Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên XNK sản phẩm cơ khí (MECANMEX Co.,LTD)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.72 KB, 73 trang )

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
Khi tiến hành sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều cần phải có
một lượng vốn tiền tệ nhất định để thực hiện các hoạt động của mình và nó
được gọi là vốn sản xuất kinh doanh. Tùy vào từng hình thức doanh nghiệp
và lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp mà số lượng vốn
kinh doanh cũng cần thiết khác nhau.
Vốn hoạt động của doanh nghiệp, nếu xét từ nguồn gốc tạo lập, có thể
chia làm hai loại: nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả. Hoạt động
sản xuất kinh doanh vốn là một quá trình các chu kỳ được lặp đi lặp lại.
Trong mỗi giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh; vốn được luân chuyển
và tuần hoàn không ngừng. Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển của từng loại
vốn trong các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh, có thể chia vốn sản
xuất kinh doanh làm hai loại: vốn lưu động và vốn pháp định.
Hai loại vốn này rất quan trọng, giúp doanh nghiệp thực hiện mục đích
sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ với các tổ chức kinh tế nhằm tối đa
hóa lợi nhuận. Vốn kinh doanh có tầm quan trọng to lớn nó ảnh hưởng đến
sự tồn vong của mỗi doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chính tầm quan trọng to lớn của vốn kinh doanh trong mỗi doanh
nghiệp, đã thôi thúc em đến việc nghiên cứu tìm hiểu về vốn kinh doanh tại
đơn vị thực tập của mình, mà cụ thể em đã đi vào tìm hiểu, nghiên cứu việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty TNHH Nhà nước một
thành viên xuất nhập khẩu sản phẩm cơ khí (Mecanimex Co.,Ltd). Vốn lưu
động là một phần tạo nên vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nó tồn tại ở tất
cả các khâu sản xuất, tiêu thụ, dự trữ, thanh toán. Vì vậy, một doanh nghiệp
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
1
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra thường xuyên và liên tục
thì luôn phải có một lượng vốn lưu động đủ cho quá trình đó. Với tầm quan
trọng đó của vốn lưu động cho thấy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu


động có ý nghĩa rất to lớn trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, với hạn chế của một sinh viên đang trong quá trình thực
tập trình độ cũng như kinh nghiệm còn hạn chế, chuyên đề không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Em mong nhận đươc sự đóng góp ý kiến từ phía các
thầy, cô, bạn bè, những ai quan tâm đến vấn đề này để chuyên đề của em có
điều kiện được hoàn thiện hơn.
Qua đây em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến thầy giáo TS. Đàm
Văn Huệ giảng viên khoa Ngân hàng – Tài Chính đã hướng dẫn em thực
hiện đề tài này. Em cũng xin chân thành cảm ơn các anh, chị, cô, bác tại
phòng Tài chính - Kế toán Công ty TNHH Nhà nước một thành viên xuất
nhập khẩu sản phẩm cơ khí đã tạo điều kiện cho em suốt thời gian thực tập
tại công ty.
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
2
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỒN LƯU ĐỘNG
1.1 Vốn lưu động và tài sản lưu động trong doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm
Trong việc tìm ra một ngân quỹ để thành lập một doanh nghiệp mới
hay duy trì hoạt động của một doanh nghiệp đã hình thành, không chỉ đơn
thuần số lượng tiền và tín dụng cần có mà ngay cả loại vốn cũng rất quan
trọng. Có hai loại vốn cơ bản. Việc sử dụng loại vốn nào phụ thuộc vào việc
số vốn đó được dùng để làm gì và các nhu cầu về khả năng chuyển các tài
sản của công ty thành tiền mặt. Những tài sản được giữ sử dụng trong một
thời gian dài như đất và nhà cửa, trang bị và đồ đạc, máy móc, và những
thiết bị khác được phân loại là vốn cố định. Vốn lưu động hay vốn luân
chuyển, bao gồm những nguồn dự trữ tiền mặt của công ty và tất cả những

tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt, như hàng trong kho và những
khoản phải thu. Vốn lưu động được sử dụng để mua nguyên vật liệu hay
hàng hóa và để thanh toán các khoản phải trả hiện tại như tiền thuê nhà
xưởng và tiền lương.
Theo các nhà kế toán,vốn lưu động được định nghĩa theo thuật ngữ kế
toán là sự chệnh lệch giữa khoản có và khoản nợ hiện tại. Đó là quan điểm
điềm tĩnh và không phải có ích cho lắm. Khả năng thanh toán là khả năng
đáp ứng các cam kết và chi trả các hoá đơn thanh toán xuất phát từ mức độ
sẵn có của tiền mặt. Một công ty có thể có số vốn lưu động đáng kể theo
nghĩa kế toán nhưng hoàn toàn không có tiền mặt và do vậy mà công ty đang
ở tình trạng mất khả năng thanh toán.
Từ nhiều khái niệm khác nhau mà người ta đã đưa ra khái niệm về tài
sản lưu động chung nhất. Tài sản lưu động bao gồm tiền mặt và tất cả tài sản
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
3
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
có thể chuyển đổi thành tiền mặt trong thời gian một năm. Cụ thể là các vật
tư dự trữ để chuẩn bị cho sản xuất được liên tục, nguyên vật liệu nằm dự trữ
ở kho của doanh nghiệp và một phần khác là các vật tư đang trong quá trình
chế biến. Theo quan niêm của Mỹ, chính sách về vốn lưu động liên quan đến
hai vấn đề cơ bản: doanh nghiệp phải giữ vốn lưu động bao nhiêu là thích
hợp và vốn lưu động phải được tài trợ bằng cách nào. Chính vì thế mà việc
quản trị vốn lưu động (việc thiết lập và việc thực hiện chính sách vốn lưu
động trong hoạt động kinh doanh hàng ngày) có ảnh hưởng rất quan trọng tới
mục tiêu chung của doanh nghiệp.
1.1.2 Phân loại vốn lưu động
Mỗi một doanh nghiệp sản xuất có một chu kì hoạt động cố hữu trong
đó nguyên vật liệu được mua sắm lưu kho biến thành thành phẩm và cuối
cùng được bán. Thậm chí các ngành dịch vụ cũng có một chu kì như vậy
mặc dù thời gian chu kì ngắn hơn. Tiền mặt chảy ra khỏi tổ chức khi thực

hiện mua sắm và quay trở lại khi thu nhận các tài khoản báo thu. Trong chu
kì đó vốn lưu động được chuyển từ hình thái này sang hình thái khác.
Để có thể quản lý vốn lưu động một cách hiệu quả các nhà quản trị đã
phân loại vốn lưu động theo nhiều tiêu thức khác nhau phù hợp với từng
hình thái trong một chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông
thường vốn lưu động được phân chia theo các tiêu thức sau:
+ Phân loại vốn lưu động dựa vào hình thức biểu hiện trong quá trình sản
xuất kinh doanh:
• Vốn vật tư hàng hoá: bao gồm vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ,
sản phẩm đang chế tạo, chi phí chờ phân bổ thành phẩm, hàng hoá mua
ngoài.
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
4
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Các khoản vốn này nằm trong lĩnh vực sản xuất và cả lưu thông là các
khoản vốn rất cần thiết cho sản xuất lưu thông và tiêu thụ sản phẩm.
• Vốn tiền tệ: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền thanh toán.
Các khoản vốn này nằm trong lĩnh vực lưu thông luôn biến động, luân
chuyển và không trực tiếp tham gia sản xuất nên càng cần luân chuyển
nhanh càng tốt.
+ Phân loại vốn lưu động căn cứ theo nguồn tạo lập:
• Nguồn vốn chủ sở hữu: số vốn lưu động do cổ đông đóng góp, vốn do
chủ doanh nghiệp bỏ ra (đối với công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân); số
vốn lưu động tăng thêm từ lợi nhuận bổ sung, số vốn góp từ liên doanh; số
vốn thu hút được từ phát hành cổ phiếu.
• Nguồn vốn vay: trong hoạt động sản xuất, doanh nghiệp luôn có nhu cầu
vốn lưu động. Nguồn vốn vay cũng là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp
trang trải cho các nhu cầu của sản xuất. Doanh nghiệp có thể chọn các hình
thức vay vốn ngân hàng của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, hoặc
bằng cách phát hành trái phiếu… đều tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của

doanh nghiệp.
Việc phân loại theo cách trên giúp doanh nghiệp chọn đối tượng huy
động vốn tối ưu để luôn có một số vốn ổn định đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh.
+ Phân loại vốn lưu động theo vai trò của vốn lưu động trong quá trình sản
xuất kinh doanh:
• Vốn lưu động trong khâu sản xuất: đó là giá trị các sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm và các khoản chi phí chờ kết chuyển.
• Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: gồm giá trị các nguyên vật
liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng và các công cụ dụng cụ.
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
5
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
• Vốn lưu động trong khâu lưu thông: gồm giá trị các thành phẩm, vốn
bằng tiền, các khoản đẩu tư ngắn hạn, ký cược, ký quỹ ngắn hạn.
Các khâu trong sản xuất kinh doanh luôn vận hành chuyển hoá lẫn cho nhau,
thay thế nhau. Nhờ có vốn lưu động mà quá trình sản xuất kinh doanh luôn
được thông suốt. Với cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp có những
quyết định và sự điều chình vốn lưu động sao cho hợp lý.
1.2 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp
Với bất kì một doanh nghiệp nào, hoạt động sản xuất kinh doanh
muốn được tiến hành liên tục, thông suốt và đạt kết quả cao thì doanh nghiệp
cần có đủ vốn đầu tư vào các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất kinh
doanh. Vốn là một nhân tố quyết định đến các yếu tố đầu vào trong sản xuất
kinh doanh. Vốn lưu động được xem là lượng tiền ứng trước nhằm thoả mãn
nhu cầu về các đối tượng lao động và nó tạo ra tài sản lưu động cho doanh
nghiệp. Do đó mà vốn lưu động tồn tại ở tất cả các khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh kể từ khâu sản xuất đến lưu thông, dự trữ, tiêu thụ đảm bảo
cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục.
Từ tầm quan trọng đó của vốn lưu động cho thấy việc nâng cao hiệu

quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các nhà quản trị của doanh nghiệp đã
đưa ra các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1.2.1 Chỉ tiêu về vốn lưu động ròng
Vốn lưu động ròng là mức chênh lệch giữa tài sản lưu động và các
khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp và được tính theo công thức:
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
6
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Vốn lưu động ròng = Tài sản lưu động - Tổng nợ ngắn hạn
Về mặt ý nghĩa, vốn lưu động của doanh nghiệp là giá trị các tài sản
lưu động của doanh nghiệp được tài trợ bằng vốn ngắn hạn của doanh
nghiệp. Vốn lưu động ròng cho biết khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán,
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ kinh
doanh của doanh nghiệp.
Việc doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh sẽ làm cho nhu cầu
vốn lưu động ròng tăng. Kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là
kế hoạch dự trữ thành phẩm, dự trữ nguyên vật liệu và cả kế hoạch thương
mại của doanh nghiệp đều tác động đến nhu cầu sử dụng vốn lưu động của
doanh nghiệp.
Việc ước lượng nhu cầu sử dụng vốn lưu động ròng thường khó khăn
và phức tạp hơn việc xác định nhu cầu vốn đẩu tư. Bởi vì một doanh nghiệp
chỉ có thể kiểm soát được một phần nhu cầu vốn lưu động thông qua các
chính sách dự trữ, còn việc quản lý các khoản phải thu và các khoản phải trả
thì mức độ chủ động của doanh nghiệp hạn chế hơn.
1.2.2 Chỉ tiêu về hiệu suất luân chuyển vốn lưu động
Như đã biết, doanh nghiệp dùng vốn lưu động để sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, bắt đầu từ việc dùng tiền mua sắm vật tư dự trữ cho sản xuất, tiến
hành sản xuất, sau đó tổ chức tiêu thụ để thu tiền.
Như vậy, vốn lưu động tuần hoàn và luân chuyển không ngừng và thời gian

luân chuyển của vốn lưu động dài hay ngắn, lâu hay mau, được gọi là tốc độ
luân chuyển của vốn lưu động hay quay vòng vốn.
Hiệu quả kinh tế của việc dùng vốn lưu động được tượng trưng bằng
chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Chỉ tiêu biểu lộ luân chuyển vốn
lưu động được gọi là hiệu suất luân chuyển vốn lưu động.
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
7
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Hiệu suất luân chuyển vốn lưu động là một trong nhiều chỉ tiêu để
đánh giá trình độ quản trị sản xuất. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh
hay chậm cho thấy rõ tình hình tổ chức các lĩnh vực cung cấp, sản xuất, tiêu
thụ của doanh nghiệp hợp lý hay không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng có
hiệu quả hay không.
Hiệu suất luân chuyển vốn lưu động bao gồm tổng hiệu suất và bộ
phận hiệu suất luân chuyển vốn lưu động.Tổng hiệu suất luân chuyển vốn
lưu động nói lên tốc độ luân chuyển vốn lưu động trong quá trình sản xuất,
còn bộ phận hiệu suất luân chuyển vốn lưu động nói lên tốc độ luân chuyển
của từng bộ phận vốn lưu động trong từng giai đoạn luân chuyển như: dự
trữ, sản xuất, lưu thông.
Tổng hiệu suất vốn lưu động được biểu hiện bằng hai hình thức sau:
+ Số lần luân chuyển trong một kỳ nhất định (thường là một năm) được tính
bằng công thức sau:
L = M : V
Trong đó:
L: Số lần luân chuyển vốn lưu động trong một kỳ
M: Tổng mức luân chuyển trong thời kỳ đó
V: Số vốn lưu động sử dụng bình quân trong thời kỳ đó.
+ Số ngày luân chuyển hay kỳ luân chuyển bình quân được tính bằng công
thức sau:
K = N : L

Trong đó:
K: Số ngày luân chuyển hay kỳ luân chuyển bình quân trong thời kỳ đó
N: Số ngày trong kỳ.
Trong công thức tính tổng hiệu suất luân chuyển vốn lưu động, tổng mức
luân chuyển là tổng số khối lượng công việc mà vốn lưu động phải luân
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
8
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
chuyển để thực hiện. Tổng mức luân chuyển dùng để tính tổng hiệu suất luân
chuyển vốn lưu động được tính theo số doanh thu bán hàng trừ số thuế trong
kỳ.
1.2.3 Vòng quay dự trữ, tồn kho
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất
kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước
đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. Hàng
hoá tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất
kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm. Nguyên vật liệu dự trữ không
trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó đóng vai trò rất lớn để cho quá trình sản
xuất kinh doanh tiến hành được bình thường. Do vậy, nếu doanh nghiệp dự
trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho
quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt hậu quả tiếp
theo.
Tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên vật liệu nằm trong
từng công đoạn của quá trình sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của
các doanh nghiệp được chia ra các công đoạn, giữa các công đoạn này bao
giờ cũng tồn tại những bán thành phẩm. Đây là những bước đệm nhỏ để quá
trình sản xuất được liên tục. Đối với một doanh nghiệp thương mại thì dự trữ
nguyên vật liệu cũng nghĩa là dự trữ hàng hoá để bán.
Vòng quay dự trữ, tồn kho = giá vốn hàng hoá : tồn kho bình quân trong kỳ
Hàng tồn kho bình quân là bình quân số học của vật tư, hàng hoá dự

trữ đầu và cuối kỳ.
1.2.4 Kỳ thu tiền bình quân
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
9
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, trong
quá trình sản xuất kinh doanh luôn tồn tại các khoản phải thu; đó là các
khoản do khách hàng trả chậm tiền hàng, hay các khoản thuế được khấu
trừ… mà doanh nghiệp chưa thu được. Do đó, số chưa thu được này là
khoản vốn bị ứ đọng, có thể khiến doanh nghiệp không có khả năng để đáp
ứng các khoản chi trả ngắn hạn mà doanh nghiệp phải trả. Vì thế, các khoản
phải thu cũng là một nhân tố quan trọng để đánh giá tính hiệu quả trong việc
sử dụng vốn lưu động.
Chỉ tiêu này cho ta biết số ngày cần thiết để thu được các khoản phải
thu; chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng
cao.
Kỳ thu tiền bình quân = tổng số ngày trong một kỳ : vòng quay
khoản phải thu trong kỳ
Vòng quay khoản phải thu trong kỳ = doanh thu bán hàng trong kỳ :
các khoản phải thu bình quân
Các khoản phải thu bình quân là bình quân số học của các khoản phải
thu ở đầu và cuối kỳ.
1.2.5 Tỷ lệ về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán là khả năng của doanh nghiệp đương đầu với các
khoản nợ đã đến hạn. Nếu khản năng thanh toán của doanh nghiệp thấp có
nghĩa là vị thế tài chính của doanh nghiệp yếu kém và ít có khả năng giải
quyết các vấn đề về vốn nảy sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp được xem xét trên hai khía
cạnh:
- Khả năng thanh toán hiện hành:

SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
10
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Khả năng thanh toán hiện hành là khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài
chính ngắn hạn của doanh nghiệp chính là tỷ số luân chuyển tài sản lưu động
và được tính bằng công thức sau:
Khả năng thanh toán hiện hành = tài sản lưu động : các khoản nợ
ngắn hạn
Tài sản lưu động thường bao gồm: tiền mặt, chứng khoán có thể giao
dịch, các khoản sẽ thu và hàng tồn kho.
Các khoản nợ ngắn hạn bao gồm: các khoản phải trả, giấy nợ ngắn hạn
phải trả, món nợ dài hạn đáo hạn, thuế cộng dồn và các chi phí cộng dồn
khác.
nếu một công ty gặp phải khó khăn tài chính, sẽ bắt đầu trả các phiếu
nợ chậm hơn, phải vay mượn từ ngân hàng của mình và… Nếu các khoản nợ
ngắn hạn đang gia tăng nhanh hơn tài sản lưu động, tỷ số luân chuyển tài sản
lưu động giảm, và điều đó có thể là báo hiệu các khó khăn tài chính đang
tiềm ẩn. Khi tỷ số luân chuyển tài sản lưu động cao cho thấy công ty có khả
năng thanh toán cao; nhưng nếu quá cao, sẽ cho thấy việc quản trị tài sản lưu
động của công ty không hiệu quả do có nhiều tiền mặt nhàn rỗi hay có nhiều
khoản nợ phải đòi… nên có thể làm giảm lợi nhuận của công ty.
Ngoài ra trong nhiều lúc tỷ số trên phản ánh không đúng khả năng
thanh toán, vì nếu hàng tồn kho là các loại hàng khó bán, công ty khó có thể
chuyển đổi chúng thành tiền để trả nợ. Vì vậy khi phân tích khả năng thanh
toán ngắn hạn trên cơ sở đảm bảo của tài sản lưu động ta cần phân tích chất
lượng của các yếu tố tài sản lưu động của công ty qua các chỉ tiêu kì thu tiền
bình quân và vòng quay hàng tồn kho.
Giá trị khả năng thanh toán hiện hành phải lớn hơn hoặc bằng 1, nếu
không thì doanh nghiệp không có khả năng thanh toán, hệ số này phụ thuộc
vào đặc tính của mỗi ngành.

SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
11
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
- Khả năng thanh toán nhanh:
Khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng thanh toán thực sự của
doanh nghiệp được tính bằng cách lấy tài sản lưu động trừ đi hàng tồn kho
và chia cho các khoản nợ ngắn hạn:
Khả năng thanh toán nhanh = (tài sản lưu động – hàng tồn kho) : nợ ngắn
hạn
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng của doanh nghiệp có thể thanh toán
ngay các khoản nợ ngắn hạn, căn cứ vào các tài sản lưu động có khả năng
chuyển thành tiền một cách nhanh chóng. Không có cơ sở để yêu cầu chỉ tiêu
này lớn hơn 1 vì trong các khoản nợ ngắn hạn, có những khoản đã và sẽ đến
hạn ngay thị mới có nhu cầu thanh toán nhanh, những khoản chưa đến hạn
chưa có nhu cầu thanh toán ngay.
1.2.6 Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị tài sản lưu động sử dụng trong kỳ
đem lại bao nhiêu đơn vị doanh thu thuần, chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ
hiệu suất sử dụng tài sản lưu động càng cao.
Vòng quay tài sản lưu động trong kỳ = doanh thu thuần trong kỳ : tài
sản lưu động bình quân trong kỳ
Tài sản lưu động bình quân trong kỳ là bình quân số học của tài sản
lưu động cuối và đầu kỳ.
1.2.7 Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn lưu động. Nó cho biết
mỗi đơn vị tài sản lưu động có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận
sau thuế. Đây là một chỉ tiêu tài chính quan trọng đánh giá mức độ hoạt động
của doanh nghiệp.
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
12

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
hiệu quả sử dụng tài sản lưu động = lợi nhuận sau thuế : tài sản lưu động
sử dụng bình quân trong kỳ
1.2.8 Mức đảm nhiệm tài sản lưu động
Chỉ tiêu này cho biết để đạt được mỗi đơn vị doanh thu, doanh nghiệp
cần phải sử dụng bao nhiêu phần trăm tài sản lưu động. Chỉ tiêu này càng
thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao.
Mức đảm nhiệm tài sản lưu động = tài sản lưu động sử dụng bình
quân trong kỳ : doanh thu thuần
Việc phân tích các tỷ số trên giúp các nhà quản trị đánh giá được tình
hình sử dụng và quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp từ đó đưa ra các
phân tích, kiểm soát và do đó cải tiến các hoạt động của doanh nghiệp để
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Tuy nhiên, cũng cần phải ghi nhớ
rằng, dù việc phân tích tỷ số có thể cung cấp các thông tin hữu ích liên quan
đến việc đánh giá hiệu quả, vẫn có các giới hạn, cần phải cẩn thận và có các
phán đoán cần thiết.
Như việc các doanh nghiệp lớn hoạt động với các bộ phận khác nhau
trong các ngành khác nhau, và đối với các loại doanh nghiệp như thế, thực sự
khó khi dùng các tỷ số để đánh giá hiệu quả hoạt động. Do đó, việc phân tích
sẽ hiệu quả hơn đối với các doanh nghiệp nhỏ, tập trung hoạt động nhỏ hẹp
hơn là các doanh nghiệp lớn đa bộ phận.
Việc lạm phát có thể làm sai lệch bảng cân đối kế toán của các doanh
nghiệp, ghi các giá trị thường khác với các giá trị thực. Xa hơn, do lạm phát
tác động đến cả chi phí chiết khấu và chi phí hàng tồn kho, các lợi nhuận
cũng bị tác động. Do đó, các tỷ số này không còn phản ánh đúng các thông
tin nữa. Việc phân tích phải được phán đoán một cách thích hợp.
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
13
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Các yếu tố mùa vụ cũng có thể làm sai lệch đi việc phân tích các tỷ số

này. Mùa vụ ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh sản xuất của các đơn vị sản
xuất các mặt hàng theo mùa vụ. Việc phân tích tỷ số lúc này cũng phải đánh
giá cả các yếu tố thuộc về mùa vụ.
Các chế độ, thực hành kế toán khác nhau cũng có thể làm sai lệch các
phân tích tỷ số. Như đã ghi nhận trước đây, việc đánh giá hàng tồn kho và
phương pháp chiết khấu có thể gây ảnh hưởng đến các bản báo cáo tài chính
và do đó làm sai lệch việc so sánh giữa các doanh nghiệp.
Thật khó để khái quát hoá đâu là một tỷ số đặc biệt tốt hay xấu. Chẳng
hạn, một tỷ số lưu động cao có thể cho thấy doanh nghiệp có khả năng thanh
khoản mạnh, ở vị thế tốt, hay tiền mặt dư thừa là xấu. Một công ty có một
vài tỷ số tốt, một vài tỷ số khác trông có vẻ xấu, điều đó khiến khó có thể nói
công ty này là mạnh hay yếu. Phân tích tỷ số là hữu ích, nhưng các nhà phân
tích phải ý thức được các vấn đề của mình và điều chỉnh khi cần thiết. Việc
phân tích tỷ số được thực hiện một cách máy móc, không suy nghĩ sẽ rất
nguy hiểm, nhưng nếu biết dùng nó một cách thông minh và với sự phán
đoán chính xác, nó có thể cung cấp các hiểu biết hữu ích cho các hoạt động
của doanh nghiệp.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Các điều kiện môi trường có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hoạt động
của doanh nghiệp. Một công ty khai thác thiếc chì chỉ có thể hoạt động hiệu
quả tại những nơi giàu quặng thiếc, địa thế cho phép xây dựng đường giao
thông vận chuyển. Nếu công ty này là của nước ngoài thì còn thêm điều kiện
về chính trị, pháp lý. Một tổ chức kinh doanh không thể hoạt động hiệu quả
nếu thiếu các nguồn cung ứng lao động ổn định với giá cả hợp lý hoặc chi
phí hoạt động cao. Tất cả các điều kiện môi trường cả bên trong lẫn bên
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
14
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ngoài đều ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nói chung cũng như ảnh hưởng đến hiệu quả của việc sử dụng vốn lưu động

của doanh nghiệp nói riêng. Các nhân tố của môi trường được chia thành các
nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan.
1.3.1 Nhân tố khách quan
Đây là các nhân tố mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được.
- Môi trường kinh tế: là những đặc điểm của hệ thông kinh tế mà
trong đó các doanh nghiệp hoạt động. Trong môi trường kinh tế chúng ta tập
trung chủ yếu xem xét mô hình của nó bao gồm các yếu tố: sự tăng trưởng
kinh tế, suy thoái, lạm phát, tỷ giá, quan hệ cung cầu trên thị trường… Môi
trường kinh tế mà thuận lợi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động
hiệu quả tận dụng tối ưu các nguồn lực kinh tế, ngược lại nó sẽ gây cản trở
cho quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ví dụ: Về quan hệ cung cầu trên thị trường.
Thị trường các yếu tố sản xuất và thị trường hàng hoá của doanh
nghiệp luôn luôn vận động. Điều đó lại dẫn đến sự thay đổi tương quan cung
cầu trên thị trường. Trong mỗi trạng thái của quan hệ cung cầu trên thị
trường doanh nghiệp phải có cách ứng sử khác nhau để đảm bảo hiệu quả
hoạt động của mình. Sự biến động của quan hệ cung cầu trên thị trường mà
doanh nghiệp có quan hệ thể hiện ở tình trạng khan hiếm hoặc dư thừa hàng
hoá. Đến lượt mình, tình trạng đó lại thể hiện sự biến động tăng hoặc giảm
giá cả hàng hoá. Ngược lại, sự điều chình giá cả cũng ảnh hưởng trực tiếp
đến quan hệ cung cầu. Trong tất cả các trường hợp, doanh nghiệp phải đưa ra
quyết định thích ứng nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động, làm cho doanh
nghiệp luôn thích ứng với sự biến động của môi trường kinh doanh. Ảnh
hưởng của quan hệ cung cầu đến vốn lưu động của doanh nghiệp thông qua
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
15
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
nhu cầu dự trữ hàng hoá do tình trạng khan hiếm hàng hoá hay sự tăng của
giá cả, ảnh hưởng đến nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp.
- Môi trường tự nhiên: các nhân tố về môi trường tự nhiên bao gồm

các nhân tố về địa hình, vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên môi trường. Các
nhân tố này có ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp lựa chọn cách thức đặt kho
hàng, quản lý hàng tồn kho, kế hoạch sản xuất sản phẩm, phương thức khai
thác tài nguyên… từ đó ảnh hưởng đễn các chi phí quản lý có liên quan.
Việc phân tích các nhân tố của môi trường tự nhiên giúp doanh nghiệp đưa
ra các kế hoạch hợp lý làm giảm thiểu các chi phí từ đó có thể đưa ra phương
án sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả.
- Môi trường xã hội: bao gồm các mối quan hệ, các yếu tố liên quan
đến con người, cộng đồng. Mà nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử
dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chính là khách hàng.
+ Tập quán và thị hiếu tiêu dùng: mỗi dân tộc có truyền thống bản sắc
văn hoá và điều kiện sinh hoạt riêng, do vậy họ có tập quán tiêu dùng riêng.
Mặt khác, cùng một loại sản phẩm nhưng những nhóm khách hàng lại có thị
hiếu rất khác nhau, thậm trí trái ngược nhau. Nói chung khách hàng thường
ưa thích sản phẩm phù hợp với tập quán tiêu dùng của họ. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp phải thích ứng với
nhu cầu của khách hàng. Nghĩa là chỉ khi nào doanh nghiệp đưa ra thị trường
những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng, sản phẩm đó mới có
khả năng tiêu thụ thuận lợi và ngược lại. Điều này chi phối cả doanh nghiệp
tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa và nước ngoài.
+ Khả năng thanh toán của khách hàng: khả năng thanh toán của
khách hàng thể hiện khả năng biến mong muốn và đòi hỏi về sản phẩm dịch
vụ thành hiện thực. Với mỗi cá nhân, mỗi gia đình khả năng thanh toán phụ
thuộc vào thu nhập và cơ cấu chi tiêu. Nói chung thu nhập càng cao sức mua
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
16
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
càng lớn. Khả năng thanh toán của khách hàng ảnh hưởng đến việc quản trị
các khoản phải thu của doanh nghiệp.
- Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước: là một chủ thể kinh tế

hoạt động trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, doanh nghiệp
phải coi trọng định hướng của Nhà nước là một trong những cơ sở quan
trọng để hoạch định chiến lược kinh doanh của mình. Trong điều kiện nước
ta đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, hệ thống pháp luật
đang trong quá trình xây dựng hoàn thiện và bổ sung. Đó là một trong những
khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước đóng vai
trò quan trọng trong việc tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh
nghiệp, hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
1.3.2 Nhân tố chủ quan
Khác với những nhân tố khách quan những nhân tố này doanh nghiệp
hoàn toàn có thể chủ động kiểm soát được và nó chính là yếu tố quyết định
sự thành bại của doanh nghiệp. Nó bao gồm:
- Trình độ và phương pháp quản lý: Quản lý tài chính luôn giữ một
vị trí trọng yếu trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định tính
độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Quản lý
tài sản lưu động là một bộ phận của quản lý tài chính. Quản lý tài sản lưu
động, tức là quản lý các tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Hoạt động tài
chính ngắn hạn gắn liền với các dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ.
Nhà quản lý cần phải có trình độ nhất định đáp ứng việc xử lý sự lệch pha
của các dòng tiền. Trình độ và phương pháp quản lý của doanh nghiệp sẽ
giúp doanh nghiệp trả lời các câu hỏi được đặt ra: Doanh nghiệp nên nắm
bao nhiêu tiền và dự trữ là hợp lý? Doanh nghiệp có nên bán chịu không?
Nếu bán chịu thì nên bán với thời hạn nào? Mua chịu hay vay ngắn hạn và
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
17
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
trả tiền ngay? Nếu vay ngắn hạn doanh nghiệp nên vay ở đâu và vay như thế
nào? Các nhà quản lý doanh nghiệp cần có sự hiểu biết rõ về ý nghĩa, vai trò
của vốn lưu động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó đưa
ra các kế hoạch, chính sách quản lý sử dụng vốn lưu động một cách hiệu quả

nhất. Ngoài ra, trong quản lý tài sản lưu động là nguồn vốn biến động liên
tục đòi hỏi các nhà quản lý phải linh hoạt, sáng tạo trong việc tiến hành các
chính sách quản lý để có thể nhanh chóng thích nghi với những thay đổi của
môi trường kinh doanh quanh doanh nghiệp.
- Trình độ khoa học công nghệ: là khả năng chuyên môn kỹ thuật có
thể có của một doanh nghiệp cũng như mức độ tinh vi của công nghệ được
sử dụng trong sản xuất hàng hoá và dịch vụ. Việc áp dụng các công nghệ tiên
tiến vào doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu được các chi phí làm
tăng năng suất lao động, chất lượng dịch vụ từ đó mà hiệu quả sử dụng vốn
lưu động tăng lên. Tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị
trường.
- Thông tin: thông tin là một yếu tố rất quan trọng nó ảnh hưởng tới
các quyết định của doanh nghiệp trong việc đưa ra các quyết sách về quản lý
tài sản lưu động. Không có thông tin thì doanh nghiệp không thể nào đứng
vững trên thị trường. Trên cơ sở thông tin có được doanh nghiệp có thể tiến
hành phân tích mức độ ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, từ đó đưa ra các biện pháp hay sự thay đổi kịp thời.
- Cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp: một doanh nghiệp mà có một cơ
sở hạ tầng vững chắc, phân bố hợp lý, bố trí một cách khoa học làm cho việc
quản lý vốn lưu động đạt hiệu quả, do việc giảm thiểu chi phí vận chuyển,
bảo quản hàng tồn kho…
- Cơ cấu sản phẩm của doanh nghiệp: Cơ cấu sản phẩm của doanh
nghiệp được xác định theo phương châm: “Sản xuất và bán sản phẩm mà thị
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
18
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
trường cần chứ không phải đưa ra thị trường sản phẩm mà doanh nghiệp sẵn
có”. Cơ cấu sản phẩm ảnh hưởng đến việc tổ chức hoạt động của doanh
nghiệp. Cơ cấu sản phẩm ảnh hưởng đến hoạt động mua, cơ cấu sản phẩm
ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và sử dụng giá linh hoạt và cơ cấu sản phẩm

còn ảnh hưởng đến lao động sống và khấu hao tài sản cố định.
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
19
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 2: HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỒN LƯU ĐỘNG
TẠI CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN
XUẤT NHẬP KHẨU SẢN PHẨM CƠ KHÍ
(MECANIMEX CO., LTD)
2.1 Khái quát về công ty
Một cái nhìn tổng quát về công ty sẽ giúp chúng ta đi sâu vào nghiên
cứu hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Trước hết, chúng ta cần
hiểu biết chung về quá trình hình thành và phát triển, mô hình cơ cấu tổ chức
của công ty.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Với tên ban đầu là công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí được
thành lập theo quyết định số 88/CT ngày 02/03/1985 của Chính phủ mà
trước đây là hội đồng bộ trưởng và bắt đầu đi vào hoạt động kinh doanh
ngày 26 tháng 03 năm 1985 theo giấy phép kinh doanh số1.0.11.012/GP của
Bộ công nghiệp mà trước đây Bộ cơ khí luyện kim. Công ty bắt đầu đi vào
hoạt động từ những năm đầu của quá trìnnh chuyển đổi của đất nước từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Đây cũng là một thách
thức của công ty trước cơ chế mới. Nhưng với sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn
của các cán bộ cấp trên và sự quyết tâm của cả tập thể nhân viên trong công
ty, công ty mecanimex đã ngày càng lớn mạnh góp phần vào sự phát triển
chung của đất nước. Vào ngày 02 tháng 11 năm 2004 hoà nhập vào quy luật
chung của nên kinh tế thị trường, cùng với đường lối của Đảng ta về cổ phần
hoá các công ty Nhà nước. Theo quyết định số 120/2004/QĐ – BCN của Bộ
trưởng Bộ Công nghiệp về việc chuyển đổi Công ty xuất nhập khẩu các sản
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
20

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
phẩm cơ khí, doanh nghiệp hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty Máy và
Thiết bị công nghiệp thành Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành
viên Xuất nhập khẩu sản phẩm cơ khí.
- Tên công ty:
+ Tên đầy đủ bằng tiếng việt: công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước
một thành viên xuất nhập khẩu sản phẩm cơ khí.
+ Tên viết tắt bằng tiếng việt: công ty xuất nhập khẩu sản phẩm cơ khí.
+ Tên giao dịch quốc tế: mechanical products export – import
company limited
+ Tên viết tắt bằng tiếng anh: mecanimex co., ltd
- Với địa chỉ:
+ Trụ sở chính tại: 37 Tràng Thi, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà
Nội
Điện thoại: 04.8244138; 048257459
Fax: 84.04.9349904
Email:
Ngoài trụ sở chính được đặt tại Hà Nội Công ty còn đặt chi nhánh tại
Thành phố Hồ Chí Minh và nhà máy Quy chế Từ Sơn và một văn phòng đại
diện tại Hải Phòng.
- Chi nhánh Công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ: 12 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Email:
- Nhà máy Quy chế Từ Sơn
Địa chỉ: Thị trấn Từ Sơn, huyện Từ Sơn, Tỉnh Bắc Ninh
Email:
- Văn phòng đại diện tại Hải Phòng
Vốn điều lệ của công ty khoản gần 35 tỷ đồng.
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
21

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Điều kiện cơ sở vật chất của công ty:
Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên xuất nhập khẩu
sản phẩm cơ khí là một doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở sự sát nhập của
hai phòng: Phòng xuất nhập khẩu của Tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm
TOCOTAP và phòng xuất nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu máy
MECHINOIMPORT. Khi đó Công ty mecanimex đã trở thành doanh nghiệp
xuất nhập khẩu hàng đầu của Bộ Công nghiệp. Ngày 27 tháng 10 năm 1995
Công ty trở thành đơn vị thành viên của Tổng công ty Máy và Thiết bị Công
nghiệp theo quyết định số 1171/GP/TCNSĐT của Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp. Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân và hoạt động theo pháp luật
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo luật doanh nghiệp và
theo các điều lệ quy định của Bộ Công nghiệp. Công ty chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong số vốn do Công ty quản lý, có
con dấu riêng để giao dịch, có tài sản riêng và quỹ tập trung, được quyền mở
tài khoản riêng tại ngân hàng theo quy định của pháp luật. Công ty là một
đơn vị kinh doanh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại nên Công ty
có một cơ cấu gọn nhẹ với tài sản là một toà nhà sáu tầng và một bãi để xe
với tổng diện tích mặt bằng là 200 mét vuông. Công ty là một doanh nghiệp
nhà xuất nhập khẩu hàng đầu của Bộ Công nghiệp cho nên để hoạt động hiệu
quả Công ty đã trang bị đầy đủ điều kiện vật chất cho các phòng ban và nhân
viên đáp ứng yêu cầu của hoạt động sản xuất và kinh doanh của Công ty như
máy tính, máy fax, máy photocopy, điện thoại, xe ôtô…Tuy nhiên, là một
doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường xuyên mua bán hàng hoá nhưng Công
ty không có kho hàng riêng mà thường xuyên đi thuê điều này cũng là điểm
hạn chế trong công tác quản lý hàng tồn kho của Công ty.
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
22
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Kể từ ngày thành lập là ngày 02 tháng 03 năm 1985 cho đến nay,

Công ty mecanimex đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình phát
triển mà điển hình là hai giai đoạn sau:
- Giai đoạn đầu tiên: Kể từ ngày thành lập công ty cho đến năm 1990,
đây là giai đoạn trong bối cảnh nền kinh tế nước ta gặp không ít khó khăn và
trong nhiều thời điểm có những bước diễn biến phức tạp. Giai đoạn này,
Công ty hoạt động chủ yếu theo nghị định thư của Chính phủ Việt Nam với
Chính phủ các nước XHCN khác. Trong giai đoạn này, Công ty đã gặp
không ít khó khăn do sự sụp đổ của các nước XHCN ở Liên Xô (cũ) và
Đông Âu.
- Chuyển sang giai đoạn thứ hai: Từ năm 1991 cho đến nay, sau sự
sụp đổ của pháo đài XHCN ở Liên xô và Đông Âu. Dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng nước ta đã chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Quan điểm đổi mới
đúng đắn đã thể hiện sức sống đầy sinh động và đã đưa nền kinh tế nước ta
vào thời kỳ mới - Thời kỳ hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Trong cùng quá trình đổi mới đó Công ty cũng buộc phải chuyển đổi cơ chế
kinh doanh có sự hạch toán. Đây cũng chính là bước ngoặt lớn của Công ty,
đưa Công ty sang giai đoạn phát triển lên một tầm cao mới trong nền kinh tế.
Là một doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước nên với mục tiêu là không
ngừng tăng trưởng về mọi mặt. Trước hết là, mục tiêu cơ bản của doanh
nghiệp, cho đến nay vẫn là mưu cầu lợi nhuận. Đó là mục tiêu cơ bản, vì nó
tạo ra động lực cơ bản của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Mục tiêu
thứ hai là việc doanh nghiệp tuân theo các định hướng và chính sách của
Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và đổi mới quản
lý. Nó chính là sự kết hợp của quản lý vĩ mô với sự năng động sáng tạo của
doanh nghiệp, phấn đấu vì sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
23
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
nước. Mục tiêu thứ ba là mục tiêu xã hội chính là sự đề cao nhân tố con

người trong doanh nghiệp. Cuối cùng là mục tiêu đạo đức thể hiện qua việc
trả lương cho công nhân viên, giữ chữ tín với khách hàng, đối tác kinh
doanh, giải quyết thoả đáng nạn ô nhiễm môi trường tại nơi sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Với các mục tiêu đã được đề ra công ty đã không
ngừng phát triển mở rộng thêm các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình,
mà điển hình công ty đã thành công với hai dự án liên doanh sản xuất với
nước ngoài:
+ Một là, công ty đã liên doanh với tập đoàn Electronics Hàn Quốc,
xây dựng một nhà máy tại Hải Phòng để sản xuất máy điều hoà nhiệt độ,
máy giặt và tủ lạnh. Dự án đã được bắt đầu thực hiện từ năm 1996 và đã đưa
vào sản xuất từ cuối năm 1998. Với sự nỗ lực không ngừng của Công ty và
bên liên doanh nước ngoài, các sản phẩm điện tử của công ty khi đưa ra thị
trường đã được sự đánh giá tốt của người tiêu dùng trong nước và đã chiếm
được thị phần lớn trong lĩnh vực điện tử tại thị trường Việt Nam. Liên doanh
LG – Meca đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng với người dân Việt và
người dân trong khu vực.
+ Hai là, Công ty đã liên doanh với Thái Lan sản xuất tăm bông vệ
sinh.
Kết quả của sự nỗ lực và phấn đấu không ngừng của toàn thể cán bộ
và công nhân viên của Công ty, năm 2005 doanh thu đạt gần 500 tỷ đồng,
nộp ngân sách nhà nước hơn 100 tỷ đồng, góp phần đáng kể vào sự phát
triển chung của nền kinh tế đất nước.
2.1.2 Mô hình cơ cấu tổ chức của Công ty
Mô hình cơ cấu tổ chức của Công ty Mecanimex được tổ chức theo hệ
thống các phòng ban, mà đứng đầu là bộ phận quản lý (Các quản trị viên cấp
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
24
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
cao) sau đó là đến các phòng ban chức năng (Phòng hành chính, phòng kinh
doanh xuất nhập khẩu, phòng kinh doanh nội, phòng tổ chức kế hoạch,

phòng tài chính - kế toán) thực hiện chức năng xử lý thông tin.
2.1.2.1 Bộ phận quản lý
Bộ phận quản lý là bộ phận cấp cao của doanh nghiệp giữ vai trò quan
trọng trong việc quyết định phương hướng, bước đi của doanh nghiệp và đưa
ra các quyết định quản lý. Bộ phận quản lý bao gồm:
- Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty: do Tổng giám đốc Tổng
công ty Máy và Thiết bị Công nghiệp bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của Chủ tịch
công ty là 4 năm và có thể được bổ nhiệm lại. Chủ tịch công ty chịu trách
nhiệm trước đại diện chủ sở hữu và trước pháp luật về các quyết định của
mình, thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong luật Doanh nghiệp. Tổng
giám đốc điều hành công ty theo chế độ thủ trưởng, có quyền ra các quyết
định, chỉ thị buộc mọi người trong công ty phải nghiêm chỉnh chấp hành và
phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trước
pháp luật, trước Bộ Công nghiệp và toàn thể công nhân viên trong công ty.
Dưới Tổng giám đốc là các phó Tổng giám đốc công ty do Tổng giám
đốc công ty lựa chọn và đề nghị Bộ trưởng Bộ Công nghiệp bổ nhiệm. Phó
Tổng giám đốc giúp Tổng giám đốc điều hành công ty theo phân công và uỷ
quyền của Tổng giám đốc. Trong Công ty gồm có 3 phó Tổng giám đốc: phó
Tổng giám đốc thứ nhất kiêm giám đốc chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí
Minh, phó Tổng giám đốc thứ hai kiêm giám đốc nhà máy Quy chế Từ Sơn,
phó Tổng giám đốc thứ ba là người thường trực phụ trách kinh doanh tại trụ
sở chính ở Hà Nội.
Phó Tổng giám đốc có quyền kiểm tra đôn đốc và nhắc nhở các thành
viên trong phạm vi phụ trách của mình, được quyền kí kết các văn bản thuộc
chức năng và nhiệm vụ của mình và chịu trách nhiệm về nó, chịu trách
SV. NGUYỄN TUẤN ANH LỚP: TÀI CHÍNH 44D
25

×