Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo " Hệ thống cơ quan tư pháp Việt Nam từ sau cách mạng tháng tám đến nay" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.88 KB, 5 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 1/2003
45




ất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng sử
dụng luật hình sự nh là công cụ hữu
hiệu để đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm nói chung cũng nh tội phạm có dấu
hiệu có tổ chức nói riêng. Tuy nhiên, luật
hình sự các nớc quy định về nhóm tội phạm
có dấu hiệu có tổ chức lại rất khác nhau.
Luật hình sự Việt Nam quy định vấn đề này
là xuất phát từ yêu cầu đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam. Nhng
câu hỏi vẫn đợc đặt ra là quy định này đ
đáp ứng đợc ở mức độ nào yêu cầu của cuộc
đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu để
làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề,
từ đó đa ra kiến nghị góp phần hoàn thiện
quy định của pháp luật hình sự về các tội
phạm có dấu hiệu có tổ chức.
1. Nghiên cứu BLHS hiện hành cho thấy
ở một số tội phạm, dấu hiệu có tổ chức
đợc quy định là dấu hiệu định tội thuộc mặt
khách quan của tội phạm. Cụ thể: Hành vi


khách quan của một số tội phạm đợc quy
định có đặc điểm là có tổ chức. Vậy những
tội phạm nào có hành vi khách quan mang
đặc điểm có tổ chức? Theo quan điểm của
chúng tôi, các dạng hành vi khách quan sau
đây mang đặc điểm có tổ chức:
Thứ nhất, dấu hiệu có tổ chức đợc
phản ánh qua quy định hành vi khách quan
của tội phạm dới dạng là hoạt động chung
có tổ chức của nhiều ngời. Các tội phạm
thuộc loại này là một số tội xâm phạm an
ninh quốc gia mà điển hình là tội bạo loạn
(Điều 82 BLHS). Đặc điểm có tổ chức ở tội
này đợc phản ánh qua dấu hiệu hành vi
khách quan là hoạt động vũ trang có tổ chức
hoặc hoạt động bạo lực có tổ chức của nhiều
ngời. Những ngời tham gia hoạt động vũ
trang hoặc bạo lực có tổ chức dù với vai trò
nào cũng là những ngời thực hiện tội phạm
này. Việc xác định vai trò của từng ngời
thực hiện tội phạm trong hoạt động chung có
tổ chức không phải là điều kiện để xác định
có trách nhiệm hình sự hay không mà để xác
định khung hình phạt áp dụng đối với họ.
Chính vì vậy mà điều luật quy định về những
tội phạm này bao giờ cũng có các khung hình
phạt khác nhau cho các đối tợng ngời thực
hiện tội phạm với vai trò khác nhau. Khung
hình phạt quy định cho ngời có vai trò có tổ
chức, hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả

nghiêm trọng nghiêm khắc hơn khung hình
phạt quy định cho những ngời khác (Điều
81 - Tội xâm phạm an ninh lnh thổ; Điều 82
- Tội bạo loạn; Điều 83 - Tội hoạt động phỉ;
Điều 89 - Tội phá rối an ninh; Điều 91 - Tội
trốn đi nớc ngoài hoặc ở lại nớc ngoài
nhằm chống chính quyền dân chủ nhân dân).
Thứ hai, dấu hiệu có tổ chức đợc phản
ánh qua quy định hành vi khách quan của tội
hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân chủ
nhân dân (Điều 79 BLHS). Đặc điểm có tổ
chức của hành vi khách quan của tội phạm
B

TS. Lê thị sơn *

* Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
46 Tạp chí luật học số 1/2003
này thể hiện ở hoạt động thành lập hoặc tham
gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền dân chủ
nhân dân. Điều luật không đòi hỏi hoạt động
thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ
chính quyền dân chủ nhân dân nhất thiết phải
là hoạt động do nhiều ngời thực hiện nhng
việc thực hiện hoạt động đó không thể không
cấu kết với nhiều ngời. Đây là điều luật duy
nhất quy định hành vi khách quan của tội

phạm là hành vi thành lập hoặc tham gia tổ
chức tội phạm. Nh vậy, theo luật hình sự
Việt Nam, hành vi thành lập hoặc tham gia tổ
chức có mục đích phạm tội chỉ cấu thành tội
phạm khi tổ chức đó là tổ chức nhằm lật đổ
chính quyền dân chủ nhân dân. Đây là tổ
chức tội phạm duy nhất đợc quy định trong
luật hình sự Việt Nam.
Thứ ba, ở một số ít tội phạm khác thì dấu
hiệu có tổ chức lại đợc quy định là hành vi
tổ chức việc thực hiện hành vi phạm tội (hoặc
vi phạm) của ngời khác. Đó là các tội: Tội
tổ chức tảo hôn (Điều 148); Tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma tuý (Điều 197); Tội
tổ chức đua xe trái phép (Điều 206); Tội tổ
chức đánh bạc (Điều 249) và Tội tổ chức
ngời khác trốn đi nớc ngoài hoặc ở lại
nớc ngoài trái phép (Điều 275). Ngời
phạm các tội phạm này là ngời có hành vi
có tổ chức cho ngời khác thực hiện hành vi
thuộc tội tảo hôn, tội sử dụng trái phép chất
ma tuý, tội đua xe trái phép, tội đánh bạc, tội
trốn đi nớc ngoài hoặc ở lại nớc ngoài trái
phép. Hành vi tổ chức có thể là hành vi lôi
kéo, rủ rê, kích động hoặc là hành vi sắp đặt
hoặc tạo điều kiện cần thiết cho việc thực
hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm
pháp luật. Điều luật không đòi hỏi hành vi tổ
chức phải là hành vi do nhiều ngời thực
hiện. Nhng trên thực tế vẫn có thể có trờng

hợp nhiều ngời cùng cố ý thực hiện các tội
phạm này.
2. Ngoài việc quy định dấu hiệu có tổ
chức là dấu hiệu định tội nêu trên, BLHS còn
quy định dấu hiệu phạm tội có tổ chức hay
đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự hay là tình tiết tăng nặng
định khung hình phạt. Việc quy định này chỉ
đợc thực hiện đối với các tội phạm cố ý mà
hành vi khách quan của tội này không đợc
quy định phải là hành vi chung của nhiều
ngời phạm tội. Nh vậy, nhóm tội thứ nhất
trong ba nhóm tội thuộc loại tội có dấu hiệu
định tội là dấu hiệu có tổ chức nêu ở mục
trên không thuộc các tội phạm này. Phạm tội
có tổ chức hay đồng phạm có tổ chức là
trờng hợp nhiều ngời cùng cố ý thực hiện
tội phạm mà giữa họ có sự cấu kết chặt chẽ
(khoản 3 Điều 17 BLHS). Đối với nhiều tội
phạm, tình tiết phạm tội có tổ chức đợc quy
định là tình tiết tăng nặng định khung hình
phạt (ở 78 Điều luật của phần các tội phạm
cụ thể). Đối với những tội phạm cố ý còn lại,
phạm tội có tổ chức đợc quy định là tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự (điểm a khoản
1 Điều 48 BLHS). Dấu hiệu có tổ chức hay
đồng phạm có tổ chức nói ở đây là dấu hiệu
phản ánh phơng thức thực hiện hành vi
phạm tội (hành vi phạm tội có thể đợc thực
hiện bằng phơng thức này hoặc không phải

bằng phơng thức này). Trong khi đó dấu
hiệu có tổ chức nói ở mục trên là dấu hiệu
phản ánh chính đặc điểm bắt buộc của hành
vi phạm tội. Trong thực tế, nhóm tội thứ hai
và thứ ba trong ba nhóm tội thuộc loại tội có
dấu hiệu định tội là dấu hiệu có tổ chức nêu
ở mục trên có thể đợc thực hiện bằng


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 1/2003
47

phơng thức có tổ chức. Nh vậy, dấu hiệu
có tổ chức của trờng hợp này thể hiện ở cả
đặc điểm bắt buộc của hành vi phạm tội và ở
cả phơng thức thực hiện hành vi phạm tội.
Từ những phân tích trên cho thấy luật
hình sự Việt Nam đ quy định hai loại tội
phạm mang đặc điểm có tổ chức. Đó là loại
tội có dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu định
tội và loại tội phạm có dấu hiệu có tổ chức là
dấu hiệu tăng nặng định khung hoặc tăng
nặng trách nhiệm hình sự. Hai loại tội phạm
này có thể đợc gọi chung là tội phạm có tổ
chức. Việc quan niệm tội phạm có tổ chức
nh vậy là hoàn toàn dựa trên cơ sở quy định
của BLHS hiện hành. Thuộc về tội phạm có
tổ chức không bao gồm những hành vi mà
luật hình sự Việt Nam cha quy định là tội

phạm nh hành vi thành lập hoặc tham gia tổ
chức nhằm thực hiện một hoặc nhiều tội
phạm nhất định, tuy những hành vi đó đ
đợc luật hình sự một số nớc quy định là tội
phạm. Nh vậy, có thể định nghĩa tội phạm
có tổ chức nh sau: Tội phạm có tổ chức là
tội phạm mà việc thực hiện hành vi khách
quan đòi hỏi phải có sự cấu kết với nhiều
ngời hoặc hành vi khách quan đợc thực
hiện với sự cấu kết chặt chẽ của nhiều ngời.
3. Tình hình tội phạm có tổ chức ở Việt
Nam trong những năm gần đây đang đặt ra
đòi hỏi phải hoàn thiện quy định của BLHS
về tội phạm có dấu hiệu có tổ chức. Các
nhận định của nhiều tác giả cũng nh các số
liệu thống kê phản ánh tình hình tội phạm có
tổ chức trong những năm gần đây của Tổng
cục cảnh sát nhân dân Bộ công an đ đợc
công bố ở nhiều bài viết, công trình khác
nhau,
(1)
cho thấy tình hình là ngày càng nhiều
tổ chức đợc thành lập nhằm mục đích thực
hiện tội phạm mà hiện nay đợc tạm gọi là
băng, ổ, nhóm tội phạm hoặc tổ chức tội
phạm theo kiểu x hội đen. Trong khi đó số
tội phạm có tổ chức do các có tổ chức tội
phạm đó thực hiện bị phát hiện lại có xu
hớng giảm. Ví dụ, nếu nh năm 1992 phát
hiện đợc 67.742 vụ phạm tội hình sự (không

kể các vụ phạm các tội xâm phạm an ninh
quốc gia) do 2.365 băng, nhóm tội phạm
thực hiện thì đến năm 2001 phát hiện đợc
45. 962 vụ phạm tội hình sự do 2.972 băng,
nhóm tội phạm thực hiện.
(2)
Trong khoảng
thời gian 6 năm (từ năm 1992 đến năm 1997)
chúng ta đ phát hiện đợc 13.134 băng, ổ,
nhóm tội phạm.
(3)
Nhng trong khoảng thời
gian chỉ 4 năm tiếp đó (từ năm 1998 đến
2001) chúng ta cũng đ phát hiện đợc số
băng, ổ, nhóm tội phạm tơng đơng là
13.068.
(4)
Đặc biệt trong vài năm gần đây đ
xuất hiện nhiều tổ chức tội phạm theo kiểu
x hội đen, chuyên hoạt động phạm tội trên
nhiều lĩnh vực, thậm chí cấu kết với cả với
các có tổ chức tội phạm nớc ngoài, dùng
bạo lực hoặc nhiều thủ đoạn nguy hiểm để
mở rộng và tăng mức độ ảnh hởng của tổ
chức Điển hình là tổ chức tội phạm theo
kiểu x hội đen Phúc Bồ, Khánh Trắng ở Hà
Nội và Trơng Văn Cam ở thành phố Hồ Chí
Minh. Hậu quả của việc hình thành, tồn tại
và phát triển các tổ chức tội phạm nêu trên
không chỉ thể hiện ở các tội phạm do các tổ

chức tội phạm đó gây ra mà còn thể hiện ở sự
gây nguy hại nghiêm trọng cho trật tự, an
toàn công cộng. Ngay sự thành lập những tập
hợp ngời có cùng mục đích phạm tội mà
cha cần có hoạt động phạm tội cụ thể đ đe
doạ gây nguy hại cho trật tự, an toàn công
cộng. Việc đấu tranh chống các tổ chức tội
phạm này cần phải đợc bắt đầu ngay khi có


nghiên cứu - trao đổi
48 Tạp chí luật học số 1/2003
tổ chức đó mới đợc hình thành. Nh vậy,
đấu tranh triệt để chống các tổ chức tội phạm
không thể chỉ thông qua việc đấu tranh
chống các tội phạm có tổ chức do các tổ chức
tội phạm gây ra mà phải bao gồm cả việc đấu
tranh chống sự hình thành và tồn tại của các
tổ chức tội phạm đó. Có nh vậy, mới có thể
hạn chế đợc sự hình thành và gia tăng của
các tổ chức tội phạm cũng nh ngăn chặn các
tội phạm có tổ chức do các tổ chức tội phạm
thực hiện.
Tuy nhiên, quy định của BLHS hiện hành
về các tội phạm có dấu hiệu có tổ chức
cha đáp ứng đợc yêu cầu đó. Các quy định
của BLHS mới chỉ cho phép đấu tranh chống
các tổ chức tội phạm thông qua việc đấu
tranh chống các tội phạm do các tổ chức đó
thực hiện. BLHS hiện hành cha tạo cơ sở

pháp lí để đấu tranh trực tiếp và ngăn chặn
kịp thời sự hình thành và tồn tại của các tổ
chức tội phạm. Vì vậy, theo chúng tôi, BLHS
nên có thêm quy định coi những hành vi
thành lập, tham gia hoặc hỗ trợ tổ chức có
mục đích thực hiện tội phạm là tội phạm.
BLHS không nên chỉ dừng lại ở việc quy
định hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ
chức tội phạm đặc biệt nh tổ chức nhằm
lật đổ chính quyền dân chủ nhân dân mới
là tội phạm.
4. Qua nghiên cứu luật hình sự nớc
ngoài cho thấy một số nớc đ có những kinh
nghiệm nhất định trong việc quy định loại tội
phạm này.
Điều 36 BLHS Cộng hòa liên bang Nga
quy định những nguyên tắc chung về xác
định trách nhiệm hình sự đối với ngời thành
lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm. Theo đó
những ngời thành lập hoặc tham gia tổ chức
nhằm thực hiện các tội rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm
hình sự về hành vi thành lập hoặc tham gia tổ
chức trong trờng hợp đợc quy định tại các
điều luật của phần các tội phạm. Ngời thành
lập tổ chức tội phạm không thuộc trờng hợp
trên thì phải chịu trách nhiệm hình sự về việc
chuẩn bị phạm những tội mà tổ chức đợc
lập ra để thực hiện. Nếu tổ chức tội phạm
đợc thành lập đ thực hiện những tội phạm

nhất định thì bên cạnh đó ngời thành lập tổ
chức tội phạm còn phải chịu trách nhiệm
hình sự về những tội phạm đó, ngời tham
gia tổ chức tội phạm phải chịu trách nhiệm
hình sự về những tội phạm cụ thể mà họ
tham gia thực hiện.
Cụ thể hoá nguyên tắc nêu trên, trong
phần quy định về các tội xâm phạm an toàn
công cộng và trật tự công cộng, BLHS của
Cộng hòa liên bang Nga quy định tại Điều 207
về trách nhiệm hình sự đối với tội tổ chức
tội phạm: Ngời nào thành lập tổ chức tội
phạm để thực hiện các tội rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng hoặc chỉ huy tổ
chức đó hoặc chỉ huy tổ chức thành viên của
tổ chức đó thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15
năm; ngời tham gia tổ chức tội phạm này thì
bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm. Qua quy
định này cho thấy BLHS Cộng hòa liên bang
Nga đ thể hiện thái độ đấu tranh rất cơng
quyết của Nhà nớc Nga đối với tội tổ chức
tội phạm này.
Cũng trong phần quy định về các tội xâm
phạm trật tự công cộng thuộc phần các tội
phạm, BLHS của CHLB Đức có hai điều luật
quy định về loại tội phạm này. Ban đầu
BLHS chỉ có một điều luật quy định về tội
thành lập hiệp hội tội phạm (Điều 129),
nhng đến năm 1976 thì một điều luật nữa
đợc bổ sung quy định về tội thành lập hiệp



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 1/2003
49

hội khủng bố (Điều 129a). Theo Điều 129
thì ngời nào thành lập hiệp hội mà mục đích
hoặc hoạt động của nó nhằm vào việc thực
hiện tội phạm hoặc ngời nào tham gia làm
thành viên của hiệp hội, quảng cáo hoặc hỗ
trợ cho hiệp hội đó thì bị phạt tù đến 5 năm
hoặc bị phạt tiền. Nh vậy, theo quy định này
thì mọi tập hợp nhiều ngời có tổ chức trong
khoảng thời gian nhất định để theo đuổi mục
đích thực hiện bất cứ tội phạm nào cũng bị
coi là hiệp hội tội phạm hay tổ chức tội
phạm; không chỉ những ngời có hành vi
thành lập hoặc tham gia hiệp hội tội phạm
mà cả những ngời có hành vi quảng cáo
hoặc ủng hộ hay hỗ trợ cho hiệp hội tội phạm
cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội thành
lập hiệp hội tội phạm. Trong khi Điều 129 quy
định về trờng hợp thành lập hiệp hội tội
phạm thông thờng thì Điều 129a quy định
về trờng hợp thành lập hiệp hội tội phạm
đặc biệt, đó là hiệp hội khủng bố. Hiệp hội
khủng bố là hiệp hội đợc thành lập mà mục
đích hay hoạt động của nó hớng vào việc
thực hiện những tội phạm gây thiệt hại cho

tính mạng, sức khoẻ và quyền tự do của con
ngời nh các tội giết ngời, diệt chủng
(Điều 211, 212, 220a), các tội xâm phạm tự
do cá nhân nh tội bắt cóc tống tiền (Điều
239a), tội bắt con tin (Điều 239b) Những
tội phạm này đợc liệt kê cụ thể trong Điều
129a. Ngời nào thành lập hiệp hội khủng bố
sẽ bị phạt tù từ 1 năm đến 10 năm. Quy định
của hai điều luật nêu trên thể hiện rất rõ sự
phân hoá trách nhiệm hình sự đối với trờng
hợp phạm tội thành lập hiệp hội thông
thờng và trờng hợp phạm tội thành lập hiệp
hội khủng bố.
BLHS của Cộng hoà Pháp có cách quy
định đơn giản hơn về tội tham gia tổ chức
tội phạm. Theo Điều 450-1 tổ chức tội
phạm là nhóm ngời đợc tập hợp lại nhằm
thực hiện một hay nhiều trọng tội hay khinh
tội có mức phạt tù là 10 năm. Ngời tham gia
vào tổ chức tội phạm này sẽ bị phạt tù 10
năm và phạt tiền 1.000.000 frăng. Khi quy
định về cấu thành tội phạm của tội phạm này,
BLHS của Cộng hoà Pháp không phân biệt
hành vi thành lập tổ chức với hành vi tham
gia tổ chức mà quy định chung cho hai loại
hành vi đó là hành vi tham gia tổ chức tội
phạm.
Những đánh giá về thực trạng quy định
các tội phạm có dấu hiệu có tổ chức trong
BLHS Việt Nam hiện hành cùng những nhận

thức đúng về yêu cầu đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm có tổ chức ở Việt Nam
cũng nh sự tham khảo có chọn lọc những
kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số
nớc trên thế giới về loại tội tổ chức tội phạm
là những cơ sở thuyết phục cho phơng
hớng hoàn thiện quy định của BLHS Việt
Nam về tội phạm có dấu hiệu có tổ chức./.

(1).Xem: Phạm Thờng Khanh, Về khái niệm tội
phạm có tổ chức, Tạp chí Nhà nớc và pháp luật,
số 4/1997, tr. 42; TS. Trần Hữu ứng, Nhận dạng về
tội phạm có tổ chức ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí
toà án nhân dân số 1/1998 tr. 24-27; Nhận diện về
tội phạm có tổ chức và đấu tranh với những có tổ
chức tội phạm ở Việt Nam, Báo An ninh thế giới
ngày 27/6/2002, tr.1, 2; Nguyễn Trung Thành,
Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt Nam và
việc đấu tranh phòng chống (Luận án tiến sĩ luật
học), năm 2002
(2), (4).Xem: Nguyễn Trung Thành, Phạm tội có tổ
chức trong luật hình sự Việt Nam và việc đấu tranh
phòng, chống (Luận án tiến sĩ luật học), năm 2002, tr. 212.
(3).Xem: Nhận diện tội phạm có tổ chức và đấu
tranh với những có tổ chức tội phạm ở Việt Nam,
Báo An ninh thế giới, ngày 27/6/2002, tr.2.

×