Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Chứng cứ và việc sử dụng chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.29 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỀ TÀI 17: Chứng cứ và việc sử dụng chứng cứ trong tố tụng
cạnh tranh. Những vấn đề lý luận và thực tiễn


A. Mở đầu
Tố tụng cạnh tranh là một nội dung cơ bản của pháp luật cạnh tranh, là thiết
chế đảm bảo sự thực thi Luật Cạnh tranh và góp phần khơng nhỏ đưa pháp
luật vào cuộc sống. Đó là hoạt động của cơ quan tổ chức cá nhân theo trình
tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Và
trong tố tụng cạnh tranh, chứng cứ đóng vai trị rất quan trọng. Chứng cứ là
những gì có thật, được dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi
vi phạm pháp luật về cạnh tranh, doanh nghiệp có hành vi vi phạm và những
tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh.là phương
tiện để chứng minh tội phạm, người phạm tội và dùng để xác định những
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, cho nên nó xuất
hiện cùng với cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm khơng chỉ trong luật
hình sự mà còn thể hiện rõ trong luật cạnh tranh. Chế định chứng cứ có vị trí,
vai trị rất quan trọng. Thực tiễn, việc áp dụng và thực hiện đúng chế định
này sẽ bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được tiến
hành khách quan, chính xác, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phịng,
chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
các tổ chức, các cơng dân. Song, xét về mặt lý luận, xung quanh chế định
chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau.
Pháp luật cạnh tranh quy định những tình tiết, sự kiện ngồi những tình tiết,
sự kiện đáp ứng được yêu cầu không phải chứng minh trong xử lý vụ việc
cạnh tranh cần thu thập chứng cứ để chứng minh. Chứng cứ cần thu thập phụ
thuộc vào từng vụ việc cụ thể trên cơ sở xem xét hành vi cạnh tranh bất hợp


pháp là gì, chủ thể vi phạm là ai, chủ thể có thỏa mãn điều kiện luật định hay
không, mức độ của hành vi vi phạm và trách nhiệm pháp lý như thế nào.
Trên cơ sở đó mà chứng cứ cần thu thập trong các vụ việc cạnh tranh thường
bao gồm: chứng cứ về hành vi, chứng cứ xác định chủ thể và điều kiện chủ


thể, chứng cứ xác minh thị trường, và chứng cứ xác định trách nhiệm pháp
lý.

B. Nội dung
I. Khái quát chung về tố tụng cạnh tranh, chứng cứ trong tố tụng
cạnh tranh
1. Khái niệm tố tụng cạnh tranh:
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 4 Luật Cạnh tranh 2018 khái niệm Tố
tụng cạnh tranh được quy định cụ thể như sau:
“Tố tụng cạnh tranh là hoạt động điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh và giải
quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo trình tự, thủ tục quy
định tại Luật Cạnh tranh 2018.”
Tố tụng cạnh tranh là thuật ngữ mới xuất hiện trong đời sống pháp lí ở Việt
Nam,được sử dụng tại Luật cạnh tranh năm 2004 và tiếp tực ghi nhận tại
Luật cạnh tranh năm 2018. Tố tụng cạnh tranh thực chất bao gồm thẩm
quyền và thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, đó là một trong các nội dung
cơ bản và quan trọng của pháp luật cạnh tranh ở các quốc gia trên thế giới.
1. Đặc trưng cơ bản của tố tụng cạnh tranh:
- Thứ nhất, tố tụng cạnh tranh được áp dụng để giải quyết vụ việc cạnh
tranh.Theo Luật cạnh tranh, vụ việc cạnh tranh là vụ việc có dấu hiệu vi
phạm pháp luật về cạnh tranh bị điều tra, xử lí theo quy định của Luật
cạnh tranh, bao gồm vụ việc hạn chể cạnh tranh, vụ việc vi phạm quy
định về tập trung kinh tể và vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.
Tố tụng cạnh tranh sẽ được áp dụng đối với những vụ việc đáp ứng hai điều

kiện cần và đủ sau:
+ Một là vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh.
+ Hai là bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều tra, xử lí theo quy định của
Luật cạnh tranh.


- Thứ hai, tố tụng cạnh tranh áp dụng cho các loại hành vi vi phạm pháp luật
cạnh tranh có bản chất khơng giống nhau, đó là hành vi hạn chế cạnh tranh,
tập trung kinh tế và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Đặc điểm này thể hiện sự khác biệt của tố tụng cạnh tranh ở Việt Nam so với
tố tụng cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế giới. Pháp luật của nhiều quốc
gia trện thể giới quy định tách bạch hoạt động tổ tụng liên quan đến hành vi
cạnh tranh không lành mạnh được giải quyết theo phương thức tố tụng toà án
(thuộc bản chất tố tụng dân sự) chứ không thuộc tố tụng cạnh tranh như pháp
luật cạnh tranh Việt Nam.Tuy nhiên, do bản chất của hành vi hạn chế cạnh
tranh, tập trung kinh tế và hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh khác nhau
nên trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến các nhóm
hành vi này khơng hồn tồn giống nhau.
- Thứ ba, tố tụng cạnh tranh được tiến hành bởi các cơ quan hành pháp.
Tố tụng cạnh tranh được tiến hành bởi các cơ quan hành pháp (không được
tiến hành bởi tồ án), thơng qua hoạt động của người tiến hành tố tụng cạnh
tranh, bao gồm: Chủ tịch ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Chủ tịch Hội đồng xử
lí vụ việc hạn chế cạnh ttanh, thành viên Hội đồng xử lí vụ việc hạn chế cạnh
tranh, thành viên Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lí vụ việc cạnh
tranh, thủ trưởng cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, điều tra viên vụ việc
cạnh ưanh và thư kí phiên điều trần.
- Thứ tư, tố tụng cạnh tranh được áp dụng không nhất thiết phải dựa vào
đơn khiếu nại của bên có liên quan mà có thể được thực hiện bởi quyết
định hành chính của cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền.
Thẩm quyền tiến hành tố tụng cạnh ttanh được khởi đầu bằng quyết định

điều tra của Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh đối với hành vi
hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế và hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
ựong đó hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế thường xâm phạm đến
lợi ích của tập thể, xã hội, xâm phạm tới cấu trúc thị trường. Ngoài hồ sơ
khiếu nại vụ việc cạnh tranh đã được thụ lí, cơ sở pháp lí để Cơ quan điều tra


vụ việc cạnh tranh quyết định điều tra cịn có thể là hành vi có dấu hiệu vi
phạm pháp luật cạnh tranh mà ủy ban Cạnh tranh Quốc gia tự phát hiện. Bởi
vậy, khi ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phát hiện hành vi có dấu hiệu vi phạm
Pháp luật cạnh ttanh, Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh có thể tự mình
quyết định điều tra mà khơng cần có đơn khiếu nại của bên liên quan.
2. Chủ thể của tố tụng cạnh tranh:
Chủ thể tham gia tố tụng cạnh tranh là những tổ chức, cá nhân có quyền
và nghĩa vụ tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh, bao gồm:
Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, bao gồm: Cơ quan quản lý cạnh tranh
và Hội đồng cạnh tranh.
Người tiến hành tố tụng cạnh tranh, bao gồm: Thành viên hội đồng cạnh
tranh, thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh, điều tra viên và thư ký phiên
điều trần.
Người tham gia tố tụng cạnh tranh bao gồm: Bên khiếu nại, bên bị điều
tra, Luật sư; người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
3. Chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh
* Khái niệm: Theo điều 56 Luật cạnh tranh 2018, chứng cứ là những gì có thật,
được dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi vi phạm pháp luật
về cạnh tranh, doanh nghiệp có hành vi vi phạm và những tình tiết khác có ý
nghĩa trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh.
* Thuộc tính của chứng cứ: Về cơ bản khái niệm chứng cứ khá giống với khái
niệm chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành

chính. Cũng giống như các loại chứng cứ đó, chứng cứ trong cạnh tranh phải
đảm bảo các thuộc tính vốn có gồm tính khách quan, tính liên quan và tính hợp
pháp.
- Tính khách quan: Chứng cứ được dùng là những tài liệu, sự kiện có thật, phản
ánh trung thực những tình tiết của vụ việc cạnh tranh, khơng bị xuyên tạc, bóp


méo theo ý chí chủ quan của con người.Tính khách quan địi hỏi bản thân các
nguồn thơng tin này phải có thật, khơng phụ thuộc vào khả năng con người có
nhận biết chúng hay khơng. Những thơng tin, tài liệu làm chứng cứ tồn tại
khách quan trước khi có cuộc điều tra mà không phải là mới được tạo ra một
cách giả tạo nhằm phục vụ cho một mục đích nào đó. Những chứng cứ này cũng
phải đảm bảo tính chất gốc mà không thể làm lại hay mô phỏng lại, những gì là
suy đốn, tưởng tượng, khơng có thật thì khơng phải là chứng cứ.
- Tính liên quan: Chứng cứ có tính liên quan bởi chứng cứ được tịa dựa vào
để giải quyết vụ việc cạnh tranh. Nó địi hỏi những thơng tin, tài liệu làm chứng
cứ phải có mối liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vụ việc cạnh tranh, là cơ sở
để xác định sự tồn tại hay không tồn tại của những vấn đề cần chứng minh, là
yếu tố cần thiết đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc cạnh tranh.
- Tính hợp pháp: địi hỏi những thơng tin, tài liệu làm chứng cứ phải được thu
thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng quy định của pháp luật cạnh tranh, tức là phải
được thu thập một cách hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh,
các chủ thể chứng minh phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về chứng
cứ. Đối với những gì khơng được rút ra từ các nguồn do pháp luật quy định,
không được thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của
pháp luật thì khơng được coi là chứng cứ, không được sử dụng giải quyết vụ
việc cạnh tranh.
Trong quá trình điều tra xử lý các cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền như cơ
quan cạnh tranh, hội đồng cạnh tranh, hội đồng xử lý, các điều tra viên và thành
viên hội đồng xử lý có nghĩa vụ phải xem xét, đánh giá các thuộc tính của

chứng cứ để quyết định việc sử dụng chứng cứ.
⇨ Đánh giá chứng cứ trong luật cạnh tranh: Theo Điều 24 Nghị định
35/2020/NĐ-CP (Có hiệu lực từ 15/05/2020) được quy định như sau:


1. Việc đánh giá chứng cứ phải đầy đủ, khách quan, tồn diện và chính
xác.
2. Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng
định giá trị pháp lý của từng chứng cứ.
Có thể nói đánh giá chứng cứ là hoạt động tư duy lơgíc được tiến hành dựa trên
cơ sở các quy định của pháp luật và ý thức pháp luật. Mục đích của việc đánh
giá chứng cứ nhằm:(1) xác định tính xác thực, độ tin cậy và giá trị của chứng
cứ, (2) xác định khả năng sử dụng của từng chứng cứ, (3) xác định tính chất, ý
nghĩa và mức độ liên quan giữa các chứng cứ, (4) xác định giá trị của từng
chứng cứ trong việc chứng minh làm sáng tỏ sự việc, và (5) xác định hướng sử
dụng tiếp theo. Để đạt được điều đó cần thực hiện so sánh, đối chiếu giữa các
chứng cứ đã thu thập được với các tình tiết của vụ việc để xem xét tính phù hợp
hay mâu thuẫn. Việc xác định tính phù hợp hoặc mâu thuẫn giữa các chứng cứ
trong cùng một vụ việc nhằm làm căn cứ, cơ sở để quyết định việc tiếp tục điều
tra, thu thập thêm chứng cứ mới.
Yêu cầu đầu tiên của việc đánh giá chứng cứ là cần xác định tính có thật, khách
quan của từng chứng cứ. Sau khi xác định tính xác thực, việc tiếp theo là xem
xét giá trị chứng minh của từng chứng cứ. Tức là xác định xem chứng cứ đó liên
quan và có khả năng làm rõ được những tình tiết nào trong vụ việc, chứng minh
được những nội dung gì và có đủ cơ sở để đưa ra kết luận cuối cùng về nội dung
đó hay khơng. Vì vậy, đánh giá và xác định giá trị chứng minh của chứng cứ có
vai trị rất quan trọng.
Ngồi ra, khi đánh giá chứng cứ cũng phải xem xét giá trị pháp lý hay tính hợp
pháp của từng chứng cứ. Chứng cứ phải được phản ánh từ các nguồn do pháp

luật thừa nhận và được thu thập bằng các biện pháp phù hợp với các quy định
của pháp luật. Cho dù có đủ thuộc tính khách quan và liên quan nhưng nguồn và


biện pháp thu thập thông tin, tài liệu không phù hợp với quy định của pháp luật
thì khơng thể được dùng làm chứng cứ.

II. Xác định nguồn gốc chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh, vai trò
của chứng cứ. Phân loại.
● Nguồn gốc của chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh:
Theo Khoản 2, Điều 56 Luật cạnh tranh 2018 và Điều 76, Nghị định 116/2005/
NĐ-CP hướng dẫn Luật Cạnh tranh, chứng cứ được xác định từ các nguồn gồm
vật chứng; lời khai của người làm chứng và giải trình của các tổ chức, cá nhân
liên quan; các tài liệu hoặc biên bản, kết luận giám định.
- Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện vi phạm, tiền và
những vật khác có giá trị chứng minh cho hành vi vi phạm. Vật
chứng dùng làm chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
- Lời khai của người làm chứng, giải trình của tổ chức, cá nhân liên quan
được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi
âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và các thiết bị ghi âm, ghi hình khác kèm
theo văn bản xác nhận về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó,
hoặc khai bằng lời tại phiên điều trần.
- Tài liệu gốc, bản sao tài liệu gốc, bản dịch tài liệu gốc được công chứng,
chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp,
xác nhận được coi là chứng cứ nếu là tài liệu đọc được nội dung.
Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
Có thể nói điều tra cạnh tranh là hoạt động mang tính đặc thù nên chứng cứ
trong cạnh tranh cũng có điểm khác biệt. Thứ nhất, trong các vụ việc cạnh tranh
vật chứng thường xuất hiện ít hơn các dạng chứng cứ khác. Thứ hai, thực tiễn

cho thấy chứng cứ được sử dụng trong các vụ việc cạnh tranh không bị giới hạn
bởi các nguồn chứng cứ quy định tại Điều 76 trên đây. Trong nhiều vụ việc
cạnh tranh đòi hỏi phải xác định thị trường liên quan, xác minh thị phần, thị
phần kết hợp của các doanh nghiệp trên thị trường liên quan để xác định hành vi
vi phạm hoặc xác định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Trong trường hợp
đó, các thơng tin trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như doanh thu,
doanh số được sử dụng làm chứng cứ để xác định thị phần, thị phần kết hợp hay
xác định vị trí của doanh nghiệp.
● Vai trị của chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh:


Trong thực tế, tính hợp pháp của chứng cứ được xác định thơng qua hoạt
động chứng minh được tồ án và tất cả người tham gia tố tụng thực hiện và
tuân thủ. Những thông tin, chứng cứ thu thập được là căn cứ đầy đủ nhất
giúp quá trình tố tụng cạnh tranh phản bác một phần hay toàn bộ quan điểm
của bên đối lập, khẳng định quan điểm của mình nhằm bảo vệ quyền lợi của
thân chủ. Đó có thể là điều kiện chứng minh bị can vô tội hoặc chứng minh
hành vi phạm tội của bị can không đến mức nguy hiểm như tài liệu trong hồ
sơ thể hiện.
− Chứng cứ là cơ sở duy nhất, là phương tiện duy nhất để chứng minh trong
tố tụng cạnh tranh .Khi giải quyết tố tụng cạnh tranh, trong quá trình thực
hiện các hoạt động tố tụng, cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án cần
xác minh những sự việc có liên quan đến tội đang được tiến hành xem
xét, cần phải khẳng định được rằng tội đã xảy ra, xác định được người cụ
thể đã thực hiện tội và họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện.
Tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp với hiện thực khách
quan. Để làm được điều đó, cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa vào chứng
cứ. Thông qua chứng cứ, kiểm sát viên thực hành quyền cơng tố trước tồ
án đưa ra lời buộc tội đối với bị cáo, còn người bào chữa và thân chủ của
họ có thể bác bỏ lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự của bị cáo.
− Việc nghiên cứu, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến hành
trên cơ sở của các chứng cứ và chỉ bằng cách dựa vào các chứng cứ
mớilàm sáng tỏ được những vấn đề cần chứng minh tronh tố tụng cạnh
tranh
− Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận chứng cứ về mặt
tố tụng, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ, cơ quan
tiến hành tố tụng có thể nghiên cứu đầy đủ và tồn diện các tình tiết của


vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý
khách quan.
− Q trình chứng minh thực chất và nói chung là q trình giải quyết
chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng hình sự đều được mở ra và kết thúc
từ vấn đề chứng cứ, xuất phát từ chứng cứ.
● Những loại chứng cứ cần thu thập trong điều tra
cạnh tranh (phân loại):
− Chứng cứ cần thu thập phụ thuộc vào từng vụ việc cụ thể trên cơ sở xem
xét hành vi cạnh tranh bất hợp pháp là gì, chủ thể vi phạm là ai, chủ thể
có thỏa mãn điều kiện luật định hay không, mức độ của hành vi vi phạm
và trách nhiệm pháp lý như thế nào. Trên cơ sở đó mà chứng cứ cần thu
thập trong các vụ việc cạnh tranh thường bao gồm chứng cứ về hành vi,
chứng cứ xác định chủ thể và điều kiện chủ thể, chứng cứ xác minh thị
trường, và chứng cứ xác định trách nhiệm pháp lý.
− Chứng cứ về hành vi là những chứng cứ được dùng để chứng minh hành
vi vi phạm hoặc không vi phạm các quy định của pháp luật cạnh tranh
của một đối tượng chủ thể nhất định. Thu thập chứng cứ chứng minh
hành vi là yêu cầu bắt buộc đầu tiên đối với điều tra viên trong q trình
điều tra. Việc có thu thập được chứng cứ chứng minh hành vi hay không
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả điều tra và quyết định sự thành cơng của

tồn bộ q trình điều tra. Chứng cứ chứng minh hành vi cũng là cơ sở để
điều tra viên đưa ra quyết định về việc tiếp tục hoặc dừng việc điều tra
nếu khơng muốn tiêu tốn vơ ích các nguồn lực.
− Chứng cứ xác định chủ thể và điều kiện chủ thể rất phong phú và đa dạng
bao gồm các loại thông tin, tài liệu chứng minh cho sự tồn tại thực sự của
các chủ thể là đối tượng điều tra trong vụ việc cạnh tranh, chứng minh
cho sự tham gia hay liên quan của những đối tượng này vào các hành vi
vi phạm, chứng minh cho mức thị phần chiếm giữ hoặc thị phần kết hợp


của nhóm doanh nghiệp trong những vụ việc địi hỏi phải xác định các
tiêu chí thị phần nhằm xác định tính hợp pháphay bất hợp pháp của hành
vi. Các chứng cứ xác định chủ thể và điều kiện chủ thể cũng đóng vai trị
vơ cùng quan trọng trong các vụ việc cạnh tranh bởi chỉ khi xác định
được chính xác những chủ thể có hành vi vi phạm theo đúng quy định của
pháp luật cạnh tranh thì mới có khả năng áp dụng được các biện pháp xử
lý đúng đắn và phù hợp để đảm bảo và tăng cường tính khả thi của pháp
luật cạnh tranh.
− Chứng cứ xác minh thị trường là những chứng cứ được sử dụng để xác
định thị trường liên quan trong những vụ việc cạnh tranh đòi hỏi phải xác
định thị trường liên quan. Chứng cứ xác minh thị trường thường bao gồm
rất nhiều loại khác nhau như các thông tin, tài liệu nhằm xác định đặc
tính, mục đích sử dụng, giá cả của hàng hố hay dịch vụ hay các thơng tin
nhằm khoanh vùng các khu vực địa lý liên quan nằm trong phạm vi hay
khuôn khổ của cuộc điều tra.
− Chứng cứ xác định trách nhiệm pháp lý là những chứng cứ làm cơ sở cho
việc đưa ra một biện pháp xử lý phù hợp nhất đảm bảo sự tương xứng với
tính chất và mức độ của hành vi vi phạm.
Khi thực hiện việc thu thập các loại chứng cứ trên đây các điều tra viên
cần lưu ý chỉ được sử dụng các biện pháp và tuân theo đúng trình tự, thủ tục luật

định. Không được làm sai lệch hồ sơ tài liệu, cố tình bỏ ra ngồi hồ sơ những
chứng cứ quan trọng, thêm bớt hoặc sửa chữa hồ sơ tài liệu hay chứng cứ làm
ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ việc cạnh tranh. Việc thu thập
chứng cứ cũng cần phải được thực hiện một cách kịp thời, nhanh chóng và đầy
đủ.

III. Vấn đề chứng cứ điện tử trong các vụ việc cạnh tranh. Thời
hạn công bố và sử dụng chứng cứ, giao nộp chứng cứ.


● Vấn đề chứng cứ điện tử trong các vụ việc cạnh
tranh:
Cùng với sự phát triển của công nghệ và khoa học máy tính cùng với những tính
năng ưu việt đã thúc đẩy việc áp dụng rộng khắp công nghệ và khoa học này
trong kinh doanh. Vì vậy, rất nhiều loại thông tin, tài liệu, số liệu hay kết quả
kinh doanh cũng như nhiều giao dịch giữa các chủ thể kinh doanh trên thị
trường được lưu giữ ở dạng dữ liệu điện tử. Và trong nhiều trường hợp những
thông tin, tài liệu được lưu giữ ở dạng điện tử này trở thành những chứng cứ
quan trọng trong các vụ việc cạnh tranh. Do vậy, có thể khái quát chứng cứ điện
tử là những chứng cứ được lưu giữ dưới dạng tín hiệu điện tử trong máy tính
hoặc trong các thiết bị có bộ nhớ kỹ thuật số.
Nhằm đáp ứng những điều kiện phát triển mới, pháp luật Việt Nam đã quy định
và công nhận giá trị của chứng cứ điện tử. Luật giao dịch điện tử năm 2005 quy
định như sau:
-

Công nhận giá trị pháp lý của thông điệp điện tử bằng việc quy
định thông tin trong thông điệp dữ liệu khơng bị phủ nhận giá trị pháp lý
chỉ vì thơng tin đó được thể hiện dưới dạng thơng điệp dữ liệu. (điều 11)
- Luật này cũng quy định trường hợp thơng điệp điện tử có giá trị như văn

bản, theo đó trường hợp pháp luật u cầu thơng tin phải được thể hiện
bằng văn bản thì thơng điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu
thông tin chứa trong thơng điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng
được để tham chiếu khi cần thiết (điều 12)
- Quy định thơng điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc, theo đó thơng điệp dữ
liệu có giá trị như bản gốc khi đáp ứng được các điều kiện gồm nội dung
của thông điệp dữ liệu được bảo đảm toàn vẹn kể từ khi được khởi tạo lần
đầu tiên dưới dạng một thông điệp dữ liệu hồn chỉnh (Nội dung của
thơng điệp dữ liệu được xem là tồn vẹn khi nội dung đó chưa bị thay
đổi, trừ những thay đổi về hình thức phát sinh trong q trình gửi, lưu trữ
hoặc hiển thị thơng điệp dữ liệu); nội dung của thơng điệp dữ liệu có thể
truy cập và sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết (Điều 13).
- Đặc biệt Luật này khẳng định thơng điệp dữ liệu có giá trị làm chứng cứ,
theo đó thơng điệp dữ liệu khơng bị phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ
chỉ vì đó là một thơng điệp dữ liệu. Giá trị chứng cứ của thông điệp dữ
liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ
hoặc truyền gửi thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính
tồn vẹn của thơng điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo và các
yếu tố phù hợp khác (Điều 14).


Thực tiễn trong điều tra cạnh tranh ở nhiều nước trên thế giới cho thấy chứng cứ
điện tử ngày càng xuất hiện nhiều theo sự phát triển của khoa học cơng nghệ. Vì
vậy, hoạt động điều tra cạnh tranh cũng cần điều chỉnh linh động để thích ứng
với sự phát triển đó. Sự xuất hiện ngày càng nhiều của các dạng chứng cứ điện
tử trong các vụ việc cạnh tranh địi hỏi các điều tra viên phải khơng ngừng nâng
cao kỹ năng và trình độ để có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra khi thực hiện
việc thu thập và xử lý chứng cứ điện tử trong quá trình điều tra các vụ việc cạnh
tranh. Đây cũng là đòi hỏi cấp thiết của các điều tra viên trong cơ quan cạnh
tranh hiện nay. Liên quan đến chứng cứ điện tử trong các vụ việc cạnh tranh

hiện nay có rất nhiều vấn đề được đặt ra và phải có hướng giải quyết đó là vấn
đề thu thập các thơng tin, chứng cứ điện tử như thế nào, việc chuyển hóa các
chứng cứ điện tử đó như thế nào để có thể sử dụng chúng trong quá trình tố tụng
cạnh tranh.

● Thời hạn công bố và sử dụng chứng cứ, giao nộp
chứng cứ:
Trong điều tra cạnh tranh bên cạnh việc thu thập thì cơ quan cạnh tranh cũng bị
yêu cầu phải công bố và sử dụng chứng cứ.
Theo điều 25 Nghị định 35/2020/NĐ-CP
“Điều 25. Công bố và sử dụng chứng cứ
1. Mọi chứng cứ được công bố và sử dụng công khai, trừ trường hợp quy định
tại khoản 2 và 3 Điều này.
2. Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh,
Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh không công bố và sử dụng công khai
các chứng cứ sau đây:
a) Chứng cứ thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật;
b) Chứng cứ liên quan tới thuần phong mỹ tục, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh
doanh, bí mật cá nhân theo yêu cầu chính đáng của người tham gia tố tụng cạnh
tranh.
3. Trường hợp cần thiết, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Cơ quan điều
tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh có quyền
cơng bố và sử dụng cơng khai một số, một phần hoặc toàn bộ chứng cứ vào thời
điểm thích hợp cho việc điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh.


4. Cơ quan, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải giữ bí mật
những chứng cứ thuộc trường hợp không công bố và sử dụng công khai quy
định tại khoản 2 Điều này theo quy định của pháp luật.”
− Thời gian giao nộp chứng cứ:

Căn cứ vào khoản 4 điều 19 Nghị định 35/2020/NĐ-CP:
“Điều 19. Giao nộp chứng cứ
4. Thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ không được quá thời hạn điều tra quy
định tại Điều 81, 87 của Luật Cạnh tranh, thời hạn điều tra bổ sung quy định
tại Điều 89, 90, 91 của Luật Cạnh tranh hoặc theo yêu cầu của Chủ tịch Ủy ban
Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh.

IV. Nghĩa vụ chứng minh và thu thập chứng cứ trong tố tụng
cạnh tranh.
1. Tình tiết, sự kiện không phải chứng minh trong tố tụng cạnh tranh.
Bao gồm 3 tình tiết, sự kiện được quy định tại Nghị định 35/2020/NĐ-CP
hướng dẫn chi tiết một số quy định trong Luật Cạnh tranh 2018.

Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Hội đồng
xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh hoặc Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia thừa nhận;

Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng,
chứng thực hợp pháp.
Trường hợp có nghi ngờ về tính xác thực của tình tiết, sự kiện trong văn bản
này thì Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
đã cung cấp, giao nộp văn bản xuất trình văn bản gốc, bản chính.

Bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản mà
một bên đưa ra thì bên đưa ra khơng phải chứng minh.
Việc thu thập chứng cứ trong quá trình điều tra phụ thuộc vào nghĩa vụ chứng
minh theo quy định của pháp luật cạnh tranh
Ngồi những tình tiết, sự kiện khơng phải chứng minh thì quyền và nghĩa vụ
chứng minh trong vụ án cạnh tranh thuộc về:


Bên khiếu nại: đưa ra chứng cứ để chứng minh cho khiếu nại, chứng
minh khiếu nại có căn cứ, hợp pháp;



Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: chứng minh
yêu cầu đó có căn cứ và hợp pháp;

Bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan phản đối khiếu nại, yêu cầu của người khác đối với mình, và phải đưa ra
chứng cứ để chứng minh.


Cơ quan quản lý cạnh tranh có nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm

pháp luật về cạnh tranh trong trường hợp tự khởi xướng điều tra khi phát hiện
hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh trong thời hạn 2 năm kể từ
ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện.
2. Quyền, nghĩa vụ chứng minh và việc thu thập chứng cứ trong tố tụng cạnh
tranh.
Theo Điều 17 Nghị định 35/2020/NĐ-CP nội dung này được quy định như sau:
1. Bên khiếu nại có quyền và nghĩa vụ thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ và
chứng minh cho khiếu nại là có căn cứ và hợp pháp.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền và nghĩa
vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và
hợp pháp.
3. Bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phản
đối khiếu nại, u cầu của người khác đối với mình có quyền chứng minh sự
phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
4. Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh có nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm

pháp luật về cạnh tranh trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 80 của Luật
Cạnh tranh.
Theo quy định trên, bên khiếu nại có nghĩa vụ thu thập chứng cứ để cung cấp
cho cơ quan cạnh tranh khi thực hiện khiếu nại. Cơ quan cạnh tranh có nghĩa vụ
thẩm định và xem xét hồ sơ khiếu nại và thực hiện các biện pháp điều tra cần
thiết nhằm xác minh các tình tiết, sự kiện trong hồ sơ khiếu nại và thu thập thêm
các chứng cứ cần thiết khác nhằm đưa ra kết luận chính xác về vụ việc.
Còn trong trường hợp phát hiện dấu hiệu về hành vi vi phạm và khởi xướng
một cuộc điều tra thì cơ quan cạnh tranh có nghĩa vụ thu thập chứng cứ. Khi thu
thập chứng cứ cơ quan cạnh tranh sẽ thực hiện những quyền năng cơ bản được


pháp luật cạnh tranh quy định cho phép gồm quyền yêu cầu các bên liên quan
cung cấp thông tin và giải trình, quyền thực hiện khám xét, quyền thực hiện
thẩm vấn lấy lời khai.
Liên quan đến việc yêu cầu các bên liên quan giải trình và cung cấp thơng tin
chứng cứ, Điều 32, Luật cạnh tranh quy định cơ quan quản lý cạnh tranh có
quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thơng tin về thoả thuận
hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế đang được cơ quan quản lý cạnh tranh thụ
lý. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của cơ quan
quản lý cạnh tranh, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm trả lời bằng văn
bản về các vấn đề được yêu cầu. Cũng liên quan đến vấn đề này, Điều 77, Luật
cạnh tranh quy định khi tiến hành tố tụng cạnh tranh điều tra viên có quyền :
(1) yêu cầu tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thơng tin cần thiết và các
tài liệu có liên quan đến vụ việc cạnh tranh,
(2) yêu cầu bên bị điều tra cung cấp tài liệu, giải trình liên quan đến vụ việc
bị điều tra,
(3) kiến nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh trưng cầu giám định.
Cùng với quyền u cầu giải trình và cung cấp thơng tin chứng cứ của cơ
quan cạnh tranh, điều tra viên là nghĩa vụ cung cấp thông tin chứng cứ của bên

khiếu nại, bên bị điều tra theo đó điểm a, Khoản 3, Điều 66, Luật cạnh tranh
quy định bên bị điều tra, bên khiếu nại có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực,
chính xác, kịp thời những chứng cứ cần thiết liên quan đến kiến nghị, yêu cầu
của mình. Bên cạnh đó, theo quy thì các bên liên quan có nghĩa vụ giao nộp
chứng cứ cho cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
trong quá trình điều tra, giải quyết vụ việc cạnh tranh. Việc giao nộp chứng cứ
phải được lập biên bản ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng
cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của
người giao nộp và chữ ký của người nhận và dấu của cơ quan quản lý cạnh


tranh, Hội đồng cạnh tranh. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ
sơ vụ việc cạnh tranh và một bản giao cho bên nộp chứng cứ giữ.
Trong các vụ việc cạnh tranh, cơ quan cạnh tranh thường tận dụng một
cách triệt để quyền yêu cầu các bên giải trình và cung cấp thơng tin chứng cứ.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các bên được yêu cầu khơng thực hiện hoặc
thực hiện khơng đúng, khơng đủ thì cơ quan cạnh tranh có thể thực hiện việc lấy
lời khai. Trong đó quy định điều tra viên, thành viên Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh tiến hành lấy lời khai của bên khiếu nại, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan khi họ chưa có bản giải trình hoặc nội dung bản giải trình chưa đầy
đủ, rõ ràng. Bên khiếu nại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm
chứng phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp bên khiếu
nại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không thể tự viết
được thì điều tra viên, thành viên Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh lấy lời khai
của họ. Người lấy lời khai tự mình hoặc thư ký phiên điều trần ghi lại lời khai
của bên khiếu nại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vào
biên bản. Biên bản ghi lời khai phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại
và ký tên hoặc điểm chỉ. Người khai có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ
sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Biên bản phải
có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu của cơ quan

quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh; nếu biên bản được ghi thành nhiều
trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Việc lấy lời khai
của bên khiếu nại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng là
người chưa thành niên hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải được
tiến hành với sự có mặt của người đại diện hợp pháp của người đó. Biên bản ghi
lời khai của bên khiếu nại, bên bị điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan được coi là bộ phận không tách rời của bản giải trình của những người
này, Ngồi ra, , Nghị định 35/2020/NĐ-CP quy định trong những trường hợp
đặc biệt cần thiết, để ngăn chặn kịp thời vi phạm pháp luật về cạnh tranh hoặc


để bảo đảm việc xử lý vụ việc cạnh tranh, người có thẩm quyền có thể áp dụng
một trong những biện pháp ngăn chặn hành chính trong điều tra, xử lý vụ việc
cạnh tranh bao gồm khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi
cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Cũng cần lưu ý
rằng thông thường số lượng thông tin, chứng cứ trong các vụ việc cạnh tranh
khá nhiều, rất phong phú và đa dạng trong khi nhân lực điều tra thường khá hạn
chế vì vậy phải vận dụng một cách linh hoạt những yêu cầu và thời gian đặt ra
của các q trình điều tra sơ bộ, điều tra chính thức theo quy định tại các điều từ
Điều 86 đến Điều 90, Luật cạnh tranh. Theo quy định thì thời hạn điều tra chính
thức và sơ bộ có sự khác nhau và yêu cầu trong điều tra chính thức và điều tra
sơ bộ cũng khác nhau nên điều tra viên phải có sự phân bổ thời gian và sức lực
một cách hợp lý và khoa học nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình
điều tra.
(*) Quyền, nghĩa vụ chứng minh và việc thu thập chứng cứ trong phiên điều
trần (điểm mới):
Lần đầu tiên, pháp luật đã giao cho cơ quan hành chính Nhà nước thẩm quyền
xử lý một vụ việc vi phạm pháp luật thông qua phiên điều trần, trong đó các bên
liên quan sẽ có cơ hội được trình bày quan điểm và trao đổi trực tiếp với các bên
tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng khác.

Ngay sau khi Hội đồng Cạnh tranh thụ lý hồ sơ vụ việc cạnh tranh, Chủ tịch Hội
đồng sẽ thành lập Hội đồng xử lý vụ việc để trực tiếp giải quyết hồ sơ này. Hội
đồng xử lý này sẽ có thời gian 30 ngày để nghiên cứu hồ sơ.
Trường hợp nhận thấy các chứng cứ thu thập được chưa đủ để xác định hành vi
vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc sẽ trả hồ sơ để
điều tra bổ sung (tiến hành thu thập và phân tích chứng cứ về hành vi vi phạm).

V. Ý nghĩa và việc sử dụng chứng cứ trong việc giải quyết tố tụng
cạnh tranh:
Có thể nói chứng cứ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong suốt quá trình tố tụng
cạnh tranh. Căn cứ trên cơ sở các chứng cứ được cung cấp hay thu thập được
mà cơ quan cạnh tranh có thể đưa ra những quyết định thích hợp.
1.

Việc sử dụng chứng cứ trong giải quyết tố tụng cạnh tranh:


Theo Điều 56 của Luật Cạnh tranh 2018 quy định về Chứng cứ thì “Chứng cứ là
những gì có thật, được dùng làm căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi vi
phạm pháp luật về cạnh tranh, doanh nghiệp có hành vi vi phạm và những tình
tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh.” Theo đó, chứng
có thể được thu thập từ Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện
tử; Vật chứng; Lời khai, lời trình bày của người làm chứng; Lời khai, lời trình
bày, giải trình của bên khiếu nại, bên bị điều tra hoặc tổ chức, cá nhân liên
quan; Kết luận giám định;
Chứng cứ trong cạnh tranh phải đảm bảo các thuộc tính vốn có như tính có thật
hay tính hợp pháp.

Tính có thật địi hỏi những thông tin, tài liệu được sử dụng làm chứng cứ
trong các vụ việc cạnh tranh phải có thật, mang tính khách quan phản ánh trung

thực những tình tiết của vụ việc cạnh tranh. Những thông tin, tài liệu làm chứng
cứ tồn tại khách quan trước khi có cuộc điều tra mà không phải là mới được tạo
ra một cách giả tạo nhằm phục vụ cho một mục đích nào đó. Những chứng cứ
này cũng phải đảm bảo tính chất gốc mà khơng thể làm lại hay mơ phỏng lại.

Tính liên quan địi hỏi những thơng tin, tài liệu làm chứng cứ phải có mối
liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến vụ việc cạnh tranh, là cơ sở để xác định sự
tồn tại hay không tồn tại của những vấn đề cần chứng minh, là yếu tố cần thiết
đảm bảo cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc cạnh tranh.
Trong quá trình điều tra xử lý các cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền như cơ
quan cạnh tranh, hội đồng cạnh tranh, hội đồng xử lý, các điều tra viên và thành
viên hội đồng xử lý có nghĩa vụ phải xem xét, đánh giá các thuộc tính của
chứng cứ để quyết định việc sử dụng chứng cứ.
Khoản 2 Điều 25 Nghị định số 35/2020/NĐ-CP hướng dẫn các quy định chi tiết
về một số điều của luật cạnh tranh, thì Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia,
Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh
không công bố và sử dụng cơng khai các chứng cứ thuộc bí mật nhà nước theo
quy định của pháp luật; và chứng cứ liên quan tới thuần phong mỹ tục, bí mật
nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân theo yêu cầu chính đáng của
người tham gia tố tụng cạnh tranh.
Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Cơ quan
điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh có quyền
cơng bố và sử dụng công khai một số, một phần hoặc tồn bộ chứng cứ vào thời
điểm thích hợp cho việc điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh.


2.
Ý nghĩa của việc sử dụng chứng cứ trong quá trình tố tụng cạnh
tranh:
- Trước hết có thể khẳng định chứng cứ là điều kiện bắt buộc phải có để

thực hiện quyền khiếu nại. Bởi theo Điều 77 Luật cạnh tranh và Điều 17
Nghị định 35 thì Bên khiếu nại có quyền và nghĩa vụ thu thập, giao nộp
tài liệu, chứng cứ và chứng minh cho khiếu nại là có căn cứ và hợp pháp;
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền và
nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu đó là có
căn cứ và hợp pháp. Bên khiếu nại phải chịu trách nhiệm về tính trung
thực của các thông tin, chứng cứ đã cung cấp cho Ủy ban Cạnh tranh
Quốc gia.
- Thứ hai, chứng cứ đầy đủ, hợp lệ là cơ sở cho việc thụ lý hồ sơ khiếu nại
bởi Điều 59, Luật cạnh tranh quy định cơ quan quản lý cạnh tranh có
trách nhiệm thụ lý hồ sơ khiếu nại. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể
từ ngày tiếp nhận hồ sơ khiếu nại, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách
nhiệm thơng báo bằng văn bản cho bên khiếu nại về việc thụ lý hồ sơ. Và
Điều 47, Nghị định 116 quy định sau khi nhận hồ sơ khiếu nại vụ việc
cạnh tranh đầy đủ, hợp lệ, cơ quan quản lý cạnh tranh phải thông báo
ngay cho bên khiếu nại nộp tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh tranh
trừ trường hợp được miễn tiền tạm ứng chi phí xử lý vụ việc cạnh
tranh. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của cơ
quan quản lý cạnh tranh, bên khiếu nại phải nộp tiền tạm ứng chi phí xử
lý vụ việc cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ sơ khiếu nại
vụ việc cạnh tranh sau khi nhận đươc biên lai nộp tiền tạm ứng chi phí xử
lý vụ việc cạnh tranh.
− Thứ ba, chứng cứ là cơ sở để cơ quan cạnh tranh xem xét, cân nhắc khởi
xướng điều tra bởi Điều 65 và Điều 86, Luật cạnh tranh quy định việc
điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh được tiến hành theo quyết định của Thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh trong trường hợp cơ quan quản lý cạnh
tranh phát hiện có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật này. Bên bị điều
tra là doanh nghiệp bị cơ quan quản lý cạnh tranh phát hiện là đang hoặc




×