam kết xoá bỏ hàng rào phi thuế đối với 17 mặt hàng. Các hàng rào phi thuế
phải xóa bỏ gồm: hạn chế định lượng nhập khẩu và đầu mối nhập khẩu. Từ đầu năm 2000, ta
đã chủ động thuế hóa và bãi bỏ hạn chế định lượng nhập khẩu đối với 7 nhóm hàng trong
danh mục trên (ban hành kèm theo Quyết định 242/1999/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 của Thủ
tướng Chính phủ), bao gồm xút lỏng, hàng tiêu dùng bằngsành sứ và thủy tinh, bao bì nhựa

thành phẩm, chất hóa dẻo DOP, đồ sứ vệ sinh, quạt điện, xe đạp. Đến năm 2001, ta tiếp tục
công bố thời hạn xóa bỏ hạn chế định lượng và thuế hoá đối với danh sách 6 nhóm hàng
(Công văn số 0992/TM-KH ngày 20/3/2001), bao gồm: dầu thực vật tinh chế dạng lỏng, xi
măng - clinker, giấy các loại, gạch ốp lát ceramic và granit, kính xây dựng, và một số chủng
loại thép.
4. Đàm phán gia nhập WTO
WTO có những quy định hết sức chi tiết về nhiều biện pháp phi thuế quan. WTO quy định
rằng các nước thành viên không được áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng nhập khẩu.
WTO yêu cầu các thành viên mặc dù được tiếp tục duy trì doanh nghiệp thương mại nhà nước
(tức là các doanh nghiệp được Nhà nước giành cho những đặc quyền thương mại, không phân
biệt hình thức sở hữu) song phải cam kết các hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp
này phù hợp với các nguyên tắc chung về đối xử không phân biệt với các doanh nghiệp khác
và phải hoạt động hoàn toàn dựa trên tiêu chí thương mại. Theo Hiệp định về Xác định trị giá
hải quan của WTO, các nước phải sử dụng trị giá giao dịch làm cơ sở để xác định trị giá hải
quan và không được phép áp đặt trị giá một cách tuỳ tiện như sử dụng biện pháp áp giá nhập
khẩu tối thiểu để tính thuế. Ngoài ra, WTO không cho phép thu các khoản phí và phụ thu vì
các mục đích bảo hộ hay thu ngân sách. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
(TRIMs) vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia hoặc gây hạn chế hay bóp méo thương mại như
.quy định về tỉ lệ nội địa hoá., .hạn chế tiếp cận ngoại hối., .yêu cầu tự đảm bảo cân đối ngoại
tệ. bị WTO cấm áp dụng và yêu cầu các nước đang sử dụng phảI nhanh chóng xoá bỏ, v.v.
Như vậy, Việt nam sẽ không được phép duy trì các biện pháp phi thuế mà không có lý do
chính đáng theo các quy định của WTO, APEC, ASEAN/AFTA, IMF/WB. Điều này đồng
nghĩa với việc các biện pháp .cấm nhập khẩu. không phù hợp với WTO hoặc tương tự như
.tạm ngừng nhập khẩu. hay .chưa cho phép nhập khẩu, kể cả các biện pháp mang tính chất hạn
ngạch kiểu .chỉ tiêu định hướng. dần dần phải loại bỏ.
Các ngành hàng xi măng, thuốc lá, ô tô, xe máy, xăng dầu, v.v. lâu nay được bảo hộ, trực tiếp
hoặc gián tiếp, thông qua những hạn chế số lượng nhập khẩu này sẽ phải đối diện với những
khó khăn gay gắt do phải cạnh tranh trên thương trường bằng chính nội lực của mình. Tuy
nhiên, các ngành sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có điều kiện giảm chi phí kinh doanh và tăng
cường khả năng cạnh tranh, đồng thời các nhà xuất khẩu của Việt Nam cũng được đảm bảo

chắc chắn hơn về thị trường xuất khẩu.
Chương II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ
GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
I. tổng quan về Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới
1. Tổng quan
Năm 1995, vòng đàm phán Uruguay kết thúc với sự ra đời của WTO và một số các hiệp định
liên quan đến thương mại quốc tế, trong đó có Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Đây
chính là cơ sở pháp luật quốc tế mà các nước thành viên WTO phải tuân theo khi thực thi và
áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. WTO đã thành lập một Uỷ ban về chống bán phá
giá (Anti-dumping Committee) để kiểm soát việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá
của các nước thành viên, kịp thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các nước thành viên.
Các nước chưa là thành viên WTO cũng được khuyến nghị nên thực hiện theo quy định của
WTO, trong đó có quy định liên quan đến chống bán phá giá. Kể từ khi WTO ra đời, tính đến
thời điểm cuối năm 2001, trên thế giới đã có tất cả 2132 cuộc điều tra về chống bán phá giá và
có tất cả là 1066 lần áp dụng thuế chống bán phá giá (chiếm 50% tổng số cuộc điều tra). Điều
này thể hiện, không phải tất cả các cuộc điều tra về chống bán phá giá đều có kết luận dẫn đến
việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá thường là
các sản phẩm dệt may, giầy dép, sắt thép, kim loại và một số sản phẩm công nghiệp cơ khí,
v.v.
Trên thực tế, các nước áp dụng thuế chống bán phá giá thường bị nước xuất khẩu hàng hoá là
đối tượng chịu thuế chống bán phá giá khởi kiện đến WTO, cụ thể là Cơ quan Giải quyết tranh
chấp. Các vụ việc giải quyết tranh chấp về việc chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp và
gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại,
gây ra rất nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại chung trên thế giới. Vì
vậy, các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá
đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào nước mình. Trong thực tiễn áp dụng thuế
chống bán phá giá trên thế giới, đã có nhiều nước áp dụng biện pháp này trước khi WTO ra
đời. Căn cứ thống kê từ năm 1990, việc áp dụng thuế chống bán phá giá hiện nay luôn thể
hiện sự tiến bộ và xu hướng phát triển của các nước đang phát triển so với các nước phát triển.
Điều này được thể hiện bằng biểu đồ dưới đây:

Xu hướng điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá
Nguồn: báo cáo của Ban Thư ký WTO và Uỷ ban chống bán phá giá WTO Một điểm cần
quan tâm là không chỉ có các nước phát triển áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước
đang phát triển và ngược lại. Các nước phát triển còn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với
các nước phát triển khác và điều này cũng xảy ra tương tự đối với các nước đang phát triển.
2. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát triển
Kể từ năm 1995 cho đến cuối năm 2001, có 12 nước phát triển đã tiến hành 899 cuộc điều tra
chống bán phá giá và có 502 lần áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu
bị bán phá giá. Cũng trong thời gian đó, hàng hoá xuất khẩu của 32 nước phát triển lại là đối
tượng của 745 cuộc điều tra chống bán phá giá và chịu 430 lần bị áp dụng thuế chống bán phá
giá từ các nước nhập khẩu.
Trong số các nước phát triển, Hoa Kỳ và EU luôn đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán
phá giá, nhưng cũng không tránh khỏi là đối tượng bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các
nước khác. Hoa Kỳ đã tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 169 lần áp dụng
thuế chống bán phá giá, tuy nhiên chỉ 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. EU cũng gần
tương đương Hoa Kỳ với 246 cuộc điều tra và có 153 lần áp dụng thuế chống bán phá giá và
cũng chỉ 18 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Hàn quốc cũng 28 lần áp dụng thuế chống
phá giá và 70 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Nhật Bản thì tương đối đặc biệt khi chỉ
áp dụng thuế chống bán phá giá có 1 lần nhưng 60 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá.
3. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước đang phát triển
Trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, có 23 nước đang phát triển đã tiến hành 946
cuộc điều tra chống bán phá giá và có 564 lần áp dụng thuế chống bán phá giá.
Cũng trong thời gian đó, hàng hóa xuất khẩu của 60 nước đang phát triển là đối tượng của
1100 cuộc điều tra chống bán phá giá và 736 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các
nước nhập khẩu.
ấn Độ là nước đang phát triển đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, đã tiến hành
248 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 155 lần áp dụng thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên,
ấn Độ chỉ là đối tượng 37 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Achentina và Braxin cũng
nhiều lần áp dụng thuế chống phá giá tương ứng với 97 và 51 lần. Họ cũng là đối tượng tương
ứng 7 và 45 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá.

Trung Quốc thì tương đối đặc biệt khi chưa áp dụng thuế chống bán phá giá lần nào nhưng bị
áp dụng thuế chống bán phá giá tới 178 lần. Đây có thể được coi là quốc gia "đi đầu" trong
việc bán phá giá hàng hóa sang các nước khác. Tất nhiên, một lý do quan trọng gây bất lợi cho
các nhà xuất khẩu của Trung quốc là nhiều nước phát triển chưa coi nền kinh tế Trung quốc là
kinh tế thị trường, do đó dễ dẫn tới kết luận là hàng xuất khẩu bị bán phá giá, mặc dù trên thực
tế có thể không phải như vậy.
II. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa kỳ
1. Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Hoa Kỳ
Chính sách chống phá giá của Hoa Kỳ được thể hiện thông qua Luật chống bán phá giá năm
1921. Kho bạc Nhà nước Hoa Kỳ lúc đó được giao nhiệm vụ điều tra các hành vi bán phá giá
và ấn định mức thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, nhiệm vụ này đã được chuyển giao cho Bộ
Thương mại Hoa Kỳ đảm nhận sau khi Nghị viện Hoa kỳ thông qua một đạo luật mới về thực
thi hiệp định thương mại (Trade Agreement Act), trong đó có quy định liên quan đến việc điều
tra, áp dụng thuế chống phá giá vào năm 1979.
Sau khi WTO ra đời trên cơ sở kết quả đàm phán của vòng Uruguay vào năm 1995, các quy
định của Hoa Kỳ về chống bán phá giá phải tuân thủ theo Hiệp định về chống bán phá giá của
WTO. Trên cơ sở đó, Hoa Kỳ đã ban hành Quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp
vào năm 1997, trong đó hướng dẫn tiến trình thực hiện về điều tra và áp dụng thuế chống bán
phá giá.
2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá
Hoa Kỳ quy định việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải dựa vào kết quả của quá trình điều
tra xem việc bán phá giá hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ có gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về
vật chất cho ngành sản xuất trong nước hay không. Không thể tùy tiện áp dụng thuế chống bán
phá giá khi chưa có điều tra và việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ phải tuân thủ
quy định của WTO.
a. Cơ sở tiến hành điều tra
Việc tiến hành điều tra chống phá giá thường bắt đầu trên cơ sở tổ chức hoặc cá nhân đại diện
cho ngành sản xuất mặt hàng liên quan trong nước nộp đơn đề nghị điều tra phá đối với một
mặt hàng nhập khẩu. Đơn này được coi là hợp lệ nếu sản lượng của các nhà sản xuất ủng hộ
đơn chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng của toàn ngành sản xuất mặt hàng liên quan trong nước

và lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất phản đối đơn.
Đơn đề nghị điều tra phá giá sẽ được gửi đồng thời đến hai cơ quan có thẩm quyền tiến hành
điều tra chống bán phá giá của Hoa Kỳ là Bộ Thương mại (Department of Commerce - DOC)
và Hội đồng Thương mại Quốc tế (International Trade Commission - ITC).
Trong trường hợp không có đơn của tổ chức hoặc cá nhân trong nước, DOC và ITC vẫn có thể
tiến hành điều tra nếu như có bằng chứng rõ ràng chứng minh được hành vi bán phá giá hàng
hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ gây ra thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên,
trường hợp này rất hiếm khi xảy ra.

×