Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

TIỂU LUẬN: VỀ TÍNH QUY LUẬT CỦA SỰ HÌNH THÀNH HỆ GIÁ TRỊ VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC MỚI doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.4 KB, 58 trang )








TIỂU LUẬN:

V
Ề TÍNH QUY LUẬT CỦA SỰ HÌNH
THÀNH HỆ GIÁ TRỊ VÀ CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC MỚI















Trong quá trình xây dựng nền văn hoá mới, vấn đề “hình thành hệ giá trị và chuẩn
mực xã hội mới, phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời
đại”(1) là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định. Giải quyết vấn đề này trong


lĩnh vực đạo đức chính là làm hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới phù
hợp với truyền thống và yêu cầu của thời đại.
Trong thời gian qua, những nghiên cứu đạo đức học về vấn đề này đã đạt được
những thành tựu nhất định. Theo đó, sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức
mới được nhìn nhận như một quá trình, một phương diện của sự nghiệp đổi mới, hiện
đại hoá đất nước (chứ không phải được xác lập một cách áp đặt, nóng vội). Cũng như
sự nghiệp đổi mới, sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới là một quá
trình tự giác, được chủ động và tích cực xây dựng trên cơ sở nhận thức tính quy luật
của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đó trong điều kiện hiện nay. Tính quy luật
chung nhất được nhiều công trình đề cập và phân tích là kế thừa và phát huy các giá
trị đạo đức truyền thống kết hợp với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá,
đạo đức của nhân loại trong xây dựng đạo đức nói chung, hình thành hệ giá trị và
chuẩn mực đạo đức mới nói riêng. Tính quy luật đó, đương nhiên, là định hướng có
tính nguyên tắc cho sự xác lập hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Hơn thế, với sự
định hướng đó, một số giá trị đạo đức truyền thống cần kế thừa, phát huy trong điều
kiện hiện nay đã được phân tích, chẳng hạn: chủ nghĩa yêu nước; tính cần cù, tiết
kiệm; tinh thần đoàn kết; lòng nhân ái, bao dung,… Đồng thời, một số giá trị quốc tế,
hiện đại cũng đã được xem xét như là những giá trị cần được tiếp thu để bổ sung cho

hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, chẳng hạn: tính hiệu quả trong hoạt động; tinh
thần thương mại; tính thực tế; tinh thần pháp luật,…
Tuy vậy, chỉ với sự xác định nguyên tắc chung và những phân tích cụ thể cho một số
trường hợp cụ thể, riêng biệt, thì sự phong phú của những tính quy luật trong sự hình
thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới chưa được xem xét đầy đủ. Vì thế, cần
đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu một cách toàn diện những tính quy luật của quá
trình hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Hơn thế, việc nghiên cứu cần
được thực hiện cả về mặt xác định nội dung, cả về mặt đề xuất giải pháp cho sự hình
thành, hoàn thiện hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới
Theo chúng tôi, cần nhìn nhận sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới
trong mối liên hệ và tính quy định của những nhân tố tiêu biểu, đặc trưng cho quá

trình đổi mới, quá trình hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá. Sự phân
tích những mối liên hệ, tính quy định đó sẽ làm bộc lộ những tính quy luật căn bản
chi phối quá trình hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Trên cơ sở đó,
những nghiên cứu ở các cấp độ cụ thể hơn sẽ được liên kết lại như là những yếu tố,
những công đoạn của một cách tiếp cận đầy đủ và nhất quán.
Có thể thấy, sự nghiệp hiện đại hoá đất nước đang diễn ra dưới tác động của nhiều
nhân tố; nhưng có ba nhân tố cơ bản nhất đang tác động, quy định chiều hướng vận
động, biến đổi xã hội nói chung, các giá trị và chuẩn mực đạo đức nói riêng là kinh tế
thị trường, tiến bộ công nghệ, hội nhập và giao lưu văn hoá. Ngày nay, không thể
nói đến phát triển, hiện đại hoá xã hội nếu không thực hiện kinh tế thị trường; không
đẩy nhanh những nghiên cứu và áp dụng các thành tựu công nghệ trong sản xuất
cũng như trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; không mở cửa giao lưu, hội nhập
quốc tế. Sự thực hiện các quá trình này tất dẫn đến những biến đổi đạo đức thích ứng
và đáp ứng yêu cầu của chúng.
Việc phân tích những yêu cầu của kinh tế thị trường trong mối liên hệ với đạo đức sẽ
cho thấy những hạn chế, những bất cập về mặt giá trị của đạo đức truyền thống.
Chẳng hạn, dưới tác động của các quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, kinh tế thị
trường đòi hỏi tính tích cực năng động, tính thực tế, tính hiệu quả của hoạt động
người. Bởi vậy, việc coi nhẹ các giá trị vật chất, coi trọng động cơ và coi nhẹ hiệu

quả của hoạt động, tính duy cảm, thiếu nguyên tắc trong giải quyết các quan hệ xã
hội,…với tư cách là các giá trị, các chuẩn mực đạo đức truyền thống trở nên bất cập
trong điều kiện hiện nay. Chúng cần được khắc phục trong sự xác lập nội dung của
hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Đồng thời, những yêu cầu của kinh tế thị
trường lại đòi hỏi con người phải coi trọng cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần, cả
giá trị cá nhân lẫn giá trị xã hội; đòi hỏi những ứng xử đạo đức được thực hiện bởi
những chủ thể có sự phát triển nhân cách độc lập, có ý thức về sự thống nhất giữa
quyền và nghĩa vụ công dân. Chính những đòi hỏi mang tính quy luật đó của kinh tế
thị trường đặt ra yêu cầu bổ sung vào hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội những
giá trị và chuẩn mực mới.

Sự vận hành của kinh tế thị trường đòi hỏi và tạo điều kiện cho việc thúc đẩy những
nghiên cứu sáng tạo, chuyển giao, áp dụng công nghệ trong sản xuất và trong mọi
lĩnh vực hoạt động xã hội. Công nghệ, như cách hiểu hiện nay, không chỉ là các
phương tiện vật chất, thiết bị kỹ thuật và gắn liền với chúng là phương thức, quy
trình vận hành, mà còn bao hàm những yêu cầu tương ứng về tổ chức, thiết chế quản
lý, điều phối, tiếp thị và sau cùng là con người với kỹ năng, năng lực vận hành công
nghệ. Tất cả những thành tố của công nghệ, bằng cách này, cách khác đều đòi hỏi và
tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí của con người. Lý trí, sự hiểu biết không chỉ là
điều kiện cho hoạt động vận hành công nghệ, mà sự phát triển của nó còn tạo ra cơ
sở tâm lý thuận lợi cho sự phát triển đạo đức nói chung, quan niệm về giá trị đạo đức
nói riêng của con người. Sự phát triển của lý trí, hàm lượng tri thức được thể hiện
trong lao động, sản xuất và các hoạt động xã hội trở thành một trong những thước đo
giá trị nhân cách trong điều kiện hiện đại. Trong trường hợp này, tiến bộ công nghệ
vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho sự kế thừa truyền thống đạo đức hiếu học; lại vừa
đòi hỏi đổi mới và nâng cấp truyền thống đó. Điều đó có nghĩa là, trong hệ giá trị và
chuẩn mực đạo đức mới, hiếu học với tư cách giá trị đạo đức phải có một vị trí thích
đáng; đồng thời, hiếu học không chỉ là học cách làm người (như nội dung chủ yếu
của hiếu học truyền thống), mà còn là học cách làm việc, tiếp cận tri thức khoa học,
công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường, kinh tế tri thức.
Giao lưu văn hoá trong điều kiện hiện nay diễn ra dưới tác động mạnh mẽ của các

phương tiện truyền thông hiện đại và các thiết chế của quá trình toàn cầu hoá. Chính
vì vậy, nó tạo ra điều kiện rất thuận lợi cho việc xác nhận và đánh giá lại các chân
giá trị của đạo đức truyền thống. Chẳng hạn, nó xác nhận giá trị của chủ nghĩa yêu
nước, đồng thời đòi hỏi phải đổi mới và nâng cấp chủ nghĩa yêu nước truyền thống
thành chủ nghĩa yêu nước trong điều kiện hiện đại. Cùng với điều đó, giao lưu văn
hoá hiện nay đẩy nhanh sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, các nền văn hoá, giúp
khắc phục sự biệt lập và tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của các giá trị, các nền
văn hoá. Trong bối cảnh đó, giao lưu văn hoá sẽ thúc đẩy việc tiếp nhận những giá trị
mới, làm phong phú và tăng cường sức sống cho hệ giá trị và chuẩn mức đạo đức của

xã hội. Điều đó cũng có nghĩa rằng, chủ động và tích cực gia nhập vào quá trình giao
lưu văn hoá là yêu cầu có tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo
đức mới trong điều kiện hiện nay.
Tuy vậy, mối liên hệ giữa các nhân tố cơ bản của quá trình hiện đại hoá với sự hình
thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức không chỉ biểu hiện theo chiều thuận, mà còn
biểu hiện theo chiều nghịch. Nói cụ thể hơn, kinh tế thị trường, tiến bộ công nghệ và
giao lưu văn hoá không chỉ đòi hỏi và tạo kiện cho sự hình thành hệ giá trị và chuẩn
mực đạo đức mới, mà còn tác động tiêu cực đến chính quá trình này. Vì thế, yêu cầu
về mặt lý luận của những nghiên cứu đạo đức là xác định và phân tích tác động tiêu
cực cùng những biểu hiện của tác động tiêu cực đó.
Kinh tế thị trường vận hành theo quy luật cạnh tranh dựa trên sự thừa nhận và
khuyến khích lợi ích cá nhân (cố nhiên đó là lợi ích cá nhân chính đáng). Đồng thời,
kinh tế thị trường cũng giả định một nền pháp chế tương ứng để đảm bảo cho nó vận
hành một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, chủ thể của các hoạt động, các quan hệ thị
trường là con người kinh tế; mà con người kinh tế thì cứ có lợi ích là nó hoạt động.
Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường có cội nguồn sâu xa từ đây. Chủ nghĩa cá
nhân với tư cách một giá trị, một định hướng sống không duy nhất là sản phẩm của
kinh tế thị trường, nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường, với việc khuyến khích
lợi ích cá nhân, nó thực sự có điều kiện để phát triển. Để khắc phục nghịch lý này,
vấn đề đặt ra sẽ là giải quyết một cách hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. Việc giải quyết một cách hợp lý mối

quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chỉ có thể được thực hiện triệt để thông
qua sự kết hợp các giải pháp về luật pháp, chính sách kinh tế với các giải pháp về
giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Như vậy, chính những tác động từ
mặt trái của kinh tế thị trường đã đặt ra vấn đề xác định và kết hợp các giải pháp
nhằm khắc phục chủ nghĩa cá nhân, đảm bảo cho các giá trị cộng đồng của đạo đức
truyền thống được kế thừa, có vị trí thích đáng bên cạnh các giá trị cá nhân trong hệ
giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Tiến bộ công nghệ trong khi tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí, trí tuệ, nghĩa là tạo

cơ sở tâm lý thuận lợi cho đạo đức và phát triển năng lực thực hiện sự định hướng
giá trị đạo đức, cũng đồng thời tạo ra sự phát triển thiên lệch của lý trí trong cấu trúc
nhân cách con người. Điều đó cản trở sự phát triển tình cảm, một trong những cơ sở
tâm lý của đạo đức. Sự suy giảm mối quan tâm giữa con người với con người, tính
ích kỷ như là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức hiện nay không chỉ có mối liên hệ
với cơ chế thị trường, mà còn bị quy định bởi chính sự đề cao về mặt giá trị, sự lấn át
trong thực tế của yếu tố lý trí, trí tuệ so với yếu tố tình cảm trong cấu trúc nhân cách
con người. Chính điều đó là một trong những tác nhân dẫn tới những nghịch lý của
thời đại ngày nay trong sự lựa chọn giá trị. Về những nghịch lý trong xã hội hiện đại,
một tác giả vô danh trên Internet đã nhận xét: “Chúng ta có những toà nhà cao hơn
nhưng tính cách lại nhỏ hơn, những đường cao tốc dài rộng hơn nhưng quan điểm
hẹp hòi hơn, mua nhiều hơn mà vẫn thấy có ít hơn, có căn nhà to hơn nhưng gia đình
lại nhỏ đi, cuộc sống kéo dài hơn nhưng lúc nào cũng không có thời gian, kiến thức
nhiều hơn nhưng đầu óc lại cực đoan, y tế tốt hơn nhưng lại lắm đại dịch, tăng số của
cải nhưng giá trị của mình lại giảm xuống, đi lên đến tận mặt trăng nhưng ngại gặp
hàng xóm bên kia đường, thích hoạt động cộng đồng nhưng lại quên đi người thân
đang ốm”. Đó là biểu hiện của tính ích kỷ, của sự vô cảm về mặt xã hội của con
người trong điều kiện trí tuệ được đẩy lên đến mức che lấp, lấn át tình cảm. Con
người chỉ biết khẳng định, chiếm lĩnh mà quên đi sự quan tâm, đồng cảm, chia sẻ cho
nhau.
Như vậy, việc giáo dục tình cảm đạo đức, giáo dục nghĩa vụ, lương tâm là điều
không thể thiếu được trong điều kiện hiện nay. Trên bình diện giá trị, lòng nhân ái,

sự bao dung, tính quan tâm tới người khác với tư cách là giá trị đạo đức truyền thống
cần được kế thừa và có vị trí thích đáng trong hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Một trong những yêu cầu của sản xuất trong điều kiện kinh tế thị trường và tiến bộ
công nghệ là sự quy cách hoá, chuẩn hoá các yếu tố của công nghệ, của sản xuất và
sản phẩm. Quá trình này được phản ánh về mặt văn hoá thành sự đồng nhất hoá các
giá trị, các chuẩn mực của lối sống, hành vi, cách ứng xử về mặt đạo đức giữa người
và người. Đây là một trong những nguyên nhân của xu hướng đơn điệu hoá (mà biểu

hiện cực đoan nhất là sự bắt chước) về mặt văn hoá, đạo đức; đồng thời dẫn đến xu
thế xem nhẹ, lãng quên các giá trị đạo đức truyền thống ở các xã hội đang đẩy mạnh
quá trình hiện đại hoá hiện nay. Cùng với điều đó, sự gia tăng tốc độ của việc áp
dụng, thay thế các công nghệ là yêu cầu có tính quy luật của hiện đại hoá. Sự thay
thế nhanh chóng các giá trị công nghệ khi được chuyển dịch sang lĩnh vực văn hoá sẽ
dẫn đến thái độ hư vô chủ nghĩa đối với những giá trị, những chuẩn mực tinh thần,
đạo đức truyền thống, dẫn đến tâm trạng bất an về mặt xã hội, cản trở sự xác lập hệ
giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Khắc phục chủ nghĩa hư vô, khẳng định sự trường
tồn của các giá trị, các chuẩn mực đạo đức truyền thống bằng cách đổi mới nội dung,
nâng cấp chúng trên tinh thần những đòi hỏi của điều kiện mới cũng là một trong
những tính quy luật của việc xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Giao lưu văn hoá, bên cạnh những tác động tích cực, cũng tạo ra những trở ngại nhất
định cho sự hình thành các giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Biểu hiện nổi bật của
trở ngại này là sự ngộ nhận giá trị. Sự ngộ nhận giá trị vừa có nguyên nhân kinh tế,
công nghệ, vừa có nguyên nhân chính trị. Mức sống cao cùng những tiện nghi sinh
hoạt và cả sự tuyên truyền không thiện ý đã làm cho một bộ phận không nhỏ dân
chúng trong các nước mới bước vào quá trình hiện đại hoá lầm tưởng tất cả những gì
được đưa đến từ phía các nước phát triển đều là giá trị. Các hình thức sản phẩm văn
hoá đa dạng, mạng Internet toàn cầu là thành tựu về mặt công nghệ, là phương tiện
hùng mạnh của giao lưu văn hoá. Nhưng bên cạnh những lợi ích hiển nhiên, chúng
còn tạo ra những thách thức không nhỏ đối với việc giữ gìn các giá trị, chuẩn mực
đạo đức truyền thống của các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc phương Đông. Khắc
phục tác động tiêu cực từ mặt trái của giao lưu văn hoá cũng là một trong những tính

quy luật và do đó, là một trong những yêu cầu của việc xây dựng hệ giá trị và chuẩn
mực đạo đức mới hiện nay.
Như vậy, những nhân tố cơ bản của hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá đều tác
động có tính hai mặt đối với sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Những tác động đó mang tính quy luật, quy định nội dung và vị trí của các giá trị,
chuẩn mực trong hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội. Đồng thời, chúng cũng đòi

hỏi tính chủ động, tích cực trong việc xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới.
Điều đó có nghĩa là, sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức trong điều kiện
hiện nay vừa bao hàm phương diện “xây”, vừa bao hàm phương diện “chống”; vừa
xác lập thông qua kế thừa, phát huy giá trị truyền thống, tiếp nhận cái mới, vừa khắc
phục, vượt qua những phản giá trị, những cái đã lỗi thời, bất cập trong truyền thống,
hoặc nẩy sinh trong quá trình hội nhập, giao lưu, hiện đại hoá đất nước.
Cố nhiên, sự phân tích trên đây mới chỉ là sơ bộ và mang tính phương pháp luận. Sự
nghiệp xây dựng hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới đòi hỏi đẩy mạnh hơn nữa
việc phân tích một cách đầy đủ và toàn diện những mối liên hệ, tính quy định của các
nhân tố kinh tế, xã hội với tư cách là những tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị
và chuẩn mực đạo đức mới.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Đạo đức học – Mỹ học, Viện Triết học, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.113.




NGHIÊN C
ỨU CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG Ở VIỆT NAMTHÀNH
QUẢ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
PHẠM VĂN ĐỨC (*)

Năm 2000, Viện Triết học đã thực hiện đề tài cấp bộ Nhìn lại 55 năm nghiên cứu
triết học ở Việt Nam: một số vấn đề chủ yếu. Có thể nói, đề tài đó đã tổng kết một
các khá đầy đủ những kết quả mà giới triết học Việt Nam đã thu được trong hơn
nửa thế kỷ qua, đồng thời nêu lên những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong thời
gian tới. Riêng trong phần chủ nghĩa duy vật biện chứng, các tác giả đã tập trung

đánh giá lại những thành tựu đã đạt được trên các mặt như: nghiên cứu vấn đề vật
chất và ý thức,nghiên cứu về phép biện chứng duy vật. Trong bài viết này, chúng tôi
không trình bày lại một cách chi tiết những kết quả cụ thể, mà chỉ nêu lên một số
nhận định khái quát; trên cơ sở đó, trình bày những vấn đề hiện đang đặt ra trong
lĩnh vực nghiên cứu này.
Trong hơn nửa thế kỷ qua, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết
học đã có những đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu các quan niệm khác
nhau về vật chất và ý thức, mối quan hệ vật chất - ý thức, nhất là quan niệm của
triết học Mác - Lênin về các vấn đề này. Đặc biệt, nhiều nghiên cứu đã tập trung
làm sáng tỏ, phân tích quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về hai
phạm trù cơ bản và rộng nhất của triết học cũng như mối quan hệ giữa chúng. Song,
để có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, có tầm cỡ về vấn đề này và nhất là
để có những nghiên cứu có giá trị làm cơ sở lý luận và phương pháp luận cho hoạt
động cải tạo thực tiễn và nhận thức khoa học, những người làm công tác nghiên cứu
và giảng dạy triết học cần có sự đầu tư công sức nhiều hơn nữa, đồng thời cần có sự
hợp tác chặt chẽ với các nhà khoa học trong các lĩnh vực khoa học khác, đặc biệt là
với các nhà khoa học tự nhiên.
Cũng như những vấn đề xung quanh các phạm trù vật chất, ý thức và mối quan hệ
giữa chúng, trong hơn nửa thế kỷ qua, phép biện chứng duy vật đã được nghiên cứu
khá toàn diện.
Trước hết, cần khẳng định rằng, trong các tác phẩm của mình, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xác định phép biện chứng duy vật như là "khoa học về mối liên hệ
phổ biến" và là "khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy". Kế thừa và phát triển những tư tưởng đó, V.I.Lênin đã coi "phép biện chứng
là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển".

Căn cứ vào những chỉ dẫn trên đây của các tác gia kinh điển, các nhà triết học
mácxít ở Liên Xô đã phân chia phép biện chứng duy vật thành ba bộ phận chủ yếu,
đó là: hai nguyên lý, ba quy luật và sáu cặp phạm trù. Ở Việt Nam, trong các giáo
trình triết học, nội dung của phép biện chứng cũng được quan niệm tương tự như

vậy. Ở đây, chúng ta không bàn đến tính hợp lý hay không hợp lý của quan niệm
trên đây về nội dung của phép biện chứng, mà lấy đó làm căn cứ để xem xét những
cái đã làm được và những cái cần tiếp tục làm trong thời gian tới.
Trong số hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển thì nguyên lý về sự phát triển được quan tâm
nghiên cứu nhiều, mặc dù kết quả của sự nghiên cứu đó còn khiêm tốn.
Nếu như trước đây, ở Liên Xô, lý thuyết về sự phát triển được nghiên cứu một cách
khá bài bản và trên nhiều khía cạnh thì ở Việt Nam, do những nguyên nhân khác
nhau, nguyên lý về sự phát triển chỉ được triển khai trên ba hướng chủ yếu sau:
1. Theo hướng thứ nhất, một số tác giả tập trung làm rõ các khái niệm có liên quan
đến phạm trù phát triển, như vận động, tiến bộ, phát triển.
2. Theo hướng thứ hai, một số tác giả đã tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn gốc,
động lực của sự phát triển, mà đặc biệt là của sự phát triển xã hội. Có thể nói, trong
những năm vừa qua, đặc biệt từ năm 1990 trở lại đây, hướng nghiên cứu này đã đ-
ược khai thác khá nhiều. Sở dĩ như vậy là vì, bắt đầu từ giữa những năm 80, khi bắt
tay vào công cuộc đổi mới, chúng ta ngày càng nhận ra vai trò động lực đặc biệt của
con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, vấn đề được đặt ra là, làm thế
nào khai thác được động lực ấy và sử dụng được nó một cách có hiệu quả để thúc
đẩy quá trình vận động và phát triển xã hội.
3. Theo hướng thứ ba, một số tác giả đã nghiên cứu triết lý phát triển của Việt Nam.
Từ năm 1997 đến năm 2000, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
(nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) đã có một chương trình nghiên cứu triết lý
phát triển của Việt Nam. Các tác giả tham gia chương trình này đã tập trung nghiên
cứu các vấn đề như: sự khác nhau giữa triết học và triết lý; quan điểm của C.Mác,
Ph. Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về triết lý của sự phát triển, triết lý về mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên, giữa cái kinh tế và cái xã hội, giữa nhân tố nội

sinh và nhân tố ngoại sinh.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu về động lực của sự phát triển, triết lý về sự
phát triển trong những năm qua đã góp phần đáng kể vào việc cụ thể hoá nguyên lý

về sự phát triển của phép biện chứng duy vật trong lĩnh vực xã hội.
Cùng với nguyên lý về sự phát triển, các quy luật cơ bản của phép biện chứng cũng
đã được chú ý nghiên cứu một cách thích đáng hơn. Một số công trình nghiên cứu
mang tính chất cơ bản và ứng dụng đã được công bố.
Trước hết, cần nói đến các nghiên cứu xung quanh phạm trù quy luật. Đây là phạm
trù hết sức cơ bản của phép biện chứng duy vật. Phạm trù đó đã được các nhà triết
học trong lịch sử bàn luận tương đối nhiều và tưởng như mọi thứ đã trở nên rõ ràng,
không còn vấn đề gì phải tranh luận. Nhưng, đến năm 1986, khi Đảng ta nêu ra "Bài
học về tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan" thì vấn đề nội dung của
phạm trù quy luật lại bắt đầu được đặt trở lại. Bởi lẽ, để tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan thì điều quan trọng trước tiên là cần phải hiểu thế nào là
quy luật?
Trước yêu cầu đó, trong khoảng mươi năm gần đây, một số tác giả đã xem xét
phạm trù quy luật dưới góc độ lịch sử, tập trung làm rõ các quan điểm khác nhau
trong lịch sử triết học về quy luật; trên cơ sở đó, nêu lên những đặc trưng cơ bản
nhất của phạm trù đó. Một số tác giả khác xem xét mối quan hệ giữa phạm trù quy
luật với các phạm trù khác của phép biện chứng duy vật để từ đó, vạch ra sự tương
đồng và khác biệt giữa phạm trù quy luật và các phạm trù khác của phép biện
chứng duy vật. Ngoài ra, phạm trù quy luật còn được xem xét trong mối tương
quan với phạm trù mâu thuẫn(1), v.v
Trong số ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: quy luật mâu thuẫn (hay
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập), quy luật lượng chất và quy
luật phủ định của phủ định thì trong những năm qua, quy luật mâu thuẫn được tập
trung nghiên cứu nhiều hơn cả. Sở dĩ như vậy không phải chỉ vì quy luật mâu thuẫn
là quy luật cơ bản nhất, hay nói như V.I.Lênin, là "hạt nhân" của phép biện chứng,
mà chủ yếu là vì, trong những năm qua, nhiều vấn đề thực tiễn đã đặt ra một cách
hết sức cấp bách và muốn giải quyết chúng buộc phải trở lại những vấn đề cơ bản

có liên quan đến nội dung của quy luật mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi nghiên cứu
những mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta hiện nay, chúng ta buộc phải giải quyết

những vấn đề hết sức cơ bản, như mâu thuẫn là gì, các loại mâu thuẫn, các cách
thức giải quyết mâu thuẫn, v.v Có thể nói, trong những năm qua, nhiều đề tài,
trong đó có cả đề tài cấp nhà nước, nhiều bài báo, một số cuốn sách chuyên khảo và
luận án tiến sĩ đã giải quyết những vấn đề thực tiễn có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến quy luật mâu thuẫn.
Về các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật thì, kể từ năm 1986 đến nay,
ngoài cặp phạm trù khả năng và hiện thực đã được nghiên cứu một cách tương đối
chuyên sâu, các cặp phạm trù khác của phép biện chứng duy vật ít được nghiên cứu
chuyên sâu hơn. Ngoài những bài báo, những luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ bàn
trực tiếp đến nội dung của một số cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật (2),
hầu như không có một chuyên khảo nào bàn sâu đến một cặp phạm trù nào đó như
cặp phạm trù khả năng và hiện thực mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Đây cũng là
một mảnh đất trống nữa mà những người làm công tác nghiên cứu chủ nghĩa duy
vật biện chứng phải quan tâm. Thực tiễn xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề có liên
quan đến nội dung của các phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng cần tập trung
công sức nghiên cứu.
Như vậy, có thể nói, các thành quả mà những người nghiên cứu triết học đạt được
trong lĩnh vực chủ nghĩa duy vật biện chứng như đã trình bày ở trên là đáng kể.
Những nghiên cứu đó đã góp phần truyền bá thế giới quan duy vật biện chứng, góp
phần làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành cơ sở phương pháp luận cho
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Đồng thời, các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong hơn nửa thế kỷ
qua là tương đối đa dạng, đi sâu vào từng khía cạnh, từng quy luật hoặc một vấn đề
cụ thể nào đó có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Nếu trừu tượng hoá đi các nghiên cứu cụ thể, chúng ta có thể nhận thấy các
nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng đi theo hai hướng chủ yếu: 1. Theo hư-
ớngnghiên cứu cơ bản và 2. Theo hướng nghiên cứu ứng dụng, tức là đi vào những
vấn đề do thực tiễn xã hội đặt ra nhưng có liên quan đến nội dung của chủ nghĩa

duy vật biện chứng.

Theo hướng nghiên cứu cơ bản, những người làm công tác nghiên cứu triết
học, một mặt, đã trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, trên cơ sở đó, có sự điều chỉnh, chính xác hoá những cách hiểu
khác nhau để từ đó, ngày càng có được cách hiểu chính xác hơn; mặt khác, nghiên
cứu sâu về một vấn đề nào đó, trên cơ sở ấy, đề ra những nguyên tắc phương pháp
luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Theo hướng nghiên cứu ứng dụng, những người làm công tác nghiên cứu triết học
tập trung vào những vấn đề do thực tiễn xã hội đặt ra bằng cách áp dụng những
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Trong những năm qua, số công
trình nghiên cứu theo hướng này nhiều hơn. Bởi lẽ, các nghiên cứu như vậy gần đây
được đầu tư nhiều hơn và đồng thời, cũng dễ thực hiện hơn.
Chúng tôi cho rằng, cả hai hướng nghiên cứu đó đều rất cần thiết. Trong tương lai,
các hướng nghiên cứu như vậy cần được tiếp tục triển khai. Tuy nhiên, phải thẳng
thắn thừa nhận rằng, so với yêu cầu phát triển của chuyên ngành và của thực tiễn thì
những kết quả đạt được trong thời gian qua còn khá khiêm tốn. Vì vậy, theo chúng
tôi, để góp phần làm cho các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung
và phép biện chứng duy vật nói riêng đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn, cần kết
hợp một cách chặt chẽ hơn nữa giữa các nghiên cứu cơ bản và các nghiên cứu ứng
dụng.
Trước hết, trong các nghiên cứu cơ bản, cần đầu tư và tìm cách khắc phục những
"mảng trống" trong nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Như đã trình bày ở
trên, những "mảng trống" trong chủ nghĩa duy vật biện chứng còn khá nhiều. Trong
số đó, không ít những "mảng trống" rất cần được nghiên cứu để giải quyết những
vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách. Ngay cả những vấn đề đã được nghiên cứu gọi
là tương đối nhiều thì không phải mọi thứ đều đã có câu trả lời rõ ràng. Thêm vào
đó, cuộc sống hiện nay đã và đang đặt ra và đặt lại nhiều vấn đề triết học khá căn
bản.
Chẳng hạn, ngay vấn đề vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng đã và đang có
những vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo về mặt khoa học. Như mọi người đều


biết, một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là “trong thế giới
không có gì khác ngoài vật chất đang vận động, mà vật chất đang vận động không
thể vận động như thế nào khác ngoài vận động trong không gian và thời gian”. Còn
ý thức chẳng qua chỉ là “cái vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó”; ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, là sự phản ánh
tự giác, ít nhiều các sự vật, hiện tượng và quá trình hiện thực của thế giới vật chất,
nói như V.I.Lênin, đó là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy, theo
quan điểm của những người sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng, trong quan hệ
giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái tồn tại độc lập với ý thức và quyết định nội
dung của ý thức; còn ý thức là cái bị quyết định và phụ thuộc vào vật chất. Nhưng
chủ nghĩa duy vật biện chứng còn đi xa hơn chủ nghĩa duy vật trước Mác khi thừa
nhận sự tác động tích cực trở lại của ý thức đối với vật chất, coi ý thức có thể đẩy
nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất thông qua hoạt động của con
người. Nhưng xung quanh nguyên lý cơ bản này, hàng loạt vấn đề lý luận đang
được đặt ra, như phải chăng vật chất, xét đến cùng, là cái đóng vai trò quyết định,
còn ở những giai đoạn nhất định thì ý thức lại đóng vai trò quyết định? Nếu vật chất
luôn luôn đóng vai trò quyết định và ý thức có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát
triển của thế giới vật chất thì sự đẩy nhanh và kìm hãm đó là vô hạn hay chỉ giới
hạn trong phạm vi nào và với những điều kiện nào thì ý thức mới có được vai trò
như vậy? Có thể nói, không chỉ có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mà nhiều
mối quan hệ của các phạm trù khác của triết học Mác, như mối quan hệ giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, mối quan hệ giữa nhân tố khách quan và nhân
tố chủ quan, cũng đặt ra những vấn đề tương tự như vậy. Tình hình đó đòi hỏi
những người nghiên cứu và giảng dạy triết học phải có câu trả lời sáng rõ và cụ thể
hơn về những vấn đề mang tính nguyên lý cơ bản của triết học.
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học và thực tiễn cũng đang đặt ra những vấn đề
xung quanh vật chất và ý thức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Hàng loạt vấn đề
thuộc về ý thức và tâm linh con người đang đòi hỏi triết học phải có câu trả lời, như
ý thức là sự phản ánh của vật chất hay có sự tồn tại độc lập bên ngoài của thế giới


đó; những hiện tượng tìm mộ hay nói chuyện với người âm là hiện tượng có thật
hay chỉ là ảo thuật của các thày gọi hồn, v.v Đứng về mặt khoa học, đó là những
hiện tượng cần phải được lý giải một cách nghiêm túc. Khi khoa học chưa giải
quyết được thấu đáo thì đó lại là mảnh đất cho tôn giáo phát triển.
Hoặc khi nói về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, các nhà sáng lập chủ nghĩa
duy vật biện chứng cho rằng, thực tiễn là cơ sở, là động lực, đồng thời là tiêu chuẩn
của chân lý. Nhưng, bản thân các ông lại khẳng định rằng, tiêu chuẩn thực tiễn chỉ
có tính tương đối và xét đến cùng, ngoài thực tiễn, để kiểm tra tính đúng đắn của
chân lý còn cần sử dụng các tiêu chuẩn khác, chẳng hạn như tiêu chuẩn lôgíc. Vấn
đề đặt ra là, tiêu chuẩn thực tiễn có mối quan hệ như thế nào với tiêu chuẩn lôgíc và
nên hiểu tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn như thế nào và vận dụng nó ra sao
trong quá trình kiểm tra tính đúng đắn, tính chân lý của nhận thức, v.v Có thể nói,
còn rất nhiều vấn đề tương tự như vậy cần được nghiên cứu thấu đáo về mặt lý luận
và để nghiên cứu những vấn đề đó thì cần phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ
giữa những người làm công tác triết học với những người làm công tác nghiên cứu
của các ngành khoa học khác. Cái khó cho những người nghiên cứu về chủ nghĩa
duy vật biện chứng hiện nay là, để nghiên cứu tốt những vấn đề của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, người nghiên cứu phải nắm được những kiến thức nhất định về
khoa học hiện đại, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Đúng như Ph.Ăngghen đã khẳng
định: “ muốn có một quan niệm vừa biện chứng vừa duy vật về tự nhiên thì người
ta phải biết toán học và khoa học tự nhiên”(3). Bản thân Ph.Ăngghen cũng đã từng
bỏ ra phần lớn thời gian trong tám năm để học toán học và khoa học tự nhiên.
Nhưng đối với nước ta hiện nay, việc tìm được một người vừa giỏi triết học, vừa
thạo khoa học tự nhiên là quá khó.
Theo chúng tôi, các nghiên cứu cơ bản là tiền đề và cơ sở
cho các nghiên cứu ứng dụng. Các nghiên cứu ứng dụng chỉ có thể có hiệu quả nếu
được dựa trên một cơ sở vững chắc, đó là các nghiên cứu cơ bản. Lúc sinh thời,
V.I.Lênin đã từng nhận xét rằng, "người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước
khi giải quyết vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi

"vấp phải" những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải

vấn đề đó trong những trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình
đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc"(4). Có thể coi
những nghiên cứu cơ bản là những nghiên cứu giải quyết các vấn đề chung, còn
những nghiên cứu ứng dụng là những nghiên cứu giải quyết các vấn đề cụ thể do
thực tiễn cuộc sống đặt ra. Vì vậy, để có những nghiên cứu ứng dụng tốt, có thể giải
quyết một cách có hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra cần phải có những
nghiên cứu cơ bản tốt. Đương nhiên, để có những nghiên cứu cơ bản tốt, đó là việc
làm không đơn giản; bởi lẽ các nghiên cứu cơ bản, mặc dù ở nước ta không nhiều,
nhưng trên thế giới đã được tiến hành một cách khá bài bản.
Song, trong điều kiện nước ta, do điều kiện về đội ngũ, trình độ của đội ngũ những
người làm công tác triết học và kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học còn nhiều
hạn chế, việc chọn vấn đề nghiên cứu để tiến hành nghiên cứu cơ bản cũng cần căn
cứ vào nhu cầu của thực tiễn và để giải quyết những vấn đề do thực tiễn trước mắt
đặt ra, đồng thời cũng phải biết dự báo trước những nhu cầu sắp tới của đất nước.
Thứ hai, bên cạnh các nghiên cứu cơ bản, cần tiến hành nghiên cứu những vấn đề
do thực tiễn xã hội đặt ra. Đây là hướng nghiên cứu hết sức quan trọng, là sự vận
dụng những kiến thức cơ bản để giải quyết những vấn đề thực tiễn, làm cho triết
học gắn bó hơn với thực tiễn.
Tuy nhiên, ở đây, cần phải lưu ý rằng, hiệu quả của các nghiên cứu ứng dụng chủ
nghĩa duy vật biện chứng không giống như hiệu quả của các ngành khoa học - kỹ
thuật khác và càng không giống với hiệu quả của sản xuất trực tiếp. Nhìn chung,
các kết quả do nghiên cứu triết học mang lại không góp phần giải quyết một cách
trực tiếp, cụ thể cho từng vấn đề cụ thể vô cùng đa dạng của cuộc sống, mà chỉ là cơ
sở có tính chất định hướng cho các lời giải đáp trực tiếp, cụ thể ấy.
Như vậy, hiệu quả của nghiên cứu ứng dụng phép biện chứng duy vật thể hiện ở sự
định hướng cho hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết
luận chung và khái quát cao mà các nghiên cứu ấy đem lại, chứ không phải là
những cách giải quyết cụ thể cho từng vấn đề cụ thể. Có thể nói, nhiều khi hiệu quả

của những kết luận mà triết học đem lại đối với xã hội là vô cùng to lớn, là vô giá
mà không thể nào tính thành tiền được. Bởi những kết luận đó có thể làm thay đổi

cả xu hướng hoạt động của xã hội.
Chúng tôi cho rằng, cũng như bất kỳ một ngành khoa học nào khác, triết học nói
chung, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng có nhiệm vụ góp phần thiết thực vào
việc giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nhưng để có nhiều đóng góp
thiết thực, những người làm công tác triết học phải đứng từ góc độ chuyên môn của
mình, bằng con đường riêng, thông qua cách thức riêng của triết học, chứ không
hoàn toàn giống các khoa học khác. Nếu không chú ý đến nét đặc thù của triết học,
đến đúng góc độ mà từ đấy, triết học cần phải làm để góp phần mình vào việc đáp
ứng những đòi hỏi của thực tiễn thì những người làm công tác nghiên cứu và giảng
dạy triết học dễ bị lấn sân sang lĩnh vực của các môn khoa học khác, lĩnh vực mà họ
không hiểu biết một cách thấu đáo. Trong trường hợp đó, chắc chắn hiệu quả đóng
góp của những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học sẽ không cao.
Xuất phát từ quan niệm như vậy, chúng tôi cho rằng, để gắn các nghiên cứu chủ
nghĩa duy vật biện chứng với thực tiễn, làm cho các nghiên cứu đó phục vụ thực
tiễn có hiệu quả hơn và đúng góc độ chuyên môn của mình, nhiệm vụ của các nhà
triết học không phải tự mình lao vào giải quyết từng vấn đề cụ thể, mà phải đi sâu
nghiên cứu và giải quyết những vấn đề triết học nảy sinh từ vấn đề cụ thể do thực
tiễn đất nước đề ra và thông qua đó, góp phần hoàn thiện lý luận triết học.
Cuối cùng, mục đích của các nhà nghiên cứu triết học nói chung, chủ nghĩa duy vật
biện chứng nói riêng không phải chỉ để nghiên cứu mà nhằm phục vụ thực tiễn. Vì
vậy, để các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn bó với thực tiễn, phục
vụ một cách thiết thực cho hoạt động thực tiễn, các nghiên cứu đó phải có nhiệm vụ
phản biện cho các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Điều đó có nghĩa là, từ các nghiên cứu của mình, những người làm công tác
nghiên cứu và giảng dạy có nhiệm vụ góp tiếng nói phản biện cho các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để trên cơ sở đó, các cơ
quan Đảng và Nhà nước có đủ căn cứ để đưa ra các quyết sách một cách hợp lý

nhất, đúng đắn nhất.
Thực ra, phản biện là một chức năng không thể thiếu được của bất kỳ một khoa học
nào. Cũng như bất kỳ một khoa học nào khác, triết học nói chung phải có chức năng

phản biện. Nhưng, do tính chất đặc thù của triết học là nghiên cứu những vấn đề có
liên quan chặt chẽ với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
nên các nghiên cứu triết học thường gắn chặt với chính trị và mang tính nhạy cảm.
Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng đó, cần có một cơ chế dân chủ đối với những
người làm công tác lý luận nói chung, đối với người làm công tác nghiên cứu và
giảng dạy triết học nói riêng để sao cho mọi người có thể trình bày thẳng thắn các ý
kiến của mình về những vấn đề nhạy cảm nhất. Nhưng mặt khác, để những ý kiến
phản biện của các nghiên cứu triết học có hiệu quả, những người làm công tác
nghiên cứu và giảng dạy triết học không những phải đầu tư và cần được đầu tư để
nâng cao chất lượng nghiên cứu, mà còn phải có trách nhiệm chính trị trước dân tộc
và đất nước.


(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Quyền Viện trưởng Viện Triết học, Tổng biên tập Tạp chí
Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam .
(1) Xem: Nguyễn Ngọc Hà. Một số vấn đề về nhận thức quy luật và mâu
thuẫn. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998.
(2)
Chẳng hạn: Thành Phương. Phép biện chứng giữa cái riêng và cái chung, một
vài suy nghĩ về nội dung và sự ứng dụng. Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6-1986;
Nguyễn Văn Chinh. Về phạm trù cái đơn nhất, cái đặc thù, cái phổ biến. T/c
Nghiên cứu, số 4-1986; Vũ Hùng. Lại nói về cái riêng và cái chung. Tạp chí Cộng
sản, số 8-1986;Nguyễn Cảnh Hồ. Về thực chất và các biểu hiện của nguyên lý nhân
quả trong vật lí học vi mô (Luận án phó tiến sĩ triết học, Hà Nội, 1989; Lê Trọng
Ân. Một vài suy nghĩ về phép biện chứng của cái phổ biến, cái đơn nhất và cái đặc
thù. T/c Triết học, số 1, 1989; Nguyễn Đăng Tấn. Tìm hiểu tư tưởng của

Ph.Ăngghen về "ngẫu nhiên và tất nhiên” trong "Biện chứng của tự nhiên". T/c
Triết học, số 4-1995; Lê Minh Thọ. Quan niệm mácxít về mối quan hệ giữa cái
chung, cái riêng và việc vận dụng nó trong điều kiện Việt Nam hiện nay (Luận văn
thạc sĩ triết học). Viện Triết học, Hà Nội, 1998; Phạm Thị Hồng Yến. Quan hệ bản
chất, hiện tượng và vấn đề nhận thức bản chất sự vật (Luận văn thạc sĩ triết học).

Viện Triết học, Hà Nội, 1998; v.v…
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr. 22.
(4) V.I.Lênin. Toàn tập, t.15. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr. 437.



GÓP VÀO VIỆC DẠY TRIẾT HỌC MÁC CHO SINH VIÊN Ở NƯ
ỚC TA
HIỆN NAY

NGUY
ỄN TRỌNG CHUẨN(*)


Đổi mới nghiên cứu và giảng dạy triết học là một chủ đề rất lớn. Trong bài viết này,
tôi chỉ đề cập đến một phạm vi rất hẹp là việc dạy triết học cho sinh viên không
chuyên triết học, vì đây là đối tượng trẻ và đông đảo.
1. Cần nhìn thẳng vào thực trạng việc giảng dạy và học triết học trong các nhà
trường để có sự đổi mới theo kịp sự đổi mới toàn diện của đất nước và hội nhập quốc
tế đang diễn ra rất nhanh trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay.
Những người giảng dạy và nghiên cứu triết học cũng như đông đảo các giới xã hội,
nhất là sinh viên, đều nhận ra những điều không ổn trong việc trang bị kiến thức triết
học hiện nay trong các nhà trường của chúng ta.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được và cần đánh giá cao lĩnh vực truyền bá kiến
thức triết học thì cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, từ lâu đã có không ít lời cảnh
báo về việc sinh viên không chuyên triết học không thích học, hay nặng hơn là chán
học các bộ môn Mác – Lênin nói chung. Nhiều sinh viên học cốt sao để cho đủ điểm
không phải thi lại là được, chứ ít ai coi đó là môn học giúp cho việc rèn luyện tư duy,
trang bị phương pháp nhận thức, kiếm tìm tri thức ở nơi mà C.Mác và Hêghen gọi là
“đúc kết” hay “tổng kết” những gì là tinh tuý của tư duy nhân loại, hoặc có ích thực
sự cho chuyên môn sau này của họ. Bởi vậy, đã có lúc rộ lên câu nói nghe thật xót xa
về thực trạng của bộ môn này là bộ môn mà “thầy không muốn dạy, trò không muốn

học”!
Xã hội có biết điều này không? Ngành giáo dục có biết điều này không? Tôi chắc là
tất cả đều biết, thậm chí biết rất rõ. Nếu bây giờ tiến hành một cuộc điều tra xã hội
học nghiêm túc, thật sự khách quan và cơ bản về sự quan tâm, sự hứng thú của người
học các bộ môn Mác – Lênin, chúng ta sẽ có những con số đáng để lưu tâm và suy
nghĩ. Những người có trách nhiệm chưa dám nhìn thẳng vào sự thật này, chưa thấy
được sự thiếu hụt về triết học của sinh viên, thậm chí của cả cán bộ giảng dạy của
chúng ta, nên mọi sự vẫn đang theo lối mòn, chương trình cũ kỹ, gò bó, cản trở nhiệt
tình tìm tòi của người học và cả sự sáng tạo, sự tự vươn lên của chính những người
dạy.
Nhìn rộng hơn sẽ thấy rằng, ngay cả đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu triết
học của chúng ta được chính nhà trường của chúng ta đào tạo cũng đang khá bất cập
trong lĩnh vực học thuật thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình. Bởi lẽ, phần đông chỉ
biết và gói gọn trong một vốn kiến thức triết học đã được trang bị trong nhà trường
như thời gian qua thôi!
2. Vậy nguyên nhân của tình trạng không hứng thú học triết học, nhất là các chuyên
ngành khác trong bộ môn chủ nghĩa Mác – Lênin là gì? Phải chăng đó là lỗi của
người học?
Câu trả lời không hề đơn giản. Tuy nhiên, từ sự trải nghiệm và quan sát của cá nhân,
có thể nêu lên mấy điểm sau đây.

Thứ nhất, không phải lỗi của sinh viên.
Phải nói ngay rằng, người học, mà cụ thể là sinh viên của chúng ta, không có lỗi.
Sinh viên là là lứa tuổi rất ham hiểu biết, ưa chuộng sự thông thái và cách thức để trở
nên thông thái. Họ cần sự hiểu rộng hơn, cần biết nhiều hơn để rồi họ tự lựa chọn
những gì là tốt nhất, chứ không phải chỉ là sự áp đặt một chiều. Do vậy, chúng ta hãy
đi tìm nguyên nhân của việc họ chưa yêu môn học này ở những chỗ khác.
Thứ hai, về thời lượng.
Trong chương trình chính khoá dành cho các ngành không chuyên triết học thuộc tất
cả các khối, nhất là khối các ngành kỹ thuật hoặc khoa học tự nhiên, thì thời lượng

dành cho bộ môn Mác – Lênin không phải là ít so với thời lượng của các môn học
khác của chính các ngành học đó (do vậy, nhiều người lãnh đạo các khối ngành khoa
học tự nhiên và kỹ thuật phàn nàn về việc chiếm mất quá nhiều thời gian của họ)
nhưng thật ra lại bị phân tán, số giờ dành cho triết học khá hạn chế. Vì thời lượng
quá ít nên ngay cả những nội dung cơ bản nhất của chương trình đã sơ sài so với yêu
cầu cần phải có thì người giảng cũng không kịp truyền thụ hết.
Thứ ba, về chương trình và giáo trình.
Đất nước đang đổi mới rất nhanh. Thế giới đang thay đổi rất nhanh. Khoa học và
công nghệ luôn có những cái mới xuất hiện hàng ngày. Triết học cũng không nằm
ngoài xu thế chung đó. Tuy nhiên, chương trình học của chúng ta thì khô cứng và y
hệt nhau cho mọi đối tượng thuộc các chuyên ngành khác nhau.
Không ai có thể phủ nhận rằng, mọi chương trình triết học đều có những yêu cầu
phải đảm bảo những điều cốt yếu, đều có những cái chung. Song, cũng không được
quên rằng, nếu chương trình đó không phù hợp với những đòi hỏi đặc thù của từng
chuyên ngành thì sự hấp dẫn cũng chẳng có. Đó là một trong những lý do vì sao cùng
một chương trình nhưng người ta phải có những giáo trình viết riêng cho các khối
ngành khác nhau và vì sao triết học chưa chiếm được cảm tình hoặc chưa thật sự thu
hút nhiều người học ở nước ta.
Một khiếm khuyết rất lớn khác trong nội dung chương trình là không cho người học
biết được lịch sử của vấn đề, thậm chí quan điểm của chính C.Mác có lúc đã bị cắt

xén hoặc giải thích khác đi cho phù hợp với một yêu cầu nào đó, nên không những
C.Mác đã bị hiểu sai mà còn không làm nổi bật được sự kế thừa của C.Mác và các
tác gia kinh điển đối với triết học trước ông cũng như sự phát triển về những vấn đề
đó sau ông. Với nội dung chương trình đó, người học cũng không tự rút ra được
những cái vĩ đại, cái có tính cách mạng do C.Mác đã thực hiện, không thấy được sự
phong phú của các vấn đề triết học đã được triết học bàn đến từ rất lâu rồi và hiện
nay vẫn đang tiếp tục được bàn đến, cũng như không biết được những vấn đề mới
nảy sinh đang thu hút sự quan tâm của nhân loại, đang làm cho các nhà triết học trăn
trở, do đó, cũng không gợi ý được cho thế hệ trẻ những điều cần suy nghĩ. Nói cách
khác, chúng ta đã biệt lập hoá C.Mác. Điều này hoàn toàn trái với thực tế lịch sử và

rất có hại.
Thứ tư, về phương pháp giảng dạy.
Do thời lượng hạn chế, do sự khô cứng và thiếu phần lịch sử mang tính dẫn dắt của
chương trình và giáo trình nên khi giảng về những quan điểm cơ bản của triết học
Mác, người giảng gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, việc chọn con đường an toàn nhất
và dễ dàng nhất là nói đúng những gì đã được viết ra trong giáo trình chung cho mọi
đối tượng.
Bên cạnh đó, chính cách thi như hiện nay vừa góp phần làm cho người học chỉ cần
học thuộc và tập trung vào một số phần chứ không cần suy nghĩ, tìm tòi, khám phá;
vừa làm cho người giảng cũng phải lo bảo đảm độ an toàn về kết quả giảng dạy của
mình bằng cách cũng chỉ tập trung vào một số nội dung được coi là sẽ có đề thi chứ
chẳng cần đào sâu, mở rộng làm gì cho mệt. Do vậy, sự trì trệ ở đây là khó tránh
khỏi.
Một điều cũng rất đáng suy nghĩ khác là người ta không tìm cách để cải tiến nội dung
chương trình, nâng cao kiến thức, không tìm cách tiếp cận và cập nhật những cái mới
mà lại đi tập trung vào việc công thức hoá, sơ đồ hoá các luận điểm triết học. Không
phủ nhận khả năng đó đối với một số vấn đề triết học nhất định nào đó. Song, đó
thường là những vấn đề đơn giản. Có vô vàn các luận điểm, tư tưởng triết học vô
cùng sâu sắc, hàm chứa trong đó không ít những ẩn ý dẫn đến những cách hiểu, cách

giải thích khác nhau, thậm chí từ đó hình thành các chi nhánh hay trường phái triết
học khác nhau. Đối với những luận điểm hay tư tưởng đó, nhiều khi dùng cách giải
thích thông thường là không đủ, nên có khi phải dùng đến cả phương pháp thông
diễn được hiểu theo nghĩa hiện đại mới hy vọng có thể chỉ ra hết ý nghĩa của chúng.
Vậy thì làm sao mà công thức hoá và sơ đồ hoá triết học lại không mắc thiếu sót,
không tầm thường hoá, thậm chí sai lầm được!
Có vô vàn thí dụ về điều này. Chẳng hạn, làm sao không sai lầm khi công thức hoá
hoặc sơ đồ hoá các quan điểm triết học cực kỳ phức tạp và mâu thuẫn của G.Béccơli,
của I.Cantơ, của Hêghen, v.v. hay các luận điểm của C.Mác như coi “tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân”, “bản chất con người là tổng hoà (hay toàn bộ) các quan
hệ xã hội”! Chính vì sự máy móc đó mà có tài liệu đã khẳng định rằng, nhà duy tâm

chủ quan Béccơli rốt cuộc đã đi đến chủ nghĩa duy ngã! Tiếc thay, sự thật lịch sử lại
nói điều hoàn toàn ngược lại là chính Béccơli vì tránh duy ngã cho nên, dù ngoài ý
muốn, ông phải chuyển sang duy tâm khách quan.
3. Vậy, chúng ta cần phải làm gì?
Thứ nhất, cần xác định cho rõ mục đích dạy môn triết học trong nhà trường đại học,
cao đẳng và chuyên nghiệp. Chúng ta đã từng nói đến việc triết học có nhiệm vụ
trang bị thế giới quan và phương pháp luận cho người học. Điều đó là hoàn toàn
đúng. Tiếc rằng, do chỉ chú trọng đến việc xây dựng lập trường chính trị nên suốt
một thời gian dài đã xảy ra tình trạng đồng nhất triết học với chính trị. Triết học phải
phục vụ chính trị. Đó là điều sơ đẳng ai cũng hiểu. Nhưng cái lớn hơn là triết học
phải làm chỗ dựa, là cơ sở cho chính trị. Chính triết học phục vụ chính trị đắc lực
nhất không phải chỉ ở sự thuyết minh đường lối, mà là ở chỗ cung cấp cơ sở cho
đường lối, ở sự phản biện lại một cách khoa học những quyết định trước khi được
thông qua để thi hành, ở việc xây dựng niềm tin khoa học cho mọi người đối với
đường lối bằng sự thuyết phục khoa học. Do vậy, triết học phải đạt được cả hai điều
là trang bị cho người học cách tư duy đúng đắn, phương pháp nhận thức khoa học
bên cạnh việc cung cấp tri thức. Cả hai thứ này đều không có sẵn trong mỗi con
người. Năng lực tư duy và phương pháp nhận thức cũng như tri thức phải được trang

bị, nuôi dưỡng và phát triển; chúng không phải bất biến mà luôn được bổ sung, do
vậy, nếu giáo điều hoá thì là một sai lầm.
Thứ hai, triết học Mác không tách rời, không biệt lập với triết học nhân loại. Nó là sự
kế thừa hợp pháp những di sản và những giá trị tốt nhất của triết học nhân loại. Nó
cũng không đứng yên mà sẽ được phát triển, nâng cao hơn sau khi đã tiếp thu những
gì phù hợp và hoà vào dòng chảy chung của tư duy nhân loại. Người học sẽ không
thấy được giá trị của triết học Mác nếu không hiểu lịch sử triết học trước Mác, do
vậy, dạy triết học Mác cũng nên đi theo lịch sử các vấn đề từ khởi thuỷ cho đến tận
bây giờ. Điều đó có nghĩa rằng, cần bố trí lại chương trình triết học dưới dạng lịch
sử triết học. Cách làm này được cả thế giới chấp nhận và đó cũng là điều kiện để
chúng ta hội nhập và đối thoại với thế giới. Dĩ nhiên, không cần bàn cãi, trong
chương trình và nội dung đó, chúng ta sẽ dành cho triết học Mác sự ưu tiên nhất

định.
Đành rằng, thay đổi một thói quen, một quan niệm, một truyền thống đã ăn sâu vào
đầu óc con người, một cách làm đã trở thành lối mòn là điều hoàn toàn không dễ
dàng, thậm chí còn gặp sức cản rất lớn. Song, chúng ta sẽ không thu được kết quả
mong muốn nếu không chịu đổi mới tư duy, nếu không chịu thay đổi những thói
quen đến mức trở thành siêu hình, cản trở sự phát triển tư duy của thế hệ trẻ. Thành
công của công cuộc đổi mới đất nước ta đã chứng tỏ điều đó. Tôi coi đây là điểm đột
phá quan trọng nhất và cũng là cơ bản nhất mặc dù chẳng dễ dàng gì.
Thứ ba, về mặt phương pháp.
Khi đã có một chương trình với nội dung thật sự khoa học, có những giáo trình được
viết phù hợp cho các đối tượng khác nhau, có đủ hệ thống câu hỏi gợi ý thông minh,
kích thích sự tìm tòi, khám phá và có đủ tài liệu tham khảo (cả tài liệu gốc và tài liệu
giới thiệu) để giải đáp chúng cũng như giải đáp những câu hỏi mà người học tự vấn
mình thì người dạy sẽ không còn phải lệ thuộc vào giáo trình để trình bày từ A đến Z
nữa. Đây chính là điều kiện thuận lợi để người dạy phát huy khả năng dẫn dắt người
học suy nghĩ về những cái cốt lõi nhất, sâu sắc nhất và tâm đắc nhất, qua đó sẽ có sự
thảo luận, sự đối thoại, sự thuyết trình giữa người học với nhau, giữa người học và

người dạy. Điều này càng quan trọng hơn đối với chuyên ngành triết học nếu chúng
ta mong muốn có lớp người kế tiếp giỏi giang hơn lớp người đi trước.
Trong cuộc sống đương đại, chứ chưa nói đến tương lai, các môn học càng bớt đi sự
áp đặt, giáo điều và siêu hình bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Đặc biệt, môn triết
học phải là nơi giúp cho thế hệ trẻ có được môi trường mà ở đó, sự tự đọc, tự học, tự
suy tư, tự đánh giá sẽ tạo cho họ sự chủ động trong cuộc sống, hình thành ở họ khả
năng thích nghi nhanh, nhất là để tự họ tìm ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và vì
nó mà phấn đấu, mà khổ luyện. Chính điều này cũng sẽ giúp cho người học hình
thành ở họ khả năng tự ý thức, nghĩa là nâng ý thức lên trình độ cao hơn là tự ý thức,
chứ không dừng lại ở ý thức.
Một khi phương pháp giảng dạy đã thay đổi thì phương pháp kiểm tra và thi cử cũng
phải thay đổi cho phù hợp với thời gian đã được dành cho tự học và kích thích sự
sáng tạo nhiều hơn của người học .

Thứ tư, tạo điều kiện để bản thân cả người dạy và người học có thể trực tiếp đọc,
nghiên cứu từ các tác phẩm gốc (dù chỉ một số tác phẩm cốt yếu có liên quan) chứ
không chỉ qua sách giáo khoa, qua giáo trình, nghĩa là không chỉ qua nhãn quan của
người khác. Đã có không ít luận điểm quan trọng của các tác gia kinh điển của triết
học Mác nói riêng, triết học thế giới nói chung, đã bị ngộ nhận, bị cắt xén, bị giải
thích méo mó, sai lệch vì, một thời, nếu nói đúng nguồn gốc, xuất xứ của chúng hoặc
giải thích đúng như nguyên bản thì chúng trái với cái được ngộ nhận là “chính
thống”. Về những điểm này, đã có không ít người biết nhưng suốt một thời gian dài,
không ai dám nói gì. Nếu không có đường lối đổi mới toàn diện của Đảng thì chắc có
nhiều luận điểm chưa được đính chính, chưa được trích dẫn nguyên văn, thậm chí
hiện nay cũng còn những điểm vẫn đang bị giải thích một cách chủ quan.
Như vậy, có thể thấy, rất cần những đánh giá, rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc
và thực chất trên quan điểm đổi mới về những mặt được và chưa được của việc đào
tạo, giảng dạy triết học nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng. Chúng ta đã nói
đến đổi mới tư duy suốt hơn hai mươi năm nay nhưng sự đổi mới tư duy trong lĩnh
vực này thì quá chậm. Vì vậy, cần phải nói rằng, đổi mới việc giảng dạy, đào tạo triết

học đã không còn sớm nữa
(*) Giáo sư, tiến sĩ triết học.





PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRÊN NỀN TẢNG SỰ Đ
ỒNG TIẾN HOÁ GIỮA
CON NGƯỜI VÀ TỰ NHIÊN

NGUY
ỄN
Đ
ÌNH HOÀ(*)

Môi trường tự nhiên là điều kiện sống vô cùng cần thiết và không thể thay thế đối với
con người. Trong điều kiện hiện nay, khi mà vấn đề môi trường sống đã trở thành
một vấn đề toàn cầu, cả hai khuynh hướng hoặc là tuyệt đối hoá yêu cầu bảo vệ môi

×