LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu, sự kiện,
tư liệu mà tơi trình bày, trích dẫn trong luận văn đều hoàn toàn trung thực và ghi rõ nguồn.
Nếu có gian dối tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm!
Tác giả luận văn
Nguyễn Trà My
1
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư
phạm TP. Hồ Chí Minh đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình
học tập và q trình thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Hà Bích Liên, người đã tận
tình giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện tốt cho tơi hồn thành luận văn này. Những phương
pháp nghiên cứu khoa học mà cá nhân tôi học tập được từ cô, sẽ là hành trang không thể
thiếu trong suốt chặng đường nghiên cứu khoa học về sau.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tơi trong học tập và
hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Do cịn nhiều hạn chế về thời gian, nguồn tư liệu… chắc chắn luận văn khơng tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cơ và bè
bạn.
Cuối cùng tơi xin kính chúc q thầy cơ khoa Lịch Sử, các cán bộ của phịng Sau
Đại học, các cán bộ thư viện và các bạn học viên dồi dào sức khỏe.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Tp. Hồ Chí Minh, thứ hai, ngày 30 tháng 9 năm 2013
Nguyễn Trà My
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 5
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ............................................................................................... 5
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 8
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 9
6. Nguồn tư liệu ................................................................................................................... 9
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................................. 10
8. Bố cục của luận văn ...................................................................................................... 10
CHƯƠNG 1: TỪ XÃ HỘI CÔNG DÂN ĐẾN “ĐÊM TRƯỜNG TRUNG CỔ” 11
1.1. Công dân Hy-La cổ đại – một đời sống tự do và sáng tạo ..................................... 11
1.2. Khi người Man tộc là chủ nhân của lịch sử............................................................. 18
1.2.1. Bối cảnh lịch sử ..................................................................................................... 18
1.2.2. Những nét sinh hoạt văn hóa thường ngày của cư dân phương Tây trung đại thế kỉ
V-X .................................................................................................................................. 23
CHƯƠNG 2: SỰ TRỞ LẠI CỦA ĐỜI SỐNG THÀNH THỊ (THẾ KỈ XI - XIII)
..................................................................................................................................... 50
2.1. Bối cảnh lịch sử của phương Tây trung đại thế kỉ XI-XIII ................................... 50
2.2. Đời sống văn hóa của cư dân phương Tây trong các thế kỉ XI - XIII. ................. 51
2.2.1. Đời sống thành thị ................................................................................................. 51
2.2.2. Giáo hội và dân chúng ........................................................................................... 69
2.2.3. Thời đại hiệp sĩ và phong cách hiệp sĩ .................................................................. 76
2.2.4. Ánh sáng từ các trường Đại học đầu tiên .............................................................. 79
CHƯƠNG 3: NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA CỦA
CƯ DÂN PHƯƠNG TÂY CUỐI THỜI TRUNG CỔ (THẾ KỈ XIV-XV) .......... 84
3.1. Tình hình phương Tây trung đại trong những thế kỉ XIV - XV ........................... 84
3.2. Những chuyển biến trong đời sống .......................................................................... 86
3.2.1. Sự phát triển của phố xá và các phường hội, thương hội ...................................... 86
3.2.2. Đời sống hàng ngày ............................................................................................... 90
3.2.3. Cơ đốc giáo khơng cịn là duy nhất ..................................................................... 102
3
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 111
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 117
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với các nhà nghiên cứu ở Việt Nam, từ hàng trăm năm trước, những đề tài
nghiên cứu về các nước phương Tây vẫn ln là một địi hỏi của thực tế lịch sử. Thế giới
“phẳng” ngày hôm nay, Đông – Tây đã trở nên gần gũi hơn nhiều so với thế kỷ trước,
nhưng cũng chính vì vậy, nhu cầu hiểu biết lẫn nhau đòi hỏi ở một mức độ tinh tế hơn, cũng
là lĩnh vực văn hóa, nhưng người ta quan tâm hơn đến cấu trúc sinh hoạt văn hóa hàng ngày,
những thói quen trong cuộc sống liên quan đến ăn, mặc, ở, sản xuất, kiếm tiền, quan hệ
trong cộng đồng… những vấn đề tưởng chừng đơn giản, nhưng xem ra Đông - Tây vẫn cách
xa nhau vằng vặc. Những câu chuyện vẫn thuộc về lịch sử, từ thời kỳ trung cổ xa xăm
nhưng lại là điểm tựa, khởi nguồn cho những nét sinh hoạt của cư dân phương Tây ngày
nay.
Một số vấn đề khoa học cũng sẽ được sáng tỏ hơn khi nghiên cứu cấu trúc sinh hoạt
hàng ngày của Phương Tây trung đại. Bàn về thời Trung cổ, nhiều sử gia vẫn đánh giá đây
là thời kì tăm tối, dốt nát, lạc hậu. Liệu đó có phải là hình ảnh bao trùm của lịch sử Phương
Tây từ thế kỷ V đến khi có Phong trào văn hóa Phục Hưng khơng? Nghiên cứu đề tài này sẽ
góp một phần khơng nhỏ vào việc trả lời câu hỏi đó.
Ngồi ra, việc nghiên cứu đề tài sẽ giúp người viết không chỉ củng cố thêm những
kiến thức đã được học mà còn mở mang thêm nhiều nguồn kiến thức mới về lịch sử sinh
hoạt văn hóa phương Tây thời Trung cổ, cũng như cách thức, phương pháp nghiên cứu
những vấn đề thuộc về lịch sử văn hóa.
Đề tài cũng là một trong những lĩnh vực chưa được nghiên cứu rộng rãi ở Việt
Nam, phần nào các thầy cô giáo dạy trung học và sinh viên sư phạm vẫn lúng túng và ngại
đề cập hay ngại dạy những vấn đề có liên quan đến văn hóa, nên với việc lựa chọn đề tài
này, tác giả mong muốn trên cơ sở tổng hợp tư liệu có liên quan, đóng góp thêm một góc
nhìn mới về bức tranh châu Âu trung cổ.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam các cơng trình nghiên cứu về cuộc sống hàng ngày của các cộng đồng
dân cư trong lịch sử không được chú trọng như các mảng đề tài khác. Việc nghiên cứu về
đời sống của cư dân Phương Tây lại càng hiếm. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn có thể tìm thấy
nội dung này trong những cuốn sách dịch thuật hoặc những sách viết tổng quát về thời Cổ
5
đại, Trung đại; cũng có một số bài viết trên báo tạp chí với nội dung mang tính cục bộ, bàn
về một khía cạnh nào đó mà đề tài này đề cập tới. Liên quan đến văn hóa đời thường của cư
dân phương Tây trung đại, các học giả phương Tây đã có nhiều cơng trình nghiên cứu,
nhưng do nguồn tư liệu cịn hạn chế nên quy mơ và số lượng cũng không bằng các lĩnh vực
khác.
Năm 1962, học giả người Pháp Genevieve D' Haucourt viết tác phẩm “Life in the
Middle Ages” (Đời sống thời Trung cổ). Tác phẩm được Dương Linh dịch ra tiếng Việt xuất
bản bởi nhà xuất bản Thế Giới năm 2002. Đây là tác phẩm có nội dung rất sát với đề tài
trong đó tác giả tập trung nghiên cứu về đời sống vật chất của cư dân phương Tây ở giai
đoạn cuối thời Trung cổ (thế kỉ XIV – XV).
Cũng trong năm 1962, nhà nghiên cứu Lynn White của đại học California, Los
Angeles viết tác phẩm “Medieval Technology and Social Change” (Kỹ thuật Trung cổ và sự
thay đổi trong xã hội) do Clarendon Press xuất bản. Tác phẩm đề cập nhiều đến cấu trúc xã
hội và những thay đổi ở các tầng lớp trong xã hội.
Hoàn thành năm 1969 và được xuất bản đầu tiên vào năm 1982 bởi nhà xuất bản
Harper Collins ở New York quyển sách “Life in a medieval city” (Đời sống trong một thành
phố trung đại) của hai nhà nghiên cứu Joseph và Frances C. Gies đã gây nhiều tiếng vang
lớn. Tác phẩm đã miêu tả về cuộc sống ở thành phố Troyes (nằm ở Đông Bắc Pháp ngày
nay) vào thế kỉ XIII từ nhiều khía cạnh đời sống và các thành phần dân cư từ những người
vợ, đứa trẻ, bác sĩ, học giả… đến công việc kinh doanh lớn nhỏ, bệnh tật và tang lễ… một
cách sinh động và chi tiết. Khơng chỉ dừng lại ở đó trong nhiều năm sau, hai tác giả đã cho
ra đời nhiều tác phẩm giá trị về đời sống trung đại như “Life in a medieval castle” (Đời sống
trong một lâu đài Trung cổ) năm 1974, “Womans in the Middle Ages” (Phụ nữ thời trung
đại) năm 1978, “The knight in History” (Hiệp sĩ trong Lịch sử) năm 1984, “Marriage and
the family in the Middle Ages” (Hơn nhân và gia đình trong thời Trung cổ) năm 1987, “Life
in a medieval village” (Đời sống trong một ngôi làng Trung cổ) năm 1990)…
Năm 1973, Marjorie Rowling viết quyển sách “Life in medieval times” (Cuộc sống
thời Trung cổ) do The berkley Publishing Group – một chi nhánh của Penguin Putnam xuất
bản ở New York. Đây là một quyển sách hay về cuộc sống của cư dân trung đại. Tác phẩm
tập trung phân tích đời sống từng tầng lớp xã hội từ lãnh chúa, nông nô đến tăng lữ, kị sĩ…
và nghiên cứu tập trung chủ yếu ở địa phận tương ứng với nước Pháp ngày nay.
6
Năm 1985, học giả người Nga A.JA Gurevich viết tác phẩm “Categories of
Medieval culture” (Các phạm trù văn hóa Trung cổ) xuất bản đầu tiên ở London. Tác phẩm
được Hoàng Ngọc Hiến dịch ra tiếng Việt năm 1996 được xuất bản bởi nhà xuất bản Giáo
Dục. Tác phẩm đề cập nhiều vấn đề thuộc phạm trù văn hóa Trung cổ: các khái niệm, sự
kiện lịch sử, cấu trúc gia đình, tập trung vào các mảng như thời gian, lịch, vấn đề pháp
quyền, tự do cá nhân thời Trung cổ.
Năm 1996, Andrew Langley cùng nhiều tác giả cho ra đời cuốn sách “Medieval
life” (Đời sống Trung cổ) nằm trong hệ thống sách Eyewitness của nhà xuất bản Dorling
Kindersley tại New York. Đây là một cơng trình có sự đầu tư cơng phu của các tác giả với
một bộ sưu tập những hình ảnh đặc sắc, tiêu biểu về đời sống cư dân trung đại. Nếu chỉ đọc
sách, ta sẽ khó mà hình dung ra được về đời sống thời bấy giờ nhưng nhờ có cơng trình với
nhiều hình ảnh được lấy từ các bảo tàng, nhà thờ, các cơng trình lớn ta sẽ có được cái nhìn
rõ nét, cụ thể hơn.
Năm 1999, ba nhà nghiên cứu John P. McKay, Bennett D. Hill, John Buckler đã
viết nên tác phẩm lớn “A history of western society” (Lịch sử xã hội phương Tây) xuất bản
ở Boston, New York. Đây là tác phẩm đồ sộ với hơn một ngàn trang sách, khái quát khá đầy
đủ về lịch sử phát triển của phương Tây qua các thời kì trong đó thời Trung cổ cũng được
các tác giả chú trọng nghiên cứu.
Năm 2003, những nhà nghiên cứu Laurel Carrington, Rudy J. Martinez, Akira Iriye,
Mattie P. Collins, Peter N. Stearns đã hoàn thành tác phẩm “Hold World History” (Nắm giữ
lịch sử Thế giới) xuất bản bởi Holt, Rinehart and Winston ở Texas. Tác phẩm là sự tổng hợp
đầy đủ nhưng súc tích và sinh động về lịch sử phát triển của con người trên nhiều mặt chính
trị, xã hội, văn hóa.
Năm 2004, quyển sách “Terry Jones’ medieval life” (Đời sống Trung cổ của Terry
Jones) được BBC Books xuất bản tại Anh. Đây là tác phẩm thú vị và lơi cuốn, nó được xuất
bản dựa theo Series truyền hình cùng tên của Oxford Film and Television. Với sự giúp đỡ
của nhiều giáo sư lớn ở Anh, sách được Terry Jones biên soạn với lời văn hóm hỉnh nhưng
đầy ý nghĩa. Tác phẩm tập trung vào các tầng lớp xã hội chính trong thời Trung cổ và có cả
những phần chính viết về đời sống của các trinh nữ, những nghệ sĩ hát rong.
Tháng 7 năm 2011, Shenanchie O'Toole đã xuất bản quyển sách nhỏ “Medieval
Cuisine” (Ẩm thực thời Trung cổ). Tuy không phải là nhà nghiên cứu lịch sử nhưng quyển
sách nhỏ của tác giả cũng đã đem lại một cái nhìn đầy đủ hơn về ẩm thực thời Trung cổ.
7
Gần đây nhất, xuất bản năm 2012 là tác phẩm “Medieval Life: Archaeology and the
Life Course” (Cuộc sống thời Trung cổ: Khảo cổ học và quá trình diễn biến của cuộc sống)
được nhà xuất bản Woodbridge: Boydell and Brewer phát hành. Đây là cơng trình nghiên
cứu của nữ khảo cổ học người Anh - Roberta Gilchrist. Tác phẩm là sự kết hợp giữa những
thu hoạch từ khảo cổ và những nghiên cứu về con người thời trung đại. Các mảng sinh hoạt
tâm linh, tín ngưỡng và tơn giáo, giới tính và đẳng cấp, hơn nhân… được tập trung trình bày
góp phần đem lại những cái nhìn mới về những sinh hoạt thường ngày của con người thời
bấy giờ.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm khái quát được những nét cơ bản nhất trong đời sống
văn hóa hàng ngày của cư dân phương Tây thời Trung cổ, chọn những nét đặc trưng tiêu
biểu nhất của từng thời kì để trình bày. Do đó, khơng phải tất cả các vấn đề phong phú, phức
tạp trong đời sống của mọi tầng lớp cư dân đều được trình bày một cách đầy đủ. Mặt khác,
do tính đa dạng của lĩnh vực nghiên cứu và sự cho phép của tư liệu, nhiều vấn đề khơng đề
cập đến sẽ khơng có nghĩa là nó khơng từng tồn tại.
Ngồi ra, dưới góc độ của người nghiên cứu lịch sử tác giả mong muốn nhìn văn
hóa phương Tây dưới góc độ lịch sử để thấy được sự chi phối của bối cảnh lịch sử đến đời
sống và sự khác nhau của sinh hoạt văn hóa trong từng thời kì.
Một mục đích khác nữa của việc nghiên cứu đề tài chính là việc luận văn cũng
mong muốn góp phần làm rõ sự ảnh hưởng, tác động của các nền văn hóa với nhau qua
những nét sinh hoạt văn hóa của cư dân ở từng thời kì, từng khu vực khác nhau.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những cấu trúc trong sinh hoạt văn hóa hàng ngày của cư
dân phương Tây thời Trung cổ tập trung vào đời sống văn hóa hàng ngày (đời sống vật chất
và đời sống tinh thần), phong tục tập quán,…
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian:
Tập trung ở Tây Âu chủ yếu là Anh, Pháp, Đức, Ý
- Về thời gian:
8
Thời Trung cổ kéo dài khoảng từ thế kỉ V-VI đến XIV-XV. Việc phân định mốc
thời gian còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng tác giả nghiên về khoảng thời gian trên. Về mốc
mở đầu là giai đoạn người Man tộc tràn vào cương giới Rome và lập nên những quốc gia
tươi trẻ của họ thế kỉ V-VI. Mốc kết thúc được lấy vào khoảng thế kỉ XIV-XV vì đây là giai
đoạn thời kì Trung cổ kết thúc với hàng loạt các sự kiện lớn như sự ra đời của hàng loạt
những trường đại học trên khắp Tây Âu với nội dung kiến thức mới, xa rời Thần học, sự suy
giảm lịng tin vào giáo hội Cơng giáo, địi hỏi nó phải thay đổi, mong muốn tìm lại các giá
trị nhân văn của văn minh Hy-La cổ, những tiến bộ khoa học kỹ thuật trên bộ và trên biển
để tìm những con đường mới… Bên cạnh đó các giai đoạn trước và sau khoảng thời gian
trên cũng sẽ được đề cập tới trong những giới hạn nhất định đặc biệt là thời cổ đại để làm rõ
hơn nội dung nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp lịch sử: trình bày lịch sử như nó từng có.
-
Trình bày những nội dung trong sinh hoạt văn hóa của cư dân phương Tây
thời Trung cổ theo một trình tự thời gian và không gian cụ thể.
-
Tiếp cận, sử dụng tư liệu từ việc quan sát, nghiên cứu các di tích lịch sử - văn
hóa có liên quan như thành quách, quảng trường, vết tích nhà cửa…; nguồn tư liệu tổng hợp
qua tranh ảnh, hiện vật… của các bảo tàng lịch sử thế giới như bảo tàng Louvre ở Pháp, bảo
tàng British ở Anh, bảo tàng Metropolitan ở New York,…
+ Phương pháp Logic:
-
Đặt các sự kiện, hiện tượng trong mối liên hệ với nhau và tổng hợp, so sánh,
đối chiếu, phân tích chúng… để tìm ra được ý nghĩa, bản chất của sự kiện lịch sử.
+ Sử dụng kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học có liên quan như văn hóa
học, khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, nhân học, văn học, dân tộc học, địa lý học… để
tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về sinh hoạt văn hóa của cư dân phương Tây.
6. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu gốc của đề tài là những di chỉ khảo cổ học, những di tích lịch sử,
thành quách, quảng trường, dấu tích nhà cửa, các cơng trình kiến trúc, đồ dùng sinh hoạt…
cịn tồn tại đến ngày nay; những trang phục, mơ hình nhà ở của dân cư, mơ hình thành thị…
được phục dựng lại từ các bảo tàng Lịch sử; những kết quả khảo cổ từ việc khai quật ngũ
cốc, cây trồng… của các sử gia sống ở thời kì đó được các sử gia phương Tây tổng kết.
9
Người viết chủ yếu tiếp cận nguồn tư liệu gốc trên qua các tài liệu thống kê của các tác gia
nước ngồi.
Bên cạnh đó, tác giả cũng khai thác các sách, bài báo, tạp chí có liên quan đến đề
tài, các website lớn ở nước ngoài viết về đề tài và một số bộ phim nước ngồi phản ánh các
khía cạnh của đề tài.
7. Đóng góp của luận văn
Góp phần nghiên cứu một mảng trống vắng trong lịch sử văn hóa phương Tây –
một lĩnh vực cịn thiếu sự quan tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong nước.
Thu thập và hệ thống hóa nguồn tài liệu tạo thành tập tin, nguồn tài liệu đáng tin cậy
về đời sống cư dân phương Tây thời kì cổ trung đại. Tác giả hy vọng, đề tài có thể là một tài
liệu tham khảo cho sinh viên Lịch sử và giáo viên dạy Sử trung học khi học và dạy phần
Lịch sử Thế giới, đặc biệt là giai đoạn Cổ trung đại.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục, luận văn có ba
chương nội dung chính:
•
Chương 1: Từ xã hội cơng dân đến “Đêm trường Trung cổ”
•
Chương 2: Sự trở lại của đời sống thành thị (XI - XIII)
•
Chương 3: Những chuyển biến trong sinh hoạt văn hóa của cư dân
phương Tây cuối thời Trung cổ (XIV-XV)
10
CHƯƠNG 1: TỪ XÃ HỘI CÔNG DÂN ĐẾN “ĐÊM TRƯỜNG
TRUNG CỔ”
Chương đầu tiên của luận văn tập trung xem xét những nét tiến bộ trong đời sống
của công dân Hy-La cổ đại và những sinh hoạt bước đầu của cư dân Man tộc khi họ đã làm
chủ lịch sử châu Âu trung đại, để thấy được sự khác biệt giữa đời sống của con người ở hai
thời kì cũng như ngun nhân dẫn đến sự thay đổi đó.
1.1. Cơng dân Hy-La cổ đại – một đời sống tự do và sáng tạo
Hy Lạp và La Mã là hai quốc gia điển hình của văn minh phương Tây cổ đại. Thuật
ngữ phương Tây đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử. Vào thời cổ đại, khi con người cịn chưa
tìm ra những lục địa mới, người Hy Lạp đã gọi khu vực mặt trời lặn so với họ là phương
Tây, các vùng đất còn lại (Châu Á, châu Phi ngày nay) gọi là phương Đơng. Sự phân loại
này mang tính chất tương đối và chỉ là sự quy ước của con người mà thôi. Xét về mặt địa lý,
phương Tây cổ đại bao gồm Nam Âu, Tiền Á, Tiểu Á, bờ cực Bắc vùng Bắc Phi, rìa nước
Anh ngày nay và có cả Tây Âu, một phần đảo Britain và bán đảo Iberia khi đế chế La Mã
mở rộng phạm vi.
Khác với nền văn minh của các quốc gia cổ đại phương Đơng, văn minh phương
Tây cổ đại hình thành và phát triển trên những khu vực tự nhiên không thuận lợi cho việc
phát triển nông nghiệp. Nhưng bù lại, điều kiện khí hậu ơn hịa và địa hình hướng biển với
nhiều cảng, vịnh đã chấm phá nên những nét đặc sắc riêng biệt cho nền văn minh này. Cụ
thể hơn, Hy Lạp cổ đại nằm ở phía Nam bán đảo Balkan, giống như cái đinh ba của thần
biển từ đất liền vươn ra địa Trung Hải. Đất đai Hy Lạp cổ đại bao gồm Hy Lạp ngày nay,
các đảo trong biển Aegean tới phía Tây Tiểu Á, và phía Bắc của Bắc Hải, nhưng vùng quan
trọng nhất là vùng lục địa Hi Lạp ở phía Nam Balkan. Lục địa Hy Lạp gồm 3 phần: miền
Bắc là vùng đồng bằng rộng lớn; miền Trung ngăn cách với phía bắc bởi đèo Thermopil
hiểm trở, nơi đây có 2 đồng bằng lớn là Attique và Beotie trù phú với thành thị Athens nổi
tiếng; miền Nam là bán đảo Peloponesus như hình bàn tay bốn ngón xịe ra Địa Trung Hải –
đây là nơi xuất hiện một trong những thành bang quan trọng của Hy Lạp – Sparta. Mặc dù
có các đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hy Lạp khơng phì nhiêu lắm, chủ yếu
trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ cơng, cịn lương thực chính là lúa mì phần lớn
được nhập từ Ai Cập. Địa hình Hi Lạp tương đối trở ngại về giao thông đường bộ nhưng có
sự thuận lợi tuyệt vời với con đường giao thơng trên biển, bờ biển có nhiều cảng, vịnh,
11
thuận lợi cho tàu bè hoạt động. Từ đây, người Hi Lạp dễ dàng tới vùng Tiểu Á, Bắc Hải để
giao thương.
Nằm gần kề với Hy Lạp là bán đảo Ý nơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại. Đó là
một dải đất dài và hẹp như chiếc hia duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp
5 lần bán đảo Hy Lạp. Phía Bắc có dãy núi Alps như một bức tường thành tự nhiên ngăn
cách bán đảo với lục địa châu Âu; ba phía Đơng, Tây, Nam đều có biển bao bọc. Dãy núi
Apennines như một chiếc xương sống chạy dọc bán đảo từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Khác với Hy Lạp, điều kiện tự nhiên của La Mã tương đối thuận lợi hơn. Nơi đây có một số
đồng bằng rộng lớn, màu mỡ và phì nhiêu: đồng bằng sơng Po (miền Bắc), đồng bằng sông
Tiber (miền Trung), các đồng bằng trên đảo Sicily. Ở miền Nam cịn có nhiều đồng cỏ rộng
lớn thuận tiện cho việc phát triển nghề nông và chăn nuôi gia súc. Chính vì vậy, ở La Mã
thời kì này đã có các Latifundia rộng lớn mà cuộc sống của những người dân ở đó có những
điểm khác biệt với dân thành bang Hy Lạp và lãnh địa trung đại sau này. Ở phía Tây và
Nam, bờ biển có nhiều cảng, tàu bè ra vào dễ dàng, thuận lợi cho giao thông và buôn bán.
Vào thời đế chế phạm vi của La Mã mở rộng không ngừng với cương giới là cả thế giới Địa
Trung Hải cổ đại.
Con người Hy Lạp và La Mã ngay từ sớm đã chinh phục biển để tìm nguồn lương
thực ni sống họ bằng cách trao đổi những sản phẩm như rượu nho, dầu oliu để lấy lúa mì
ở những vùng lân cận như Ai Cập, Tiểu Á. Những con đường giao thương trên biển, hải
cảng, tàu bè… không chỉ thúc đẩy sự phát triển trong mỗi quốc gia mà cịn thúc đẩy sự giao
lưu, bn bán giữa các nước, tạo điều kiện cho cư dân Hy-La tiếp xúc và đón nhận những
nền văn hóa mới.
Yếu tố mở về tư duy, ngôn ngữ, tộc người đã tạo nên những xã hội công dân ở HyLa, lập nên những nền dân chủ, cộng hòa đầu tiên trên thế giới. Cư dân Hy-La cổ đại đã có
quyền cơng dân của mình một cách tương đối (nơ lệ, phụ nữ, trẻ em khơng được tính). Việc
bầu cử chọn lựa người lãnh đạo và các quyết định quan trọng đưa ra không của riêng rẽ một
cá nhân nào mà phải thuộc số đông.
Từ những xã hội công dân phát triển, cơng dân Hy-La cổ đại đã xây dựng cho mình
một nền văn minh tiên tiến với đời sống vật chất và tinh thần phát triển mà thế giới phải
nghiên mình.
Trong đời sống vật chất, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ về điều kiện
sống của công dân Hy-La cổ đại. Những túp lều thuở ban sơ dần được thay thế bằng những
12
ngơi nhà khang trang, nhiều phịng với nhiều chức năng hơn. Những cơng trình kiến trúc đồ
sộ nhưng uyển chuyển và tinh tế mọc lên không ngừng với những hàng cột chạy dài, thay
cho tường, đem đến một không gian mở, rộng rãi và thống mát. Điêu khắc Hy-La vơ cùng
tỉ mỉ và sống động đến từng chi tiết. Nghệ thuật Hy-La mà đặc biệt là nghệ thuật Hy Lạp là
bậc thầy của nhiều nền nghệ thuật trên thế giới. Những con đường trong các phố La Mã đã
được lát gạch, sạch sẽ và thuận tiện. Trong thời đại vàng Periclet ở Hy Lạp, công dân đã
được hưởng phúc lợi xã hội và các quan chức đã được trả lương. Rome với thời kì cực thịnh
– Pax Romana đã nổi tiếng với câu nói “mọi con đường đều đổ về La Mã”.
Dáng vẻ bề ngoài của cư dân cũng được quan tâm từ sớm. Trang phục của nam và
nữ công dân khá đa dạng về kiểu dáng. Vải lanh mịn được trang trí kết hợp với những chiếc
ghim cài đã tạo nên những bộ trang phục mềm mại và thướt tha của nữ giới. Những bức
tượng điêu khắc hay tranh vẽ còn tồn tại đến ngày nay đã cho thấy điều đó. Làm đẹp cũng
được các q cơ, q bà xem trọng. Những trang sức như vòng tay, nhẫn, vòng cổ bằng
vàng bạc, đá quý được sử dụng nhiều. Nguồn tài nguyên kim loại đã góp phần làm phong
phú hơn các phụ kiện đi kèm này. Cư dân cũng đã đi giày bằng cách buộc dây da thành
những đôi xăng đan hay giày ống bằng lông thú tuy không thể giống thời đại ngày nay
nhưng cũng cho thấy sự tiến bộ trong đời sống con người.
Ăn uống tuy còn đơn giản với đại bộ phận công dân nhưng với giới quý tộc nó như
một nghệ thuật. Nhiều sách vở viết về bữa ăn của những cơng dân giàu có ở Hy-La. Nhà sử
học người Pháp Pierre Grimal miêu tả về bữa Cena của người La Mã:
“Bữa cena thường bao gồm ba lượt thức ăn. Dù thế nào đi nữa, lượt thức ăn
dọn đầu tiên, các món “nhập bữa” chỉ hầu như mới xuất hiện vào thế kỷ cuối cùng
của nền Cộng hịa. Nó bao gồm trứng, cá nguội, rau sống, các món ăn ngon khác,
nhìn chung là mặn và người ta uống rượu nhẹ mật ong khi ăn thức ăn đó. Sau đó là
tới các món chính: món thịt, nhưng thường người ta thích thịt thú rừng hay gia cầm
hơn. Món ngon tuyệt hảo là món cá bể, được người ta đưa tới từ rất xa. Nhưng dần
dần, các chủ sở hữu giàu có bắt đầu cho đặt ngay trên lãnh địa của mình và đặc biệt
ở vùng bờ biển, trong các biệt thự ở Campanie, các bể chứa lớn (piscine), đây là nơi
họ bảo quản cá, vừa dùng cho các nhu cầu ăn uống của mình, vừa để kinh doanh.
Cũng theo cách đó, và ngay đầu thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, người ta thấy
xuất hiện các vườn thú săn gần như khắp xung quanh thành La Mã. Ở đây, lợn lòi,
hươu đực tự do sinh sống gần tới mức có thể chạm được vào, lại cịn có cả thỏ rừng,
13
thậm chí cả sóc và chuột sóc, thịt của loại động vật này rất được ưa chuộng. Varron
(116-27 TCN), người đã mô tả khu vườn kiểu này cho chúng ta biết có khu chuồng
chim đặt ở trên con nước, để ni ngỗng và vịt vẫn cịn nửa hoang dã, thậm chí cả
diệt và cị nữa. Các chuồng chim này cịn nuôi cả các loại gà tây, công và chim trĩ,
mới đưa về và nhập từ phương Đơng. Tóm lại, hầu như nhà nào ở nơng thơn cũng
có chuồng chim câu và sân nuôi gà vịt.
Loại thức ăn thứ ba được phục vụ trong bữa cena là món tráng miệng. Lúc
này, người ta dọn ra hoa quả và bánh ngọt. Ở Italy, bao giờ cũng có rất nhiều hoa
quả. Một số hoa quả bản xứ như táo, lê, mận, vả, hạnh nhân và hạt dẻ. Một số khác
được nhập từ phương Đơng: các quả anh đào có được là nhờ ở Lucullus, một người
sành ăn nổi tiếng, ông đồng thời cũng là nhà chinh phạt vĩ đại và là người chiến
thắng vua Mithridate. Chính trong chiến dịch này, ơng đã biết tới cây anh đào và khi
trở về, ông đã dâm một vài cành anh đào trong vườn nhà mình, ở đây cây phát triển
tươi tốt. Cũng theo cách đó, đào có nguồn gốc từ Ba Tư, nhưng chúng ta khơng
được biết loại quả này đã lan rộng ở Italy như thế nào. Đào đã được người La Mã
biết tới và ưa chuộng. Lựu và chà là chỉ bắt đầu xuất hiện vào buổi ban đầu của Đế
chế, khi mà toàn bộ thế giới Địa Trung Hải lọt vào trong quỹ đạo thương mại của
La Mã. Chanh và cam cũng xuất hiện như vậy, lần đầu tiên người ta nhìn thấy hình
ảnh của chúng trên bức tranh tường cùng thời với hồng đế Auguste. Có một thời
Italy khơng phải là đất tốt cho cây cam. Nhưng bao giờ đây cũng là mảnh đất tốt
cho cây nho. Một nhà sử học cổ đại đã cho nhân vật của mình mượn lời nhận xét
rằng đất đai do người La Mã chiếm khắp mọi nơi đều có vườn cây ăn quả và vườn
nho.” [10; Tr. 39-41]
Như vậy, có thể thấy ăn uống đã có nhiều lúc không phải chỉ là nhu cầu để sống mà
còn là cả một nghệ thuật được chú trọng.
Nổi bật trong sinh hoạt văn hóa của cư dân Hy-La chính là sự cởi mở trong vấn đề
quan hệ tình dục thậm chí là cả tính dục. Tình dục xuất hiện đậm nét trong văn hóa Hy Lạp.
Trong thần thoại Hy Lạp hay trường ca của Homer và Plutarch, có các câu chuyện kể về nữ
thần Tình yêu Aphrodite, người được sinh ra từ bọt biển do bộ phận sinh dục của cha nàng
bị chém rơi xuống biển. Những người anh hùng vĩ đại như Hercules, từng ngủ với 50 trinh
nữ chỉ trong một đêm, hay mối tình vụng trộm của chàng với cháu trai của mình là Iolaus…
Các thuật ngữ tình dục cổ về tình dục như Aphrodisiac (kích thích tình dục – bắt nguồn từ
14
Aphrodite ‘Thần vệ nữ’); Eroticism (tư tưởng dâm dục – gốc từ Eros “Thần ái tình”);
Homosexuality (tính dục đồng giới – gốc Hy Lạp “Homos” có nghĩa là giống nhau);
Narcissism (tự sùng ái bản thân – gốc là Narcissus); Nymphomania (chứng cuồng dâm ở
đàn bà - gốc Nymph); Pederasty (tình dục đồng giới nam – gốc paiderastia)… đều bắt
nguồn từ thần thoại Hy Lạp. Từ đầu thế kỷ thứ 16 đến đầu thế kỷ thứ 14 TCN, tính dục
đồng giới nam phát triển cực thịnh ở Athens [77]. Những người đàn ơng trưởng thành tìm
kiếm các thiếu niên trẻ tuổi làm người tình. Mặc dù vậy, việc họ có quan hệ xác thịt thực sự
hay không vẫn là vấn đề được bàn cãi. Phụ nữ trong Hy Lạp cổ đại được coi là vật sở hữu
của đàn ông và không được coi trọng trong quan hệ đôi lứa. Trong khi đó, gái điếm lại rất
phổ biến và được coi trọng như một nét văn hóa q phái cho đàn ơng. Gái điếm hạng sang
có thể có rất nhiều quyền lực và tiền bạc.
Những người vợ bị bỏ rơi có con đường riêng của họ để thỏa mãn những ham muốn
của mình. Đồng tính nữ xuất hiện từ đó, yếu tố tính dục này gắn kết mạnh mẽ (ta có thể thấy
trong các câu chuyện huyền thoại về hòn đảo Lesbos “nơi mà nàng Sappho cuồng nhiệt đã
hát và yêu”). Cũng có nhiều câu chuyện trong văn học thời kỳ này nói tới việc sử dụng
dương vật giả. Thời Hy Lạp cổ đại, dương vật giả được độn bởi da thuộc và được xức dầu
olive trước khi sử dụng [77]. Ở Rome, ngay từ sớm mại dâm đã được cho phép và truyền
thống tính dục đồng giới nam có từ thời Hy Lạp được xem là bình thường.
Cùng với đời sống vật chất, đời sống tinh thần của công dân Hy-La cũng rất phong
phú. Nền giáo dục ở Hy Lạp rất phát triển điển hình là ở Athens. Những cơng dân của thành
bang nổi tiếng này để lại nhiều thành tựu lớn về giáo dục. Cư dân xem trọng giáo dục và tạo
điều kiện cho con cái được đến trường. Họ cịn quan niệm rằng để phát triển tâm hồn, trí
tuệ, con người phải có một cơ thể khỏe mạnh. Ngữ pháp và âm nhạc giúp phát triển trí tuệ,
khả năng suy nghĩ, cảm xúc của học sinh và thể dục giúp phát triển cơ thể. Điều này vẫn cịn
chính xác đến tận ngày nay. Vào năm 400 TCN, những trường học đã được các giáo sư triết
học (Sophists) lập ra cho những thanh niên. Từ Sophist xuất phát từ Hy Lạp Sophos có
nghĩa là thơng thái “Wise”. Tại những ngơi trường này học sinh được học về nhà nước,
chính phủ, toán, đạo đức và hùng biện. Đạo đức xoay quanh cái tốt, xấu, trách nhiệm, bổn
phận của mỗi người. Hùng biện là học về diễn thuyết, nói chuyện trước đám đông và tranh
luận. Nền giáo dục phát triển đã đưa ngôn ngữ và văn minh Hy Lạp đi khắp thế giới Địa
Trung Hải. Tiếng Hy Lạp trở thành ngôn ngữ thứ hai được giáo dục ở khắp nơi vào thời bấy
giờ.
15
Một nét nổi bật trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của cư dân Hy-La chính là việc họ
đã sáng tạo và tin theo hệ thống thần linh và thần thoại của họ. Các vị thần được tôn thờ trên
khắp Hy Lạp và La Mã với tên gọi khác nhau. Ở Hy Lạp mỗi thành bang đều có vị thần
riêng của mình. Thần bảo trợ thành bang Athens là nữ thần Athena. Thần thoại Hy-La
khơng chỉ nêu rõ tín ngưỡng thờ cúng của cơng dân Hy-La mà cịn cả thế giới quan của họ.
Mặc dù là các thần linh, nhưng những vị thần Hy-La đều có những khuyết điểm như con
người, gần gũi với con người. Thần Zeus của Hy Lạp, dù là vị thần tối cao, nhưng vẫn
thường lén lút ngoại tình với các cơ gái trẻ đẹp. Thần biến thành một con thiên nga để tán
tỉnh nàng Leda xinh đẹp và nhiều lần biến thành hạt mưa, giả trang thành người thường để
được thỏa mãn nhu cầu tình yêu, tránh khỏi cặp mắt của bà vợ hay ghen Hera. Những câu
chuyện về những cuộc tình vụng trộm của vị thần quyền lực này đã trở thành đề tài cho rất
nhiều tác phẩm nghệ thuật sau này. Nữ thần tình yêu Aphrodite, nàng thơ của rất nhiều họa
sĩ, nhà văn… cũng khơng lấy gì làm chung thủy. Tuy đã có chồng là thần thợ rèn
Hephaixtot, nàng vẫn lăng nhăng với thần chiến tranh Mars, tạo nên một trường sóng gió
cho đỉnh Olympia… Nhìn chung, các vị thần hiện ra mang trên mình những nét đẹp nhất
của con người và cũng đối mặt với những vấn đề tương tự như con người. Thần linh tuy thật
oai nghiêm với phép màu nhưng cũng rất gần gũi, phản ánh cuộc sống, tâm tư, tình cảm của
con người thời kì này.
Bước sang những thế kỉ đầu công nguyên, cư dân Hy-La đã tiếp nhận Cơ đốc giáo
hay Ki-tô giáo - một tôn giáo do Jesus sáng lập nên ở Palestine. Vào năm 200 sau thời kỳ
của Ngũ vị hoàng đế, bạo lực và tình trạng khơng ổn định lại một lần nữa lay chuyển đế chế
Rome, nhiều người Rome đã tìm đến Cơ đốc giáo với sự hy vọng. Đến những năm 300,
những nhà thờ Cơ đốc đã trở nên quá lớn đến nỗi chính quyền khơng thể trừng phạt hết tất
cả thành viên của nó.Thất bại trong việc dập tắt tơn giáo này, luật pháp Rome đã phải chấp
nhận Cơ đốc giáo và xem nó là một tơn giáo chính thống.
Ngồi ra, sống trong một xã hội công dân, nơi con người có quyền có tiếng nói
riêng, cơng dân Hy-La đã tạo ra rất nhiều thành tựu trong đời sống tinh thần của họ. Cư dân
Hy Lạp cổ đại được xem là chủ nhân kịch nghệ, là những người đầu tiên viết nên những vở
kịch. Ban đầu là những chuỗi hành động hay đối thoại kết hợp với sự xung đột và xúc động.
Những nhà hát của họ thường được xây trên các sườn đồi. Tại phần dưới cùng của ngọn đồi
họ tạo ra một khu vực bằng phẳng gọi là “Orchestra”. Đây chính là vịng bán nguyệt trước
sân khấu dành cho ban đồng ca và những diễn viên biểu diễn. Không giống những vở kịch
16
ngày nay, kịch nghệ thời bấy giờ sử dụng rất ít đồ dùng trang trí sân khấu, thay vào đó, khán
giả sẽ dựa vào những lời miêu tả của ban đồng ca. Điều này làm cho người ta tập trung thả
mình vào vở kịch hơn.
Hài kịch và bi kịch cũng xuất hiện từ sớm ở Hy Lạp cổ đại. Hài kịch mang tính chất
vui nhộn, gây cười và nhân vật trong nó có thể giải quyết những vấn đề của họ. Những vở
kịch hài thường được diễn trong các lễ hội nhất là lễ hội dành cho thần rượu Dionysia. Tác
gia nổi tiếng được người Hy Lạp tôn sùng của thể loại này là Aristoplanes. Ơng có ngịi bút
khơi hài nhưng sắc bén và dùng hài kịch để làm cho người Athens phải suy nghĩ về hậu quả
của chiến tranh. Trái ngược với hài kịch, bi kịch diễn tả nỗi đau, những khó khăn của con
người khi đối mặt với số mệnh hay tội lỗi của con người đặc biệt là các anh hùng. Ba tác giả
lớn của thể loại này trong những năm 400 TCN là Aeschylus, Sophocles, Euripides.
Một loại hình giải trí khác chính là cuộc thi nổi tiếng Olympic của Hy Lạp mà đến
tận ngày nay vẫn cịn được tổ chức với quy mơ lớn trên thế giới. Xuất phát từ quan niệm
rằng đem lại niềm vui cho các vị thần là một phần quan trọng trong đời sống và thể hiện sức
mạnh, lòng dũng cảm là một trong những cách tốt nhất để làm hài lòng các vị thần, cư dân
Hy Lạp đã nghĩ ra nhiều cuộc thi để thể hiện sức mạnh và sự dũng cảm của mình trong đó
quan trọng nhất là kì thi Olympic, tổ chức 4 năm một lần để tôn thờ thần Zeus. Đại hội thể
thao này được tổ chức đầu tiên vào năm 776 B.C, bao gồm các môn như chạy bộ, phóng lao,
ném đĩa, đấu vật, đấu võ và chỉ có đàn ơng được tham gia và theo dõi cuộc thi. Kết thúc
cuộc thi những người chiến thắng sẽ được nhận một vòng nhánh cây oliu, một nhành cọ và
những dải ruy băng bằng len và khơng có giải cho người về nhì hoặc ba.
Nhìn chung, với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nền kinh tế hàng hóa, công thương
nghiệp, cư dân phương Tây cổ đại đã tạo cho mình một nền văn hóa mở trong những xã hội
cơng dân có nhiều yếu tố tiến bộ về quyền con người. Với sự độc lập trong suy nghĩ và có
tiếng nói nhất định trong xã hội của mình, con người nơi đây đã không ngừng sáng tạo nên
những giá trị văn hóa đặc sắc. Trên cái nền đó, xã hội công dân ở Hy Lạp và La Mã đã tạo
dựng cho phần lớn công dân của họ một đời sống phong lưu về vật chất và phong phú về
tinh thần. Đương nhiên, xã hội công dân Hy-La chỉ rộng mở với công dân tự do, quyền công
dân, quyền sáng tạo, cách mà người Hy-La thưởng thức cuộc sống đầy lãng mạn không
dành cho tầng lớp nô lệ. Khủng hoảng xã hội bắt đầu từ những Latifundia của đế chế La
Mã, từ những người chiếm số đông trong xã hội là nơ lệ, khơng có đời sống của con người
và họ đã khơng chấp nhận thân phận của mình. Trước những cuộc xâm lăng của người Man
17
tộc, La Mã rệu rã đã không chống đỡ nổi. Sự sụp đổ của đế chế Tây Rome đã đánh dấu sự
kết thúc của phương Tây cổ đại, bước sang thời trung đại địa bàn trung tâm của phương
Tây đã dịch chuyển, chủ nhân của lịch sử đã thay đổi, liệu những thành quả mà văn minh
Hy-La đạt được có còn phát huy, cuộc sống của cư dân phương Tây liệu có văn minh, sáng
sủa hơn, nếp sinh hoạt văn hóa thời kì này có gì thay đổi khơng… Phần tiếp theo sẽ đề cập
đến những điều đó.
1.2. Khi người Man tộc là chủ nhân của lịch sử
1.2.1. Bối cảnh lịch sử
Người Man tộc (Barbarians, Barbaros) là những bộ tộc lớn sinh sống bên ngoài đế
chế Rome, chủ yếu ở địa bàn tương ứng với phần lớn châu Âu ngày nay (trừ Nam Âu), từ
sông Rihne đến tận sông Vistula, từ sông Danube đến biển Baltic. Khi công dân Hy-La cổ
đại xây dựng được cho mình một nền văn minh phát triển ở thế giới Địa Trung Hải thì các
nhánh Man tộc vẫn sống trong tình trạng cơng xã ngun thủy. Trên toàn châu Âu cổ đại
(trừ Nam Âu) chỉ là những vùng đất hoang sơ, rừng rậm thiếu vắng thành phố, nhà cửa và
cái gọi là văn minh.
Đến giữa thế kỉ IV, sự thiên di ồ ạt của người Hung nơ xuống phía Đơng của Nam
Âu đã làm cho các bộ lạc của người Man tộc hoảng sợ. Họ vội vàng kéo nhau vào sâu trong
lãnh thổ Rome để lánh nạn và dần xâm chiếm đất đai của người La Mã. Sự khủng hoảng
mọi mặt từ bên trong nền đế chế đã đưa đến một kết cục là người Rome đã bị chính những
người Man tộc kém văn minh hơn đánh bại họ. Lịch sử đã gọi sự kiện lớn này là “cuộc thiên
di của những người Man tộc” hay “cuộc di chuyển lớn của các dân tộc”. Người Man tộc với
những cuộc thiên di ngang dọc của mình đã chia nhỏ đế quốc Rome thành nhiều mảnh vụn
mà từ đó, nhiều vương quốc của họ đã ra đời vào các thế kỷ V-VI, chính thức xác lập sự ra
đời của Châu Âu. Những người man tộc cổ sơ với trình độ cơng xã thị tộc thấp kém, tiếp
xúc và chinh phục một nền văn minh quá cao so với đời sống thị tộc du mục và bấp bênh
của họ nên nhiều giá trị của văn minh Hy-La chói lọi đã khơng được họ kế thừa. Vì lẽ đó,
sau này, vào thời kỳ Phục Hưng, các nhà văn hóa đã nhìn nhận thời kỳ tung hồnh và xác
lập quyền lực của người Man tộc ở Châu Âu là “Đêm trường trung cổ - Dark Age”.
Với các cuộc thiên di, thành phần tộc người của cư dân phương Tây trung đại trở
nên đa dạng hơn rất nhiều lần so với thời cổ đại. Nó khơng chỉ thuần nhất là những nhánh
Man tộc khác nhau ở những địa bàn riêng rẽ mà trải qua hàng trăm năm các tộc người đã
18
hịa trộn vào nhau và chính họ đã tạo dựng nên các dân tộc châu Âu ngày nay. Một châu Âu
mà ta biết đến như ngày nay bắt đầu từ sự sụp đổ của đế chế La Mã và sự thiên di của những
người Man tộc. Có thể kể đến một số những tộc người tiêu biểu sau:
Đầu tiên là nhánh những Goths gồm Visigoths và Ostrogoths gắn với vùng hạ lưu
sơng Đanube và biển Đen. Đây là nhánh phía đơng của nhóm Man tộc. Người Visigoths bị
người Huns đồn đuổi vào phần phía Đơng của đế chế La Mã. Sau khi đánh bại hoàng đế
Valens ở Adrianople vào năm 378, họ đã chiếm được một vùng đất bên trong biên giới của
đế quốc. Họ đã định cư ở đó nhưng sau vài thập kỷ, họ lại đi tìm những vùng đất giàu có
hơn, và với triều đại vua Alaric họ đã tấn công bán đảo Italia. Tây La Mã lúc bấy giờ do
hoàng đế Honorios cai trị. Vị vua này khơng có tài nên việc cai trị phần lớn giao cho
Stilicho, một người German, đảm trách. Ông này đã thành công trong việc bảo vệ đất nước
chống lại sự xâm lăng của người Visigoth. Năm 408 do những âm mưu chia rẽ trong triều
đình, Stilicho bị sát hại. Cái chết của ơng và những bất hịa trong nội bộ triều đình sau đó đã
là cơ hội cho những người Visigoth thực hiện ý đồ xâm lăng lần nữa. Họ đã chinh phục
Italy, chiếm La Mã vào năm 410 và đã có thể thành lập vương quốc Man tộc đầu tiên ở
nước này nếu như vua Alaric không băng hà. Bị mất người lãnh đạo, những người Visigoths
đành phải rút về phía Nam xứ Gaul theo như những điều khoản mà họ đã ký kết với với đế
quốc Tây La Mã. Ở đó họ đã thiết lập một vương quốc của chính họ và mở rộng xuống cả
bán đảo Iberia đẩy người Suevi về phía Tây Bắc bán đảo này. Như vậy, người Visigoths đã
trở thành một phần tộc người của dân tộc Pháp, Tây Ban Nha ngày nay. Còn người Suevi sẽ
tham gia vào các tộc chủ thể của người Bồ Đào Nha.
Những người Ostrogoths thiên di muộn hơn. Nửa cuối thế kỉ V để tránh nạn đói đe
dọa họ đã di cư sang Italy. Năm 493 họ tấn cơng Raven, kinh đơ của các hồng đế cuối cùng
của Tây Rome và chinh phục được bán đảo Italy. Dù không đi xa như người Visigoths
nhưng chắc rằng những người Ostrogoths cũng trở thành một phần dân cư của Italy ngày
nay.
Nhánh man tộc thứ hai nằm ở thượng lưu sông Danube gồm có những người
Vandals, Lombards, Burgundies. Trong nhóm này những người Vandals di chuyển sớm
nhất và họ cũng là tộc người di chuyển dài nhất. Đầu tiên họ tràn qua xứ Gaul. Do bị người
Visigoths dồn đuổi họ phải xuống bán đảo Iberich. Sau đó, khi vương quốc Visigoths mở
rộng những người Vandals phải vượt eo Gibranta đến và định cư ở Bắc Phi vào năm 439.
Từ Bắc Phi họ đã đi thuyền lên vùng Địa Trung Hải, cướp phá Sicile và Rome năm 455.
19
Như vậy thành phần dân tộc ở một số nước châu Âu ngày nay khơng thể khơng có sự pha
trộn với người Vandals.
Những người Burgundies thì di chuyển xuống vùng Đông nam xứ Gaul (Pháp sau
này) vào khoảng những năm 30 của thế kỉ V. Năm 457 họ thành lập vương quốc Burgundi,
đóng đơ ở Lyon. Quốc gia của họ tồn tại không đầy một thế kỉ do bị vương quốc Frank thơn
tính. Dù vậy, cho đến tận ngày nay vùng Lyon của Pháp vẫn nói tiếng Burgundi.
Trong lúc đó, vào năm 568, người Lombards từ vùng trung và thượng lưu sơng
Danube đã thiên di xuống phía nam và chinh phục được miền Bắc và một phần miền Trung
Italy, dựng nên quốc gia của mình tại đây, đóng đơ ở Bavie. Lúc này, ở miền trung bán đảo
Ý vẫn có mặt của khu giáo hoàng. Đến thế kỉ VIII, vua Lombards có mưu đồ quản lí cả lãnh
địa của giáo hoàng nên giáo hoàng đã dựa vào thế lực của vương quốc Frank, vương quốc
của người Lombards đã bị đánh bại. Và như thế, cư dân trên vùng đất chiếc ủng ngày nay lại
có thêm một nguồn xuất phát – những người Lombards.
Nhánh lớn thứ ba của người Man tộc là nhánh nằm gần vùng biển Bắc gồm có
người Angles, Saxons và người Jutes. Người Angles và Saxons từ những bờ biển phía Bắc
di cư xuống vùng Flanders và sang đảo Britain vào giữa thế kỉ thứ V. Tại đảo Britain họ đã
đồn đuổi những cư dân Britains bản địa (Celts) lùi sâu về phía Tây của đảo (Scotland, xứ
Wales ngày nay) cũng như buộc họ phải tràn qua đảo Ireland. Các tộc người mới đến đã
nhanh chóng thiết lập các vương quốc của mình ở nửa phía Đơng cịn lại của đảo Britain.
Đến thế kỉ VII người Angles định cư chủ yếu ở phía Đơng Bắc, người Saxons ở phía Đơng
Nam cịn người Jutes chỉ ở một phần rất nhỏ len lỏi với người Saxons. Như vậy, những tộc
người này đã trở thành tộc chủ thể trong thành phần của người Anh ngày nay còn vùng
Scotland, Ireland và xứ Wales tộc chủ thể chính là người Celts.
Ngồi ra cũng cần phải nhắc đến người Franks, bộ tộc đã đặt tên cho nước Pháp
ngày nay. Từ thế kỉ III họ vượt sông Rhine tràn vào xứ Gaul. Đến thế kỉ thứ V, người
Franks do thủ lĩnh Clovis cầm đầu đã chinh phục miền bắc xứ Gaul, sau khi đánh bại một
đạo quân La Mã ở Soissons vào năm 486. Sau đó, Clovis, một vị vua bạo ngược nhưng có
tài chỉ huy, đã tiếp tục mở rộng sự cai trị của ông ra trên toàn lãnh thổ. Các vị vua sau đó
của vương quốc Frank cũng đã khơng ngừng gây ra những cuộc chiến tranh để mở rộng bờ
cõi. Đặc biệt là đến triều vua Charlesmagne, sau nhiều cuộc chinh chiến đẫm máu kéo dài,
lãnh thổ của vương quốc Frank được mở rộng tương đương đế chế Tây La Mã trước đây, từ
phía tây Đại tây dương đến phía đơng ở vùng sơng Elbe, Danube, từ Nam Ý ở phía nam đến
20
Bắc hải và biển Baltic phía bắc. Nhưng sau khi Charlesmagne băng hà, trong nội bộ triều
đình xảy ra những tranh chấp quyền lực. Đến thời cháu của vua Charlesmagne, đế quốc này
bị phân chia làm ba phần theo hiệp ước Verdun (843): (1) vùng trung du và bắc France kéo
dài về phía đơng đến sơng Meuse, (2) vùng trung và nam Germany từ phía đơng sơng Rhine
và (3) là vùng trung gian chạy dài về phía bắc đến Netherlands và phía nam đến Italy. Hiệp
ước Verdun đã dẫn đến sự ra đời của nhiều nước trong đó có ba nước lớn cuả châu Âu ngày
nay: Pháp, Đức, Italy.
Trong các thế kỉ IX và X, cư dân châu Âu đón nhận thêm những tộc người mới –
người Muslim, Slav, Magyar, Viking. Người Muslim Hồi giáo từ châu Phi tấn công khắp rìa
Địa Trung Hải. Người Slav từ phía Đơng tăng cường thâm nhập vào trung tâm châu Âu.
Người Magyar định cư ở Hungary ngày nay cũng đến và cướp bóc châu Âu trong hơn 50
năm trước khi bị đánh bại. Người Viking sống ở bán đảo Scandinavi ngày nay và từ thế kỉ
IX họ liên tục xâm lấn xuống châu Âu. Tại đảo Anh, người Viking định cư chủ yếu ở miền
Bắc và Đông xứ Anh, Bắc Scotland, đảo nhỏ Man và Ireland. Ở Ireland họ tàn phá nhiều tu
viện và lập ra các đô thị đầu tiên. Tại Pháp, người Viking định cư ở vùng đất Normandy do
vua Pháp ban cho vào năm 911 để họ khỏi cướp bóc. Người Viking cũng định cư ở Iceland,
một số tới tận Greenland và Bắc Mỹ. Một số khác tiến vào vùng Địa Trung Hải, tấn công
Tây Ban Nha, miền Nam nước Pháp, Italy và Byzantine và làm cả lính đánh thuê cho người
Byzantine. Người Viking Thụy Điển chiếm cứ vùng biển Baltic, xây dựng các đô thị buôn
bán như Visby, Kiev và Novgorod. Đi thuyền xuôi theo các con sông ở Nga, họ gặp các
thương gia Bulgari, Khazar, Byzantine và Arập. Đến năm 1000, người Viking bắt đầu định
cư và quê hương Bắc Âu của họ đã trở thành những nước theo đạo Ki-tơ. Họ đã có ảnh
hưởng lớn đến tương lai của Bắc Âu thông qua việc thành lập các tuyến đường buôn bán và
các đô thị, tạo lập nước Nga, có ảnh hưởng tới Pháp, Hà Lan, Ba Lan, Anh và Ireland, làm
suy yếu đế quốc Carolingian. Hậu duệ của họ là người Normandy, có thế lực rất mạnh ở
châu Âu.
Cũng chính từ các cuộc thiên di và định cư của những người Man tộc, địa bàn trung
tâm của phương Tây trung đại đã dịch chuyển so với thời cổ đại. Nếu như thời kì cổ đại sự
phát triển lịch sử chủ yếu của phương Tây tập trung ở Balkan và Italy. Ở khu vực Balkan
tức là thuộc các nước như Hy Lạp, Macedonia, một phần rất nhỏ của Bulgaria ngày nay hay
là rìa biên giới Rumani ngày nay. Ở Italy là trọn vẹn bán đảo Ý. Bước sang thời kì đế chế
đến khi Tây Rome diệt vong khu vực phát triển của châu Âu đã thuộc về bán đảo Balkan,
21
bán đảo Italy, phần lớn lãnh thổ Frank ngày nay, một phần nhỏ của biên giới phía Nam cộng
hịa Liên Bang Đức ngày nay (chủ yếu ở bang Bavaria) và Áo, bán đảo Iberia và đảo lớn
của quần đảo Britain.
Và từ khi thời trung đại bắt đầu vào những thế kỉ V-VI trở đi, địa bàn phát triển của
phương Tây trung đại đã mở rộng ra toàn bộ vùng Tây Âu bao gồm khu vực cũ của đế chế
Rome và mở rộng ra toàn bộ quần đảo Britain, toàn bộ phần phía Tây của châu Âu trong đó
có cả những khu vực mà thời kì trước chưa phát triển. Ví dụ như vùng các nước Đức, Đan
Mạch, một phần của các nước Bắc Âu thuộc Thụy Điển, Nauy, Phần Lan ngày nay trong
thời kì cổ đại hầu như khơng có điểm gì nổi bật nhưng bước sang thời kì trung đại đã phát
triển hết sức rực rỡ. Những vùng đất như Poland, Hungary, Romenia, Ukraine, Belarus…
tức vùng Đông Âu bước sang thời kì trung đại cũng khơng có nhiều nét đặc sắc. Tựu chung
lại, thời kì trung đại tập trung ở Tây và Nam Âu về mặt địa lý nhưng trung tâm của lịch sử
trung đại phương Tây thì nghiên về Tây Âu được tính từ bán đảo Italy đổ ra bán đảo Iberia.
Và như vậy khi nghiên cứu về giai đoạn trung đại ở phương Tây thì các nhà nghiên cứu sẽ
tập trung chủ yếu ở Tây Âu, quá trình hình thành châu Âu cũng được tham chiếu từ Tây Âu.
Trong đó, lịch sử phương Tây trung đại sẽ tập trung vào những nước như Pháp, Đức, Italy.
Cái rốn của lịch sử Tây Âu sẽ nằm trong biên giới ba nước này cũng như đảo Britain và
vùng Iberia.
Với sự dịch chuyển địa bàn mà Tây Âu giờ đây là trung tâm, điều kiện tự nhiên của
phương Tây trung đại sẽ không thể tương đồng so với phương Tây cổ đại. Các nước Tây Âu
có những vùng đất rộng lớn, màu mỡ thuận lợi cho việc trồng lúa mì, chăn nuôi gia súc.
Kinh tế nông nghiệp thực sự chiếm ưu thế trong thời kì này đặc biệt là ở giai đoạn đầu. Nền
kinh tế hàng hóa cơng thương nghiệp của thời Hy-La cổ đại khơng cịn giữ vị trí trung tâm
mà phải mất một thời gian dài gần cuối thời kì trung cổ mới có sức sống trở lại. Điều kiện tự
nhiên đã đưa kinh tế nông nghiệp lên hàng chủ đạo và từ đó nền chính trị được lập ra cũng
khơng thể có tính chất tương đồng với bộ máy nhà nước của Hy-La cổ đại được. Đời sống
của con người gắn chặt với mảnh đất canh tác, đất đai dần tập trung trong tay những thế lực
giàu có và từ đó chế độ phong kiến ra đời. Những xã hội công dân Hy-La với quyền tự do
trong tư tưởng, suy nghĩ nhường chỗ cho những tư tưởng bị hạn chế bởi nhiều yếu tố trong
đó có sự bất động trong kinh tế, chính trị và tơn giáo. Trình độ thấp kém của người Man tộc
cùng với trạng thái tĩnh trong cuộc sống càng làm cho sự phát triển của văn minh bị cản trở.
22
Tóm lại, những thay đổi về tộc người, địa bàn, điều kiện tự nhiên… của phương
Tây trung đại đã đưa đến những thay đổi về cấu trúc đời sống văn hóa so với phương Tây cổ
đại.
1.2.2. Những nét sinh hoạt văn hóa thường ngày của cư dân phương Tây trung đại
thế kỉ V-X
Những người Man tộc với trình độ văn minh thấp kém cịn ở trong tình trạng cơng
xã thị tộc khi đến mảnh đất La Mã tràn đầy tư hữu đã không thể không tiếp nhận truyền
thống này được. Quá trình người Man tộc tiếp nhận tư hữu, chuyển biến từ cơng hữu sang tư
hữu chính là một phần của q trình phong kiến hóa ở Tây Âu diễn ra tiêu biểu ở vương
quốc Frank. Với quá trình phong kiến hóa một đơn vị kinh tế - xã hội mới ra đời ở Tây Âu
đó chính là các lãnh địa phong kiến hay các trang viên phong kiến. Trên khắp Tây Âu trung
đại các lãnh địa xuất hiện ở khắp nơi, tuy có địa hình và quy mơ khác nhau nhưng nhìn
chung lãnh địa là những đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc, là nơi sinh sống của hai tầng lớp chủ
yếu trong xã hội lúc bấy giờ là lãnh chúa và nông nô. Nghiên cứu sinh hoạt văn hóa của cư
dân phương Tây trong thời kì này chủ yếu là nghiên cứu đời sống văn hóa trong các lãnh
địa.
1.2.2.1. Đời sống hàng ngày ở các lãnh địa
Nhà cửa và đồ dùng sinh hoạt
Hầu hết cư dân nông thôn sống trong các lãnh địa hay trang viên. Một đơn vị lãnh
địa thường bao gồm một ngôi làng, nhà hay lâu đài của lãnh chúa, nhà thờ và những mảnh
đất nông nghiệp bao quanh. Lãnh chúa cùng bộ máy giúp việc cai quản tất cả trang viên,
đảm bảo rằng những người sống trong nó tuân thủ những quy định đặt ra và làm đúng bổn
phận của họ. Những quy định đặt ra tập trung vào việc canh tác trên những mảnh đất của
lãnh chúa và trả tiền cho sự thuê mướn bằng các sản phẩm họ tạo ra. Lãnh chúa cịn là quan
tịa chính, người quyết định luật và dùng quyền lực của mình để trừng trị những người phá
luật của ông ta. Về sau khi các lãnh địa có quyền miễn trừ, các lãnh chúa có quyền lực như
những ơng vua trong lãnh địa của mình.
Nằm trong các trang viên trung đại, những ngôi nhà của nông nô thường rất đơn
giản. Tầng lớp này phải trải qua phần lớn ngày ở bên ngồi. Nhà của họ thường kín gió và
thiếu ánh sáng bởi những cửa sổ khơng kính. Tường của ngôi nhà được làm từ những vật
cứng như đá tại địa phương nhưng thường là từ bùn, vách đất. Người ta sẽ dựng nhà bằng
23
những khung gỗ và phủ lên nó một hỗn hợp từ phân, rơm và đất sét. Bên trong căn nhà thì
trần trụi, xơ xác. Có một lị đá giữ ấm đặt giữa phịng chính nhưng khơng có ống khói như
vậy căn phịng sẽ rất tối và đầy khói. Vì vậy, người ta thường ngồi trên những chiếc ghế
thấp để tránh khói trong nhà. Để có ánh sáng, cư dân bóc vỏ những cây bấc và ngâm chúng
vào trong mỡ nhằm làm chúng cháy như những cây nến nhỏ. Mọi thứ được giữ sạch khi có
thể. Những sàn gỗ thường trở nên mịn, rỗng vì đó là kết quả của sự lau chùi thường xun.
Cuộc sống gia đình thường mang tính cố kết hơn cuộc sống gia đình của cư dân phương Tây
ngày nay. Cả gia đình cùng ăn, ngủ, trải qua thời gian nhàn rỗi cùng nhau trong một hoặc
hai căn phịng. Nhà của nơng dân nghèo thường chỉ có một phòng khá rộng, là nơi ở, làm
việc, tiếp khách, nấu bếp, ăn uống, ngủ, đều ở đó. Ở nhiều trang ấp miền Tây nước Pháp,
gần đây vẫn còn nhiều nhà như thế. Bên cạnh nhà ở người ta phải đào hầm để ủ rượu, xây
vựa để chứa thóc, dựng các kho đựng lúa, kho để cỏ khô và xe bị, rồi chuồng bị, máng ăn,
chuồng lợn. Những ngơi nhà có chủ giàu có thường được thiết kế cơng phu, tỉ mỉ hơn.
Vào mùa đơng, để chống rét, khơng có các phương tiện sưởi ấm thật tốt như ngày
nay nhưng chất đốt có rất nhiều. Người ta đã có than bùn, than đá dù mới chỉ khai thác ở
quy mô rất nhỏ, củi, gỗ chỗ nào cũng có và theo thơng lệ bấy giờ, người nghèo nhất có thể
vào nhặt cành khơ trong rừng bên cạnh thậm chí là chặt cả cây tươi. Than củi nhẹ, dễ nhóm
là loại chất đốt hảo hạng để nấu bếp nhanh, nếu dùng để sưởi cá nhân thì khơng vệ sinh.
Thơng thường, người ta nhóm lửa trong lị sưởi bằng những thân hoặc gốc cây to, cho lửa
đượm. Chỉ dân nghèo thành phố và dân các vùng ít rừng phải cam chịu những ngọn lửa leo
lét, đốt bằng cỏ khơ và phân bị.
Để vận chuyển nhiều nguyên liệu, đồ dùng cũng như lúa mì, rơm, cỏ khơ… trước
nhà của các cư dân thường có những chiếc xe đẩy tay có hai bánh lớn bằng gỗ Xe được làm
bằng gỗ có kết cấu thơ sơ có hai cây dài song song để cầm đẩy và hai cây này cũng là đáy
của xe, với hàng loạt cây gỗ đóng nối hai cây. Xung quanh là những cây gỗ nhỏ để giữ đồ
trên xe. Xe có hai bánh gỗ lớn hai bên giúp xe di chuyển dễ qua những nơi gồ ghề hay sâu
lún. Trên vành gỗ của bánh xe cũng được bọc bởi 6 miếng sắt nhỏ để xe chịu lực nhiều hơn.
Bên cạnh chiếc xe đẩy ở trước nhà thường là những đống rơm. Rơm được dùng cho
rất nhiều mục đích ở thời trung đại, từ lợp mái nhà cho đến làm nệm. Cỏ khô cũng là sản
phẩm quan trọng. Cùng với rơm, hạt khô chúng trở thành nguồn thức ăn cho gia súc vào
mùa đông. Tuy nhiên thức ăn thường rất hiếm vào cuối mùa đông nên người ta thường giết
lợn và dê để dùng và cũng vì khơng đủ thức ăn ni chúng. Mỗi nông dân đều được chia
24
phần trong bãi cỏ của làng và làm cỏ khô trở thành nhiệm vụ chung. Những người nông dân
làm công việc cực nhọc mỗi ngày trừ ngày chủ nhật và những ngày lễ thánh. Họ làm việc
dưới ánh mặt trời sáng chói hay những ngày mưa phùn, tuyết cóng. Bữa ăn của họ nghèo
nàn, chỗ ở ẩm thấp những ngày mưa, tuyết. Tất cả những điều này đã góp phần giải thích tại
sao nhiều người nơng dân châu Âu lại không sống quá 25 tuổi.
Nông dân cũng là lực lượng chính làm ra những cơng cụ của họ và một số đồ dùng
mặc dù lúc này đã có các thợ thủ công làm đồ gốm, sản phẩm thuộc da và sắt. Bên cạnh gỗ
và da, chất liệu quan trọng khác là sừng từ gia súc hay những con cừu. Nhẹ và chắc, không
hấp thu nước hay hương vị như gỗ và khơng địi hỏi q nhiều sức lực để tạo hình như gỗ
hay sắt, sừng rất được ưa chuộng. Những cái muỗng thời bấy giờ được làm chủ yếu bằng
sừng, một tác giả đã viết “với một cái liếm nó sẽ luôn được giữ sạch như một con xúc xắc”
[61; Tr. 10].
Đồ đạc trong một ngôi nhà rất đơn giản, sơ sài, thường chỉ có giường và hịm.
Giường rất to, vì phải chứa từ hai đến sáu người (trong truyện Cậu bé tí hon, các con gái của
yêu tinh ngủ chung trên một chiếc giường thời Trung cổ). Nhà nghèo lấy thùng độn cỏ, túi
nhồi rơm làm gối. Gia cảnh khá hơn, có thêm một nệm rơm và thậm chí giàu có sẽ sở hữu
một hay nhiều nệm lơng. Thành ngữ “ngủ trên giường lông” là để chỉ cảnh tiện nghi phong
phú lắm. Những loại thảo mộc như cây oải hương, cây cúc ngoài và một vài loại khác được
rắc lên nệm. Những loại cây có hương thơm mạnh trên khơng chỉ làm cho giường ngủ có
mùi dễ chịu mà cịn có tác dụng ngăn bọ chét hay những loại cơn trùng khác.
Người ta cũng có khăn trải giường, bằng đay hoặc gai, ráp hay mịn tùy theo gia
cảnh, tùy theo tài khéo léo của bà nội trợ. Nhưng người nghèo và ở một vài tu viện, chỉ có
chăn mỏng bằng xéc (trường hợp này, người ta để nguyên quần áo đi ngủ, chỉ cởi áo khốc
ngồi và quần lao động). Vải trải giường khơng dắt, mà để lịa xịa xuống đất hoặc rủ xuống.
Gối thì cuộn vào tấm ga dưới, tấm ga trên thì “lộn” lên làm chăn như ngày nay. Mùa đơng,
một số nhà có chăn lơng, với nhà giàu là lơng chồn, lơng sóc, với nhà dân thường là lông
cáo, lông thỏ.
Vật dụng giản đơn nhất mà nhà nào cũng có là cái hịm, gọi là huche, thường có bốn
chân, bằng gỗ được đẽo khá xù sì, thơ ráp. Nó được đặt thẳng xuống nền đất nện, vừa dùng
làm tủ vừa dùng làm ghế. Quần áo cất vào đó được cuộn trịn kỹ lưỡng và có thể bỏ thêm rễ
i-rít, oải hương hoặc nghệ tây cho thơm. Hòm còn dùng để cất các giấy tờ (mua bán, vay nợ,
biên lai …), tiền bỏ trong ví da hoặc túi vải. Mặc dù hịm có bản lề nặng và một hoặc hai
25