Chủ đề: 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
BÀI LÀM
I- PHẦN MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và
phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất, mục tiêu
và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ; về
đặc điểm, nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi và biện pháp tiến hành
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu
là hướng đến là giành độc lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới. Cụ thể: Chế độ chính trị dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân; Đường lối và chính sách phát triển kinh tế phải được tạo lập trên cơ sở chế
độ sở hữu về tư liệu sản xuất; nền văn hóa mới và con người mới chủ nghĩa xã hội. Để
thực hiện được mục tiêu trên, cần xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, thay đổi triệt
để cái cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới. Muốn thế phải xây dựng nước ta từ một
nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp, phải cải tạo chủ nghĩa xã hội
và xây dựng thành một nước có nền văn hóa cao. Trên cơ sở mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta cần tập trung nghiên cứu phân tích các nội dung “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về tư tưởng chủ nghĩa xã hội và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay” để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào cơng cuộc đổi mới và phát triển của đất nước ta hiện nay.
II- PHẦN NỘI DUNG
* Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thổng tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa vãn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vơ cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đựờng cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ và đặc điểm xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1
1.1. Về thời kỳ quá độ
Theo quan điểm của các nhà kinh điển, có hai phương thức quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Phương thức thứ nhất là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ
những nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Phương thức thứ hai là quá độ gián
tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, hoặc
như V.LLênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ
phát triển của chủ nghĩa tư bản, cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong
điều kiện cụ thể nào đó, nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản
nắm quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên
tiến giúp đỡ.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng; về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình
thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là
tiến hành giải phóng dâh tộc, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến
dần lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thực hiện hình thái quá độ gián tiếp. Cụ thể:
Việt Nam quá độ từ một xã hội thuộc địa, phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sau khi
giành được độc lập dân tộc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Chính ở nội dung này, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa và bổ sung những
luận điểm làm phong phú thêm lý luận Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
1.2. Về đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới” tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hình thái quá độ gián tiếp với: “Đặc điểm to nhất
của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc
điểm này chi phối tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, Hồ
Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn
giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh
tế - xã hội quá thấp kém của nước ta (điểm xuất phát thấp); mâu thuẫn giữa những
tư tưởng mới xã hội chủ nghĩa, (đang hình thành) với những tàn tích phong kiến,
phản động do chế độ thực dân để lại; đây là thời kỳ đấu tranh quyết liệt giữa tư
tưởng cách mạng, tiến bộ với tư tưởng trì trệ lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa... Hồ Chí
Minh nhận định: “Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa
từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sổng,
2
thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm... biến nước tạ từ
một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp”.
1.3. Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
Theo Hồ Chí Minh, thực chất thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
là quá trìhh cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại.
Thực chất quá trình cải tạo, phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh
giai cấp gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ
bản cách mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có
những biến đổi. Điều này địi hỏi phải áp dụng tồn diện các hình thức đấu tranh về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con
đường xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng
ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội... tiến dần
lên chủ nghĩa xã hội, công nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa
học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo
nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và
lâu dài”. Đặc biệt quan trọng là vai trị lãnh đạo của Đảng “lãnh đạo tồn dân
thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
2.1. Về chính trị
Nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng. Đảng phải luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ
mới. Bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã trở thành đảng cầm
quyền. Mối quan tâm lớn nhất của Người về đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng
không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thối hóa, biến chất, làm mất lịng tin của
dân, có thể dẫn đến nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mối quan hệ máu thịt với
nhân dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình thức. Cùng với nội
dung nhiệm vụ xây dụng Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
việc củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh cơng
nhân, nơng dân và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
2.2. Về kinh tế
Hồ Chí Minh đã đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất,
cơ chế quản lý kinh tế, vấn đề tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công
3
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Người nhấn mạnh, chính sách kinh tế của
Đảng và Chính phủ nhằm thực hiện 4 mục tiêu: Công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi,
cơng nơng giúp nhau, lưu thơng trong ngồi: “Bốn chính sách ấy là mấu chốt để
phát triển kinh tế nước ta” .
Về cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấụ các thành
phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ. Người quan niệm hết sức độc đáo về
cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố
hệ thống thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa
mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh
lưu ý phải phát triển cả kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người chú trọng chỉ
đạo phát triển kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện
và nâng cao đời sống của đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất
nước. Xuất phát từ đặc điểm và điều kiện thực tiễn đất nước, Hồ Chí Minh là
người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Người xác định rõ vị trí và xu hướng
vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc
doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hộỉ, thúc đẩy việc cải tạo xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động,
Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển.
Về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp
đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gị ép, hình thức. Đối với người
làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư
liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi
vào con đường hợp tác. Đối với những nhà tư sản cơng thương, vì họ đã tham gia
ủng hộ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khơi
phục kinh tế và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất và của cải khác của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân
sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng các hình thức tư bản nhà nước.
Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân
phối và quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu
quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và
chỉ rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm không hưởng. Gắn liền với nguyên tắc
4
phân phối theo lao động, Hồ Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản
xuất: “Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích
người cơng nhân ln ln tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khốn là ích chung
và lại lợi riêng... làm khốn tốt thích hợp và cơng bằng dưới chế độ ta hiện nay”.
2.3. Về văn hóa- xã hội
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới. Đặc biệt,
Người đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật trong xã hội xã
hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định
phải có học thức, cần phải học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội
cộng với khoa học chắc chắn đưa lồi người đến hạnh phúc vơ tận. Hồ Chí Minh
rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trị
to lớn của văn hóa trong đời sống xã hội.
3. Bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ lịch sử, nội dung của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người chỉ ra hình thức, bước đi, biện pháp
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, biến nhận thức lý luận thành chương trình
hành động, thành hoạt động thực tiễn hằng ngày. Để xác định bước đi và tìm
cách làm phù hợp với Việt Nam, Hồ Chí Minh đề ra hai nguyên tắc có tính chất
phương pháp luận:
Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính
quốc tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng
chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước anh em. Học tập
những kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng khơng được sao chép, máy móc,
giáo đều. Hồ Chí Minh cho rằng, Việt Nam có thể làm khác Liên Xơ, Trung Quốc
và các nước khác, vì Việt Nam có điều kiện cụ thể khác.
Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu
xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của
nhân dân.
Trong khi nhấn mạnh hai nguyên tắc trên đây, Hồ Chí Minh lưu ý vừa chống
việc xa rời các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, quá tuyệt đối hóa cái
riêng, những đặc điểm của dân tộc, vừa chống máy móc, giáo đều khi áp dụng các
nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin mà khơng tính đến những điều kiện lịch sử cụ
thể của đất nước và của thời đại.
5
Cùng với việc chỉ ra bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện
pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã sử dụng một số
cách làm cụ thể sau đây:
- Thực hiện cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây
dựng, lấy xây dựng làm chính.
- Kết hợp xây đặng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở
hai miền Nam - Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực
hiện thắng lợi kế hoạch.
- Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội là đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng, phải huy động hết
tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem lại lợi ích cho dân. Nói cách khác, phải
biến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường
lối, chính sách để huy động và khai thác triệt để các nguồn lực của dân, vì lợi ích
của quần chúng lao động.
Mặc dù những quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất rõ ràng, cụ thể, nhưng do nhiều lý do
khách quan và chủ quan (hạn chế về kinh nghiệm, trình độ nhận thức lý luận; tiến
hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chiến tranh...) nên công cuộc cải
tạo kinh tế - xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1964); công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (trong thời kỳ quá độ) ở các thời kỳ sau đó đã
phạm phải nhiều hạn chê, khuyết điểm, sai lầm. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Đảng đã chỉ rõ: “Chúng ta có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ
thể của đất nước, trong việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội... chủ quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế,
cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm những sai lầm mới, nghiêm
trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thơng, đã bng lỏng chun chính vô sản
trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hóa, trong việc chống
lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù. Những sai lầm nói trên
là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về
tổ chức thực hiện... Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt
là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và
6
hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng bng lỏng trong quản lý kinh tế,
xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là
những biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh, vừa “hữu khuynh...”
Từ nhận thức đến hành động, Đảng đã rút ra những bài học từ hạn chế, sai
lầm, khuyết điểm... để xác định quyết tâm chính trị, khắc phục sai lầm, xây dựng
đường lối đổi mới, lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành tụ to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trong cơng cuộc đổi mới.
4. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin. Đó là các luận điểm về đặc
điểm, mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của
thời kỳ quá độ; về nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi và biện pháp
phù hợp của thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư tưởng đó trở
thành tài sản vơ giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên tri, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình
thức, biện pháp và bước đi phù hợp với những đặc điểm và xu thế vận động của
thời đại ngày nay.
Trên cơ sở tổng kết lý luận - thực tiễn, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã
hội; về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa, tiếp tục
đường lối đổi mới, kiên định theo con đường “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội” nhận thức của Đảng, bên cạnh những thời cơ, vận hội, hiện nay đất nước đang
phải đối đâu với hàng loạt thách thức, khỏ khăn cả trên bình diện quốc tế cũng như
từ các điều kiện thực tể trong nước. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng xác định trên
những vấn đề cơ bản cơ bản sau đây.
4.1 Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội là lý tưởng, đồng thời là mục tiêu cao cả của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong
điều kiện nước ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sau khi giành
được độc lập dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa trong
q trình phát triển của xã hội lồi người. Do đó, về nhận thức lý luận và thực tiễn,
7
cần khẳng định ràng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của toàn
dân tộc: Độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no, áo ấm cho mọi người
dân Việt Nam.
Dù đã đạt được những thành tựu quan trọng: Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản
vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc
khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra... Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc
khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới
tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư.
Từ thực tiễn và nhìn nhận trên bình diện thế giới, thực tiễn cách mạng Việt
Nam, quan điểm của Đảng là: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển
là thực sự vì con người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên
phẩm giá con người”. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và
công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu, nghèo và bất bình
đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng
tới giá trị tiến bộ, nhân văn chứ không phải cạnh tranh bất công “cá lớn nuốt cá bé”
vì lợi ít vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm.
4.2 Kiên định đường lối đổi mới của Đảng, khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Để vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh, điều kiện
mới, cần tiếp tục nâng cao nhận thức và hoàn thiện, đồng bộ nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia,
xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch”; “Tiếp tục hoàn
thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường”;
“Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc
tế”. Đảng nhấn mạnh, thực hiện kinh tế thị trường, phải tận dụng các mặt tích cực
của nó, đồng thời phải biết cách ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm
nhịp độ phát triển nhanh, bền vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, sức mạnh của nhân dân là sức mạnh vô
địch; nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng,
sức lao động, của cải là vô cùng to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc
nhằm xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
- Tin dân, trọng dân, dựa vào dân, chăm lo đời sống của nhân dân, xác lập
quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho chế độ dân chủ được thực hiện
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho
dân chủ thật sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội. Chăm lo mọi mặt đời
sông của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
8
- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh,
trên cơ sở lấy liên minh cơng - nơng - trí thức làm nịng cốt, tạo nên sự đồng thuận
xã hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
4.3 Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận
lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập
trung ở cuộc cách mạng khoa học, cơng nghệ, xu thế tồn cầu hóa. Chúng ta cần ra
sức tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả họp tác
quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đứng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản
lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, Hồ Chí Minh nêu rõ, sức mạnh thời đại còn là
những thành tựu của khoa học công nghệ và sức mạnh của các lực lượng u
chuộng hịa bình trên thế giới, của tình đồn kết quốc tế vơ sản vơ tư trong sáng...
Để có thể kết họp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh yêu cầu
phải tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước mình. Người
phân tích: “Tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất
đai tồn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và
nhân dân các nước khác để giữ gìn hịa bình thế giới, chống chính sách xâm lược
và chính sách chiến tranh của đế quốc... Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế
liên hệ khăng khít với nhau” . Tuy nhiên, Người chỉ rõ, kết hợp với sức mạnh thời
đại, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng quốc tế không phải là thụ động ngồi
chờ, mà phải có tinh thần chủ động, dựa vào sức mình là chính, bên cạnh tranh thủ
sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ
trên thế giới, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế của mình, tư tưởng của Người
đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn hiện nay, Đảng chỉ rõ, trên
tinh thần chủ động, tích cực hội nhập, phải phát huy nội lực là yếu tố quyết định
gắn với ngoại lực và sức mạnh thời đại; đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động
nâng cao nhận thức, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, lấy giá trị văn hóa, con
người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng; phát huy tinh thần
cống hiến vì đất nước của tất cả các tầng lớp nhân dân; coi đó là một nguồn lực to
lớn, mạnh mẽ của sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
9
4.4. Chăm lo xây đựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà
nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính,
một nhà nước kiến tạo, liêm chính, hành động thật sự của dân, do dân và vì dân.
Muốn vậy phải:
- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, thật sự là một đảng “đạo
đức, văn minh”; cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người
hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu
trong mọi việc.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, sáng suốt của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia
một cách đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm
khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính
quyền những “ơng quan cách mạng”, lạm. dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi
ích riêng; phát huy vai trị của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước,
hăng hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng
nước nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sách,
thành một chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một hành vi
văn hóa như Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Một dân tộc biết cần, biết kiệm” là một dân
tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày
càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.
III- KẾT LUẬN
Những thành tựu mà đất nước ta đạt được trong thời gian qua đã tiếp tục
khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, là nhân tố hàng đầu
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có
10
nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư
tưởng, ngọn cờ chiến đấu, ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn
đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong bối cảnh kinh tế nước ta đang hội nhập sâu rộng với kinh tế quốc tế,
sự phát triển vượt bật của nền kinh tế nước nhà cùng với sự phát triển của kinh tế
thị trường sẽ tạo ra những mặt trái của nó đó là sự phân hóa giàu nghèo, đạo đức xã
hội có phần bị xâm lấn gây ảnh hưởng đến trật tự an tồn xã hội. Vì vậy, việc
nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một việc làm
hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong cơng cuộc xây dựng và phát triển
đất nước hiện nay./.
-------------------------
11